Khám phá Việt nam và hơn thế nữa - Sài·gòn·eerĐịa điểm ăn uống, ẩm thực ở Hà Nội, Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Đà Lạt, cà phê, quán bar, review món ngon đường phố, kinh nghiệm du lịch, sự kiện, âm nhạc underground, review phim, review sáchhttps://saigoneer.com/vn/2025-10-22T20:16:43+07:00Joomla! - Open Source Content ManagementSách 'Kỹ thuật của người An Nam,' kho báu văn hóa bị lãng quên về Việt Nam thế kỷ 202025-10-22T12:00:00+07:002025-10-22T12:00:00+07:00https://saigoneer.com/vn/heritage/17651-sách-kỹ-thuật-của-người-an-nam,-kho-báu-văn-hóa-bị-lãng-quên-về-việt-nam-thế-kỷ-20Uyên Đỗ. info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/annamtop1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/anamtopfb1m.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>“Muốn cai trị tốt các dân tộc thuộc địa thì điều trước tiên là phải hiểu tường tận dân tộc mình cai trị như thế nào.” — Trích dẫn từ Paul Doumer, vị Toàn quyền Đông Dương thứ hai, đã phản ánh quan điểm của chính quyền thực dân Pháp khi chủ trương nghiên cứu văn hóa của các dân tộc bị đô hộ.<br /></em></p>
<p>Việc nghiên cứu các tập tính văn hóa như ngôn ngữ, phong tục bản địa từ lâu đã được chính quyền Pháp chính sách hóa để hiểu rõ cơ chế hoạt động của xã hội thuộc địa, từ đó đưa ra các phương thức kiểm soát lãnh thổ và duy trì bộ máy đô hộ của mình hiệu quả hơn.</p>
<p>Dưới thể chế này, nhiều thế hệ học giả phương Tây đã đến khảo sát nền văn hóa Việt Nam và để lại các công trình có giá trị lớn trong nghiên cứu dân tộc, thể như<em> Nghệ thuật xứ An Nam</em> của Henri Gourdon hay <em>Tâm lý người An Nam</em> của Paul Giran.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/annam1.webp" /></p>
<p class="image-caption">Trang đầu của Kỹ thuật của người An Nam, xuất bản năm 1908.</p>
<p>Nổi bật giữa địa hạt nghiên cứu nhân học sơ khai là <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> của Henri Oger — khắc họa đời sống của cư dân Bắc kỳ đầu thế kỷ 20. Khác với nhiều nhà nghiên cứu cùng thời, Henri Oger tập trung vào các kỹ thuật dân dụng và tập quán truyền thống, từ các nghề thủ công đến sinh hoạt, đồ vật hàng ngày, chứ không chỉ giới hạn ở các khía cạnh văn hóa cao cấp như nghệ thuật, kiến trúc.</p>
<p>Đặc biệt, thay vì đơn thuần sử dụng phương pháp lưu trữ truyền thống dựa trên ghi chép văn bản, ông chủ trương tiếp cận theo hướng đồ họa. Cùng một người thợ vẽ, ông đã đi thực địa khắp Hà Nội và các tỉnh lận cận để phác thảo tay các hoạt cảnh cuộc sống người Việt bấy giờ.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/1.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/2.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Dữ liệu ông thu thập sau đó được giao cho các nghệ nhân in khắc gỗ để biến thành mộc bản. Tất cả bản vẽ đều được Henri Oger nhờ người dân kiểm tra lại, chỉ khi có sự đồng thuận của họ mới được đem vào sản xuất. Mỗi đề mục thường bao gồm 2 phần: phần hình họa và phần chữ Nôm chú thích về nó.</p>
<p>Thành quả là hơn 4.200 hình mình họa, được ông phân chia theo 4 nhóm chủ đề: công việc thủ công sử dụng nguyên liệu thô từ thiên nhiên (nghề chài lưới, nghề nông); công việc gia công nguyên liệu từ thiên nhiên (chế tác kim loại, đồ gốm); công việc thủ công sử dụng nguyên liệu đã được chế biến (nghề sơn mài, điêu khắc đá); và đời sống cá nhân và công cộng ở xứ An Nam (bói toán, trò chơi dân gian).</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/3.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/5.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Từ đó, không chỉ những ngành nghề thủ công mà các những chi tiết thường nhật, dù nhỏ nhoi hay suồng sã — từ y phục quan lại, phong tục thờ cúng tổ tiên, nhạc cụ truyền thống, đến việc đẻ con rơi ngoài đường, đánh vợ, thiến trâu, v.v. — cũng được ông ghi lại một cách tỉ mỉ.</p>
<p>Henri Oger lần đầu đặt chân đến Việt Nam vào năm 1907 để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Trong thời gian làm việc tại Hà Nội trong 3 năm, ông bị cuốn hút bởi văn hóa đặc trưng của thị dân Hà Thành. Được phân bổ cho vị trí hành chính, ông phải nghiên cứu các nghề thủ công của người Việt để thống kê các thuật ngữ kỹ thuật.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/6.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/7.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Tuy nhiên, thay vì chỉ làm theo yêu cầu công việc, Henri Oger tham vọng thực hiện dự án khá dài hơi là <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> để phủ định quan điểm phổ biến trong giới thực dân bấy giờ rằng “kỹ nghệ ở xứ An Nam gần như là vắng bóng hoặc không đáng kể.” Động lực có lẽ như ông đã đề cập trong <a href="https://suckhoedoisong.vn/nguoi-phac-hoa-doi-song-van-hoa-an-nam-100-nam-truoc-16929708.htm" target="_blank">dẫn đề</a> của tác phẩm: “Ngay khi đặt chân tới Hà Nội, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với vùng đất này.”</p>
<p>Do khó khăn tài chính, Henri Oger chỉ có thể sản xuất và phát hành được 60 bản sách tại một hiệu in mà ông làm chủ. Toàn bộ kinh phí là do ông gây quỹ từ các nhà hảo tâm chứ không được hậu thuẫn bởi chính quyền. “Tác giả hơn nữa đã buộc phải làm việc mà không nhận được sự trợ giúp của bất kỳ cơ sở khoa học nào đóng tại đây để hiểu rõ hơn về xứ An Nam,” ông thừa nhận trong sách.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/8.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/9.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Nỗ lực theo đuổi dự án <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> bị Viện Viễn đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient), nơi ông công tác, xem như một hành động thách thức, vì chính quyền thực dân không đánh giá cao việc những nghiên cứu thể hiện sự đồng cảm với cư dân An Nam. Cùng với số lượng bản in ít ỏi, công trình dần rơi vào quên lãng trong giới học thuật Đông Dương lẫn tâm thức công chúng. Henri Oger quay trở lại Pháp năm 1916 và biến mất mà không để lại tung tích vào năm 1936.</p>
<p>Các bản sách cũng bị lưu lạc ở nhiều nơi, trên thế giới chỉ ghi nhận 4 bản lưu gốc trong các thư viện tại Việt Nam và Pháp. Ngoài ra, còn có một ấn bản không chính thức chứa đựng hơn 200 trang và 4.000 hình vẽ mới chưa bao giờ được công bố do Đại học Keio, Nhật Bản lưu trữ. Bản lưu được cho là thuộc về bộ sưu tập cá nhân của Henri Oger, bị gia quyến của ông bán đi sau khi ông biến mất.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/10.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/11.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Mãi đến thời hiện đại, <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> mới nhận được sự công nhận bởi cả chính quyền Pháp và Việt Nam như một công trình quý giá: một quyển từ điển hình ảnh có thể nói là độc nhất về quy mô cũng như chiều sâu văn hóa, vượt qua những khuôn khổ và diễn ngôn thực dân bị áp đặt lên các nghiên cứu bấy giờ. Như nhà sử học Phan Huy Lê đã <a href="https://thanhnien.vn/mot-the-ky-luu-lac-cua-cuon-su-bang-tranh-185425372.htm" target="_blank">bình luận</a>: “Cái quý nhất là Oger đã không theo phong cách phương Tây mà tạo cho mình phong cách mới trên cơ sở nhận thức được đặc trưng văn hóa có tính chất dân dã rất thú vị.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/12.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/13.webp" alt="" /></div>
</div>
<p><strong>Độc giả có thể xem <a href="https://www.loc.gov/resource/gdcwdl.wdl_14383/?st=pdf" target="_blank">bản lưu trữ hoàn chỉnh</a> của <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ.</strong></p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/annamtop1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/anamtopfb1m.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>“Muốn cai trị tốt các dân tộc thuộc địa thì điều trước tiên là phải hiểu tường tận dân tộc mình cai trị như thế nào.” — Trích dẫn từ Paul Doumer, vị Toàn quyền Đông Dương thứ hai, đã phản ánh quan điểm của chính quyền thực dân Pháp khi chủ trương nghiên cứu văn hóa của các dân tộc bị đô hộ.<br /></em></p>
<p>Việc nghiên cứu các tập tính văn hóa như ngôn ngữ, phong tục bản địa từ lâu đã được chính quyền Pháp chính sách hóa để hiểu rõ cơ chế hoạt động của xã hội thuộc địa, từ đó đưa ra các phương thức kiểm soát lãnh thổ và duy trì bộ máy đô hộ của mình hiệu quả hơn.</p>
<p>Dưới thể chế này, nhiều thế hệ học giả phương Tây đã đến khảo sát nền văn hóa Việt Nam và để lại các công trình có giá trị lớn trong nghiên cứu dân tộc, thể như<em> Nghệ thuật xứ An Nam</em> của Henri Gourdon hay <em>Tâm lý người An Nam</em> của Paul Giran.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/annam1.webp" /></p>
<p class="image-caption">Trang đầu của Kỹ thuật của người An Nam, xuất bản năm 1908.</p>
<p>Nổi bật giữa địa hạt nghiên cứu nhân học sơ khai là <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> của Henri Oger — khắc họa đời sống của cư dân Bắc kỳ đầu thế kỷ 20. Khác với nhiều nhà nghiên cứu cùng thời, Henri Oger tập trung vào các kỹ thuật dân dụng và tập quán truyền thống, từ các nghề thủ công đến sinh hoạt, đồ vật hàng ngày, chứ không chỉ giới hạn ở các khía cạnh văn hóa cao cấp như nghệ thuật, kiến trúc.</p>
<p>Đặc biệt, thay vì đơn thuần sử dụng phương pháp lưu trữ truyền thống dựa trên ghi chép văn bản, ông chủ trương tiếp cận theo hướng đồ họa. Cùng một người thợ vẽ, ông đã đi thực địa khắp Hà Nội và các tỉnh lận cận để phác thảo tay các hoạt cảnh cuộc sống người Việt bấy giờ.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/1.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/2.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Dữ liệu ông thu thập sau đó được giao cho các nghệ nhân in khắc gỗ để biến thành mộc bản. Tất cả bản vẽ đều được Henri Oger nhờ người dân kiểm tra lại, chỉ khi có sự đồng thuận của họ mới được đem vào sản xuất. Mỗi đề mục thường bao gồm 2 phần: phần hình họa và phần chữ Nôm chú thích về nó.</p>
<p>Thành quả là hơn 4.200 hình mình họa, được ông phân chia theo 4 nhóm chủ đề: công việc thủ công sử dụng nguyên liệu thô từ thiên nhiên (nghề chài lưới, nghề nông); công việc gia công nguyên liệu từ thiên nhiên (chế tác kim loại, đồ gốm); công việc thủ công sử dụng nguyên liệu đã được chế biến (nghề sơn mài, điêu khắc đá); và đời sống cá nhân và công cộng ở xứ An Nam (bói toán, trò chơi dân gian).</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/3.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/5.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Từ đó, không chỉ những ngành nghề thủ công mà các những chi tiết thường nhật, dù nhỏ nhoi hay suồng sã — từ y phục quan lại, phong tục thờ cúng tổ tiên, nhạc cụ truyền thống, đến việc đẻ con rơi ngoài đường, đánh vợ, thiến trâu, v.v. — cũng được ông ghi lại một cách tỉ mỉ.</p>
<p>Henri Oger lần đầu đặt chân đến Việt Nam vào năm 1907 để thực hiện nghĩa vụ quân sự. Trong thời gian làm việc tại Hà Nội trong 3 năm, ông bị cuốn hút bởi văn hóa đặc trưng của thị dân Hà Thành. Được phân bổ cho vị trí hành chính, ông phải nghiên cứu các nghề thủ công của người Việt để thống kê các thuật ngữ kỹ thuật.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/6.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/7.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Tuy nhiên, thay vì chỉ làm theo yêu cầu công việc, Henri Oger tham vọng thực hiện dự án khá dài hơi là <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> để phủ định quan điểm phổ biến trong giới thực dân bấy giờ rằng “kỹ nghệ ở xứ An Nam gần như là vắng bóng hoặc không đáng kể.” Động lực có lẽ như ông đã đề cập trong <a href="https://suckhoedoisong.vn/nguoi-phac-hoa-doi-song-van-hoa-an-nam-100-nam-truoc-16929708.htm" target="_blank">dẫn đề</a> của tác phẩm: “Ngay khi đặt chân tới Hà Nội, tôi đã có một tình cảm đặc biệt với vùng đất này.”</p>
<p>Do khó khăn tài chính, Henri Oger chỉ có thể sản xuất và phát hành được 60 bản sách tại một hiệu in mà ông làm chủ. Toàn bộ kinh phí là do ông gây quỹ từ các nhà hảo tâm chứ không được hậu thuẫn bởi chính quyền. “Tác giả hơn nữa đã buộc phải làm việc mà không nhận được sự trợ giúp của bất kỳ cơ sở khoa học nào đóng tại đây để hiểu rõ hơn về xứ An Nam,” ông thừa nhận trong sách.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/8.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/9.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Nỗ lực theo đuổi dự án <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> bị Viện Viễn đông Bác cổ (École française d'Extrême-Orient), nơi ông công tác, xem như một hành động thách thức, vì chính quyền thực dân không đánh giá cao việc những nghiên cứu thể hiện sự đồng cảm với cư dân An Nam. Cùng với số lượng bản in ít ỏi, công trình dần rơi vào quên lãng trong giới học thuật Đông Dương lẫn tâm thức công chúng. Henri Oger quay trở lại Pháp năm 1916 và biến mất mà không để lại tung tích vào năm 1936.</p>
<p>Các bản sách cũng bị lưu lạc ở nhiều nơi, trên thế giới chỉ ghi nhận 4 bản lưu gốc trong các thư viện tại Việt Nam và Pháp. Ngoài ra, còn có một ấn bản không chính thức chứa đựng hơn 200 trang và 4.000 hình vẽ mới chưa bao giờ được công bố do Đại học Keio, Nhật Bản lưu trữ. Bản lưu được cho là thuộc về bộ sưu tập cá nhân của Henri Oger, bị gia quyến của ông bán đi sau khi ông biến mất.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/10.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/11.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Mãi đến thời hiện đại, <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> mới nhận được sự công nhận bởi cả chính quyền Pháp và Việt Nam như một công trình quý giá: một quyển từ điển hình ảnh có thể nói là độc nhất về quy mô cũng như chiều sâu văn hóa, vượt qua những khuôn khổ và diễn ngôn thực dân bị áp đặt lên các nghiên cứu bấy giờ. Như nhà sử học Phan Huy Lê đã <a href="https://thanhnien.vn/mot-the-ky-luu-lac-cua-cuon-su-bang-tranh-185425372.htm" target="_blank">bình luận</a>: “Cái quý nhất là Oger đã không theo phong cách phương Tây mà tạo cho mình phong cách mới trên cơ sở nhận thức được đặc trưng văn hóa có tính chất dân dã rất thú vị.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/12.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/02/23/annam/13.webp" alt="" /></div>
</div>
<p><strong>Độc giả có thể xem <a href="https://www.loc.gov/resource/gdcwdl.wdl_14383/?st=pdf" target="_blank">bản lưu trữ hoàn chỉnh</a> của <em>Kỹ thuật của người An Nam</em> tại Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ.</strong></p></div>Điểm lại những 'chị đẹp đạp gió rẽ sóng' trong cổ tích Việt Nam2025-10-20T11:00:00+07:002025-10-20T11:00:00+07:00https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17976-điểm-lại-những-chị-đẹp-đạp-gió-rẽ-sóng-trong-cổ-tích-việt-namĐình Phúc. Minh họa: Ngọc Tạ.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/chidepweb1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/chidepfb1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Đạp cơn gió định kiến, cưỡi con sóng lề lối lễ nghi, giai thoại về các nữ nhân xưa có sức mạnh vượt thời đại, gửi gắm tiếng nói nữ quyền đến tâm hồn hậu thế khát khao bình đẳng.<br /></em></p>
<p>Ngày nhỏ, tôi từng tin một cách rất ngây ngô rằng chỉ những người như Thánh Gióng, Thạch Sanh hay Sơn Tinh mới xứng làm nhân vật chính, vì chỉ họ mới có sức mạnh trời cho để cứu dân khỏi cảnh lầm than. Niềm tin trẻ con ấy phần nào phản ánh ảnh hưởng của mô-típ cổ tích quen thuộc, thường lấy nam giới làm đại diện cho khía cạnh mạnh mẽ và chính nghĩa của con người.</p>
<p>Nhưng khi lớn hơn một chút, tôi mới dần nhận ra kho tàng cổ tích nước mình sâu rộng đến nhường nào. Trong những mẩu truyện đã đi qua đời tôi, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ tài trí và kiên cường, vượt lên nghịch cảnh để tung bay trên đôi cánh tự do.</p>
<p>Có người tự chọn cho mình một cuộc đời độc lập, không màng những khuôn phép hà khắc. Có người lại mang trong mình tinh thần quả cảm, sẵn sàng gánh vác cả giang sơn, xã tắc. Họ là những bóng hồng truyền cảm hứng, đại diện cho khát vọng được sống, được lựa chọn và được làm chủ chính mình. </p>
<h3>Âu Cơ: Vị tổ mẫu quyền uy từ những lựa chọn quyết liệt</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/auco.webp" /></p>
<p><span style="background-color: transparent;">Trong ‘Con Rồng Cháu Tiên,’ Âu Cơ hiện lên với tầm vóc của một quốc mẫu, người mẹ khai sinh bọc trăm trứng khởi đầu giống nòi Việt. Nhưng bên cạnh biểu tượng thiêng liêng ấy, hình tượng Âu Cơ còn ẩn chứa tinh thần tự chủ và khí chất lãnh đạo mẫu hệ từ thuở hồng hoang.</span></p>
<p>Ngay từ khi xuất hiện trong những áng văn cổ, cái tên Âu Cơ đã ghi dấu bằng chính lựa chọn của mình. Là một nữ nhân phương Bắc chu du xuống phương Nam, Âu Cơ đem lòng yêu mến dung mạo và chí khí của Lạc Long Quân, quyết định ở lại và nên duyên vợ chồng cùng vị thần này. Đến khi bọc trăm trứng nở trăm con, nàng lại vì cảnh đơn chiếc, thiếu vắng chồng, khi Lạc Long Quân mải miết ở Thủy Quốc, mà quyết định đưa các con trở về quê cũ. Tin tưởng ở lại vì lý tưởng tình yêu, Âu Cơ cũng đủ dũng khí để rời đi khi mối tình ấy ngày càng phai nhạt.</p>
<p>Sự quyết liệt đó của nàng đã mở ra bước ngoặt mang tính biểu tượng trong truyền thuyết: cuộc chia ly giữa hai bậc Tiên-Rồng, chia đôi trăm con theo lời Lạc Long Quân. Dù các bản dịch<em> Lĩnh Nam chích quái</em> có khác biệt câu chữ, tất cả đều ghi lại lời trách thẳng thắn của Âu Cơ dành cho vị tổ phụ nước Việt:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, <br />không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình.”<br /> (bản dịch Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San)</div>
<p>Âu Cơ đã đặt vị thế bản thân ngang hàng với Lạc Long Quân trong cuộc hôn nhân. Nàng không phải kẻ phụ thuộc, mà sẵn sàng chất vấn trách nhiệm của chồng mình trong việc đồng hành dựng xây gia đình, nuôi dạy con cái. Để rồi khi không thể dung hòa lối sống, Âu Cơ đã đồng thuận trong việc “ly hôn,” mang 50 con về với cội nguồn giống Tiên, về với bản thể tự do, thanh cao của mình.</p>
<p>Ở chốn núi non, nàng là một người mẹ tự quyết con đường nuôi dạy con cái, sẵn sàng suy tôn con trai trưởng trở thành vị lãnh đạo đầu tiên của quốc gia. Công mở đường cho thời đại Hùng Vương rực rỡ khiến Âu Cơ không chỉ là nhân vật mang bản lĩnh cá nhân, mà còn là biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ chủ động lãnh đạo và dám kiến tạo bản sắc văn hóa Việt.</p>
<h3>Tiên Dung: Công chúa kiến tạo vận mệnh bởi khí khái bất phàm</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/tiendung.webp" /></p>
<p>Câu chuyện về Tiên Dung vốn được biết đến qua mối duyên kỳ ngộ với Chử Đồng Tử, người sau này được tôn làm một trong “Tứ bất tử.” Nhưng đằng sau bóng dáng người vợ tào khang ấy là một cá tính tự do và kiêu hãnh, một người phụ nữ có hành trình rực rỡ và tự chủ chẳng kém bất kỳ bậc anh hùng nào.</p>
<p>Là con gái vua Hùng, Tiên Dung mang tư chất vượt thời đại, khác hẳn hình tượng công chúa khuôn phép thường thấy. Nàng ưa ngao du, say mê trời biển, mây gió. Trong khi các Mị Nương khác được gả đi để trọn đạo chính trị, Tiên Dung lại nguyện không lấy chồng, chỉ mong được sống theo ý mình giữa trời bể bao la.</p>
<p>Nhưng điều đó không khiến mối duyên giữa nàng và Chử Đồng Tử trở nên mâu thuẫn. Trái lại, nó thể hiện rõ nhất tinh thần tự do mà Tiên Dung tin tưởng: tự do chọn người mình yêu. Bởi vậy, khi vô tình thấy thân thể trần truồng của Chử Đồng Tử, nàng không hổ thẹn thoái thác, mà dám đứng ra nhận trách nhiệm cho định mệnh, cho đúng với lý tưởng hôn nhân tự do mà nàng hằng tin. Dẫu Chử Đồng Tử e ngại vì thân phận cơ hàn, Tiên Dung vẫn kiên định:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối?” <br />(bản dịch Lê Hữu Mục)</div>
<p>Với nàng, “thuận theo trời” không có nghĩa là phó mặc, mà là dám lắng nghe lòng mình.</p>
<p>Sự sáng suốt ấy giúp Tiên Dung vững vàng vượt qua những chỉ trích của vua cha và cả hệ thống lễ nghi cung đình. Mặc kệ thân phận nghèo hàn của Chử Đồng Tử, nàng quyết cùng chồng gây dựng cuộc sống mới: lập chợ, buôn bán, mở mang giao thương, một hành trình khởi nghiệp của hai tâm hồn tự do.</p>
<p>Vượt khỏi khuôn phép “tề gia nội trợ,” Tiên Dung cùng chồng tu tập, tự định đoạt con đường tâm linh của mình, rồi cùng đắc đạo. Khi vua cha nổi giận muốn trừng phạt, nàng không trốn tránh mà bình thản đối mặt, để rồi cảm động trời đất, cả hai hóa thân thăng thiên giữa hào quang huyền diệu.</p>
<p>Phép lạ của Tiên Dung không chỉ là thoát khỏi gươm giáo vua cha, mà còn là minh chứng cho sức mạnh của người phụ nữ dám lựa chọn và kiến tạo vận mệnh. Hình ảnh ấy vang lên như khúc ca về tự do, khi người phụ nữ không còn là cái bóng của ai, mà chính là người cầm lái con thuyền đời mình giữa muôn trùng sóng gió.</p>
<h3>Tấm: Bản tuyên ngôn tự quyết thân phận bằng muôn lần tái sinh</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/tam1.webp" /></p>
<p>Trong tâm khảm của người Việt Nam, những khổ ải của nàng Tấm đã quá đỗi thân thuộc. Nhưng Tấm không chỉ là một thân phận nhỏ bé bị vần vũ bởi lễ giáo và thứ bậc. Điều làm nên huyền thoại của nàng chính là những khoảnh khắc vượt thoát, những lần nàng tự mình viết lại số phận bằng những hình thức biến hóa kỳ lạ và kiên cường.</p>
<p>Kể từ khi được Bụt giúp đỡ thành công thoát khỏi gia đình của mẹ ghẻ, bước chân vào lầu son gác tía với thân phận hoàng hậu, hành trình của Tấm là một chuỗi những phép màu do chính nàng tạo ra, nhằm phản kháng mạnh mẽ trước tà ác rình rập. Bao lần bị tước đoạt mất mạng sống, Tấm vẫn không ngừng tái sinh, như một lời khẳng định đanh thép cho khát vọng được tự quyết số phận. Những hình tượng mà Tấm biến hóa cũng khôn lường, từ con vật, đồ vật đến cây cối đều có đủ. Nàng không chỉ quyết định về khoảnh khắc tái sinh, mà thậm chí tự vẽ nên những hình thái, dáng vẻ của chính mình.</p>
<p>Mỗi lần biến thân tuy khác nhau, nhưng tinh thần phản kháng của Tấm vẫn vẹn nguyên và mạnh mẽ. Đó là con chim vàng anh xẵng giọng đe dọa:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào<br />Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.” <br />(bản chép Nguyễn Đổng Chi)</div>
<p style="text-align: left;">Là khung cửi cót két sẵn sàng mỉa mai:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Cót ca cót két<br /><span style="background-color: transparent;">Lấy tranh chồng chị<br /></span><span style="background-color: transparent;">Chị khoét mắt ra.” <br />(bản chép Nguyễn Đổng Chi).</span></div>
<p>Cô Tấm ngoan hiền chỉ có thể khóc rấm rứt tủi thân của ngày xưa đã biến mất, thay vào đó là một nàng Tấm không cam chịu, sẵn sàng đáp trả, giành lại những gì xứng đáng thuộc về mình.</p>
<p>Tấm không phải “hắc hóa” mà để ngọn lửa hận thù cuốn trôi đi nhân tính của mình hoàn toàn. Con chim ấy tuy lên giọng với Cám, nhưng lại hiền dịu đậu vào tay áo của người chồng yêu thương. Khung cửi tuy cót két giọng điệu chua chát, nhưng lại dệt cho vua gấm áo lụa là. Quả thị tuy nhỏ bé nhưng biết đáp đền công ơn người hái đã cưu mang. Chính bởi giữ được ánh sáng thiện lương trong từng lần hóa thân, Tấm mới có đủ sức mạnh để dưỡng nuôi ý chí phản kháng đến cuối con đường.</p>
<p>Nhưng hơn hết, mỗi lần tái sinh còn là một lần nàng bảo lưu nhân phẩm, là một lần nàng khẳng định rằng cái chết hay sự áp đặt không thể xóa đi quyền được sống trọn vẹn. Tấm trở thành hình ảnh phảng phất những mong ước vượt thoát định mệnh, mong ước của muôn vàn phụ nữ: được tự chủ, được công bằng, và được đi theo tiếng gọi của lòng mình.</p>
<h3>Cô Út: Hình mẫu của lòng tin và sức mạnh nội tại của phụ nữ</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/cout1.webp" /></p>
<p>Trong câu chuyện ‘Sọ Dừa,’ chàng trai kỳ dị ấy hiện lên như một vị thần giáng thế, hóa thân xấu xí để thử lòng người đời. Với cha mẹ nghèo khó đã hết mực yêu thương, chàng đáp lại bằng phú quý, nhà cao cửa rộng. Với cô Út, người duy nhất không chê thân phận hèn mọn, chàng trao tặng vinh hiển, địa vị và cả sự sống khi nàng đối diện lằn ranh sinh tử.</p>
<p>Nhưng nếu nhìn câu chuyện ở một góc nhìn bình đẳng hơn, ta thấy cô Út không phải chỉ là một người được Sọ Dừa “cứu chuộc” mà chính những phẩm chất đáng quý của nàng mới nâng đỡ cuộc đời chính mình. Khi Sọ Dừa xin được chăn trâu cho nhà phú ông, trong ba người con gái, chỉ có cô Út là đối đãi chàng tử tế. Để rồi một ngày tình cờ nghe được tiếng sáo giữa đồng trâu, nhìn thấy tướng mạo chàng khôi ngô, nàng bèn sinh lòng cảm mến Sọ Dừa, tin tưởng chàng không phải người phàm trần.</p>
<p>Có thể xem nhân dạng xấu xí của Sọ Dừa như ẩn dụ cho những giới hạn mà con người bị trói buộc: ngoại hình, giai cấp, địa vị. Hai cô chị hắt hủi chàng là tiếng vọng của những bất công cố hữu, còn cô Út là người dám đi ngược lại lề thói, dám tin vào cái thiện trong nội tâm của chàng. Nhờ lòng tin và sự tử tế ấy, Sọ Dừa sẵn sàng hóa thân, sống thật với chính mình, và tình cảm của họ nảy nở từ đó.</p>
<p>Chính chọn lựa ấy đã mở ra mối duyên vợ chồng từ lòng tin và nghị lực của đôi bên. Nhưng hai cô chị, như những cơn sóng dữ của định mệnh, đã nhân lúc Sọ Dừa lên kinh đi sứ, mà đẩy ngã em mình xuống biển. Trôi lạc một mình giữa ngàn khơi, cô Út đã dùng bản lĩnh của mình để vượt qua hiểm nguy và sinh tồn nhờ những đồ mà Sọ Dừa để lại: con dao mổ bụng cá kình, hòn đá đánh lửa, đôi trứng nở thành gà bầu bạn cùng cô giữa đảo hoang. Và rồi một buổi bình minh, con gà đã cất tiếng gáy khải hoàn:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Ò…ó…o<br />Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.” <br />(bản chép Nguyễn Đổng Chi)</div>
<p>Bình minh của cô Út đã đến bằng niềm vui đoàn tụ cùng người chồng đầu ắp tay gối, nhưng hơn hết đó là cả một chiến thắng của một người phụ nữ nhân hậu và thông tuệ. Từ niềm tin chân thành để tự quyết cuộc hôn nhân với Sọ Dừa, cô Út cũng giữ vững lòng tin ấy khi đối mặt hiểm nguy. Sự sinh tồn của nàng, sau tất cả, trở thành hình mẫu cho nghị lực tự thân của người phụ nữ vượt qua mọi nghịch cảnh.</p>
<h3>Kết</h3>
<p>Truyện cổ tích vốn là chiếc đĩa than ghi lại tất thảy những mong ước của người xưa gửi gắm trong những phép lạ của cõi trần thế. Và trong những giai điệu ngàn năm đó, sự hiện diện của người phụ nữ là tiếng vọng thống thiết nhất của hàng vạn số phận, mong mỏi được thoát khỏi những bất công, khuôn phép đã giam hãm họ trong chiếc lồng son của “tam tòng, tứ đức.”</p>
<p>Những tiếng vọng đó biến những phụ nữ trong truyện cổ tích Việt Nam trở thành những hình bóng mạnh mẽ bằng tất cả nỗ lực tự quyết định, nghị lực sinh tồn, năng lực kiến tạo và tinh thần phản kháng. Dù nằm trong khuôn khổ huyền thoại và dân gian, những Âu Cơ, Tiên Dung, cô Tấm, nàng Út hay hằng hà sa số nhân vật nữ đã gieo vào văn hóa dân tộc hạt mầm của tinh thần bình đẳng và nguồn cảm hứng vượt thời gian về giá trị của phái nữ.</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/chidepweb1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/chidepfb1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Đạp cơn gió định kiến, cưỡi con sóng lề lối lễ nghi, giai thoại về các nữ nhân xưa có sức mạnh vượt thời đại, gửi gắm tiếng nói nữ quyền đến tâm hồn hậu thế khát khao bình đẳng.<br /></em></p>
<p>Ngày nhỏ, tôi từng tin một cách rất ngây ngô rằng chỉ những người như Thánh Gióng, Thạch Sanh hay Sơn Tinh mới xứng làm nhân vật chính, vì chỉ họ mới có sức mạnh trời cho để cứu dân khỏi cảnh lầm than. Niềm tin trẻ con ấy phần nào phản ánh ảnh hưởng của mô-típ cổ tích quen thuộc, thường lấy nam giới làm đại diện cho khía cạnh mạnh mẽ và chính nghĩa của con người.</p>
<p>Nhưng khi lớn hơn một chút, tôi mới dần nhận ra kho tàng cổ tích nước mình sâu rộng đến nhường nào. Trong những mẩu truyện đã đi qua đời tôi, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ tài trí và kiên cường, vượt lên nghịch cảnh để tung bay trên đôi cánh tự do.</p>
<p>Có người tự chọn cho mình một cuộc đời độc lập, không màng những khuôn phép hà khắc. Có người lại mang trong mình tinh thần quả cảm, sẵn sàng gánh vác cả giang sơn, xã tắc. Họ là những bóng hồng truyền cảm hứng, đại diện cho khát vọng được sống, được lựa chọn và được làm chủ chính mình. </p>
<h3>Âu Cơ: Vị tổ mẫu quyền uy từ những lựa chọn quyết liệt</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/auco.webp" /></p>
<p><span style="background-color: transparent;">Trong ‘Con Rồng Cháu Tiên,’ Âu Cơ hiện lên với tầm vóc của một quốc mẫu, người mẹ khai sinh bọc trăm trứng khởi đầu giống nòi Việt. Nhưng bên cạnh biểu tượng thiêng liêng ấy, hình tượng Âu Cơ còn ẩn chứa tinh thần tự chủ và khí chất lãnh đạo mẫu hệ từ thuở hồng hoang.</span></p>
<p>Ngay từ khi xuất hiện trong những áng văn cổ, cái tên Âu Cơ đã ghi dấu bằng chính lựa chọn của mình. Là một nữ nhân phương Bắc chu du xuống phương Nam, Âu Cơ đem lòng yêu mến dung mạo và chí khí của Lạc Long Quân, quyết định ở lại và nên duyên vợ chồng cùng vị thần này. Đến khi bọc trăm trứng nở trăm con, nàng lại vì cảnh đơn chiếc, thiếu vắng chồng, khi Lạc Long Quân mải miết ở Thủy Quốc, mà quyết định đưa các con trở về quê cũ. Tin tưởng ở lại vì lý tưởng tình yêu, Âu Cơ cũng đủ dũng khí để rời đi khi mối tình ấy ngày càng phai nhạt.</p>
<p>Sự quyết liệt đó của nàng đã mở ra bước ngoặt mang tính biểu tượng trong truyền thuyết: cuộc chia ly giữa hai bậc Tiên-Rồng, chia đôi trăm con theo lời Lạc Long Quân. Dù các bản dịch<em> Lĩnh Nam chích quái</em> có khác biệt câu chữ, tất cả đều ghi lại lời trách thẳng thắn của Âu Cơ dành cho vị tổ phụ nước Việt:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi, <br />không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình.”<br /> (bản dịch Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San)</div>
<p>Âu Cơ đã đặt vị thế bản thân ngang hàng với Lạc Long Quân trong cuộc hôn nhân. Nàng không phải kẻ phụ thuộc, mà sẵn sàng chất vấn trách nhiệm của chồng mình trong việc đồng hành dựng xây gia đình, nuôi dạy con cái. Để rồi khi không thể dung hòa lối sống, Âu Cơ đã đồng thuận trong việc “ly hôn,” mang 50 con về với cội nguồn giống Tiên, về với bản thể tự do, thanh cao của mình.</p>
<p>Ở chốn núi non, nàng là một người mẹ tự quyết con đường nuôi dạy con cái, sẵn sàng suy tôn con trai trưởng trở thành vị lãnh đạo đầu tiên của quốc gia. Công mở đường cho thời đại Hùng Vương rực rỡ khiến Âu Cơ không chỉ là nhân vật mang bản lĩnh cá nhân, mà còn là biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ chủ động lãnh đạo và dám kiến tạo bản sắc văn hóa Việt.</p>
<h3>Tiên Dung: Công chúa kiến tạo vận mệnh bởi khí khái bất phàm</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/tiendung.webp" /></p>
<p>Câu chuyện về Tiên Dung vốn được biết đến qua mối duyên kỳ ngộ với Chử Đồng Tử, người sau này được tôn làm một trong “Tứ bất tử.” Nhưng đằng sau bóng dáng người vợ tào khang ấy là một cá tính tự do và kiêu hãnh, một người phụ nữ có hành trình rực rỡ và tự chủ chẳng kém bất kỳ bậc anh hùng nào.</p>
<p>Là con gái vua Hùng, Tiên Dung mang tư chất vượt thời đại, khác hẳn hình tượng công chúa khuôn phép thường thấy. Nàng ưa ngao du, say mê trời biển, mây gió. Trong khi các Mị Nương khác được gả đi để trọn đạo chính trị, Tiên Dung lại nguyện không lấy chồng, chỉ mong được sống theo ý mình giữa trời bể bao la.</p>
<p>Nhưng điều đó không khiến mối duyên giữa nàng và Chử Đồng Tử trở nên mâu thuẫn. Trái lại, nó thể hiện rõ nhất tinh thần tự do mà Tiên Dung tin tưởng: tự do chọn người mình yêu. Bởi vậy, khi vô tình thấy thân thể trần truồng của Chử Đồng Tử, nàng không hổ thẹn thoái thác, mà dám đứng ra nhận trách nhiệm cho định mệnh, cho đúng với lý tưởng hôn nhân tự do mà nàng hằng tin. Dẫu Chử Đồng Tử e ngại vì thân phận cơ hàn, Tiên Dung vẫn kiên định:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối?” <br />(bản dịch Lê Hữu Mục)</div>
<p>Với nàng, “thuận theo trời” không có nghĩa là phó mặc, mà là dám lắng nghe lòng mình.</p>
<p>Sự sáng suốt ấy giúp Tiên Dung vững vàng vượt qua những chỉ trích của vua cha và cả hệ thống lễ nghi cung đình. Mặc kệ thân phận nghèo hàn của Chử Đồng Tử, nàng quyết cùng chồng gây dựng cuộc sống mới: lập chợ, buôn bán, mở mang giao thương, một hành trình khởi nghiệp của hai tâm hồn tự do.</p>
<p>Vượt khỏi khuôn phép “tề gia nội trợ,” Tiên Dung cùng chồng tu tập, tự định đoạt con đường tâm linh của mình, rồi cùng đắc đạo. Khi vua cha nổi giận muốn trừng phạt, nàng không trốn tránh mà bình thản đối mặt, để rồi cảm động trời đất, cả hai hóa thân thăng thiên giữa hào quang huyền diệu.</p>
<p>Phép lạ của Tiên Dung không chỉ là thoát khỏi gươm giáo vua cha, mà còn là minh chứng cho sức mạnh của người phụ nữ dám lựa chọn và kiến tạo vận mệnh. Hình ảnh ấy vang lên như khúc ca về tự do, khi người phụ nữ không còn là cái bóng của ai, mà chính là người cầm lái con thuyền đời mình giữa muôn trùng sóng gió.</p>
<h3>Tấm: Bản tuyên ngôn tự quyết thân phận bằng muôn lần tái sinh</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/tam1.webp" /></p>
<p>Trong tâm khảm của người Việt Nam, những khổ ải của nàng Tấm đã quá đỗi thân thuộc. Nhưng Tấm không chỉ là một thân phận nhỏ bé bị vần vũ bởi lễ giáo và thứ bậc. Điều làm nên huyền thoại của nàng chính là những khoảnh khắc vượt thoát, những lần nàng tự mình viết lại số phận bằng những hình thức biến hóa kỳ lạ và kiên cường.</p>
<p>Kể từ khi được Bụt giúp đỡ thành công thoát khỏi gia đình của mẹ ghẻ, bước chân vào lầu son gác tía với thân phận hoàng hậu, hành trình của Tấm là một chuỗi những phép màu do chính nàng tạo ra, nhằm phản kháng mạnh mẽ trước tà ác rình rập. Bao lần bị tước đoạt mất mạng sống, Tấm vẫn không ngừng tái sinh, như một lời khẳng định đanh thép cho khát vọng được tự quyết số phận. Những hình tượng mà Tấm biến hóa cũng khôn lường, từ con vật, đồ vật đến cây cối đều có đủ. Nàng không chỉ quyết định về khoảnh khắc tái sinh, mà thậm chí tự vẽ nên những hình thái, dáng vẻ của chính mình.</p>
<p>Mỗi lần biến thân tuy khác nhau, nhưng tinh thần phản kháng của Tấm vẫn vẹn nguyên và mạnh mẽ. Đó là con chim vàng anh xẵng giọng đe dọa:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào<br />Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.” <br />(bản chép Nguyễn Đổng Chi)</div>
<p style="text-align: left;">Là khung cửi cót két sẵn sàng mỉa mai:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Cót ca cót két<br /><span style="background-color: transparent;">Lấy tranh chồng chị<br /></span><span style="background-color: transparent;">Chị khoét mắt ra.” <br />(bản chép Nguyễn Đổng Chi).</span></div>
<p>Cô Tấm ngoan hiền chỉ có thể khóc rấm rứt tủi thân của ngày xưa đã biến mất, thay vào đó là một nàng Tấm không cam chịu, sẵn sàng đáp trả, giành lại những gì xứng đáng thuộc về mình.</p>
<p>Tấm không phải “hắc hóa” mà để ngọn lửa hận thù cuốn trôi đi nhân tính của mình hoàn toàn. Con chim ấy tuy lên giọng với Cám, nhưng lại hiền dịu đậu vào tay áo của người chồng yêu thương. Khung cửi tuy cót két giọng điệu chua chát, nhưng lại dệt cho vua gấm áo lụa là. Quả thị tuy nhỏ bé nhưng biết đáp đền công ơn người hái đã cưu mang. Chính bởi giữ được ánh sáng thiện lương trong từng lần hóa thân, Tấm mới có đủ sức mạnh để dưỡng nuôi ý chí phản kháng đến cuối con đường.</p>
<p>Nhưng hơn hết, mỗi lần tái sinh còn là một lần nàng bảo lưu nhân phẩm, là một lần nàng khẳng định rằng cái chết hay sự áp đặt không thể xóa đi quyền được sống trọn vẹn. Tấm trở thành hình ảnh phảng phất những mong ước vượt thoát định mệnh, mong ước của muôn vàn phụ nữ: được tự chủ, được công bằng, và được đi theo tiếng gọi của lòng mình.</p>
<h3>Cô Út: Hình mẫu của lòng tin và sức mạnh nội tại của phụ nữ</h3>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/20/chidep/cout1.webp" /></p>
<p>Trong câu chuyện ‘Sọ Dừa,’ chàng trai kỳ dị ấy hiện lên như một vị thần giáng thế, hóa thân xấu xí để thử lòng người đời. Với cha mẹ nghèo khó đã hết mực yêu thương, chàng đáp lại bằng phú quý, nhà cao cửa rộng. Với cô Út, người duy nhất không chê thân phận hèn mọn, chàng trao tặng vinh hiển, địa vị và cả sự sống khi nàng đối diện lằn ranh sinh tử.</p>
<p>Nhưng nếu nhìn câu chuyện ở một góc nhìn bình đẳng hơn, ta thấy cô Út không phải chỉ là một người được Sọ Dừa “cứu chuộc” mà chính những phẩm chất đáng quý của nàng mới nâng đỡ cuộc đời chính mình. Khi Sọ Dừa xin được chăn trâu cho nhà phú ông, trong ba người con gái, chỉ có cô Út là đối đãi chàng tử tế. Để rồi một ngày tình cờ nghe được tiếng sáo giữa đồng trâu, nhìn thấy tướng mạo chàng khôi ngô, nàng bèn sinh lòng cảm mến Sọ Dừa, tin tưởng chàng không phải người phàm trần.</p>
<p>Có thể xem nhân dạng xấu xí của Sọ Dừa như ẩn dụ cho những giới hạn mà con người bị trói buộc: ngoại hình, giai cấp, địa vị. Hai cô chị hắt hủi chàng là tiếng vọng của những bất công cố hữu, còn cô Út là người dám đi ngược lại lề thói, dám tin vào cái thiện trong nội tâm của chàng. Nhờ lòng tin và sự tử tế ấy, Sọ Dừa sẵn sàng hóa thân, sống thật với chính mình, và tình cảm của họ nảy nở từ đó.</p>
<p>Chính chọn lựa ấy đã mở ra mối duyên vợ chồng từ lòng tin và nghị lực của đôi bên. Nhưng hai cô chị, như những cơn sóng dữ của định mệnh, đã nhân lúc Sọ Dừa lên kinh đi sứ, mà đẩy ngã em mình xuống biển. Trôi lạc một mình giữa ngàn khơi, cô Út đã dùng bản lĩnh của mình để vượt qua hiểm nguy và sinh tồn nhờ những đồ mà Sọ Dừa để lại: con dao mổ bụng cá kình, hòn đá đánh lửa, đôi trứng nở thành gà bầu bạn cùng cô giữa đảo hoang. Và rồi một buổi bình minh, con gà đã cất tiếng gáy khải hoàn:</p>
<div class="quote" style="text-align: center;">“Ò…ó…o<br />Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.” <br />(bản chép Nguyễn Đổng Chi)</div>
<p>Bình minh của cô Út đã đến bằng niềm vui đoàn tụ cùng người chồng đầu ắp tay gối, nhưng hơn hết đó là cả một chiến thắng của một người phụ nữ nhân hậu và thông tuệ. Từ niềm tin chân thành để tự quyết cuộc hôn nhân với Sọ Dừa, cô Út cũng giữ vững lòng tin ấy khi đối mặt hiểm nguy. Sự sinh tồn của nàng, sau tất cả, trở thành hình mẫu cho nghị lực tự thân của người phụ nữ vượt qua mọi nghịch cảnh.</p>
<h3>Kết</h3>
<p>Truyện cổ tích vốn là chiếc đĩa than ghi lại tất thảy những mong ước của người xưa gửi gắm trong những phép lạ của cõi trần thế. Và trong những giai điệu ngàn năm đó, sự hiện diện của người phụ nữ là tiếng vọng thống thiết nhất của hàng vạn số phận, mong mỏi được thoát khỏi những bất công, khuôn phép đã giam hãm họ trong chiếc lồng son của “tam tòng, tứ đức.”</p>
<p>Những tiếng vọng đó biến những phụ nữ trong truyện cổ tích Việt Nam trở thành những hình bóng mạnh mẽ bằng tất cả nỗ lực tự quyết định, nghị lực sinh tồn, năng lực kiến tạo và tinh thần phản kháng. Dù nằm trong khuôn khổ huyền thoại và dân gian, những Âu Cơ, Tiên Dung, cô Tấm, nàng Út hay hằng hà sa số nhân vật nữ đã gieo vào văn hóa dân tộc hạt mầm của tinh thần bình đẳng và nguồn cảm hứng vượt thời gian về giá trị của phái nữ.</p></div>Phụ nữ trong điện ảnh sau Đổi Mới: Từ công cụ tuyên truyền đến hình tượng đa chiều sâu2025-10-19T11:00:00+07:002025-10-19T11:00:00+07:00https://saigoneer.com/vn/film-tv/17454-phụ-nữ-trong-điện-ảnh-sau-đổi-mới-từ-công-cụ-tuyên-truyền-đến-hình-tượng-đa-chiều-sâuThư Trịnh. Ành bìa: Tiên Nguyễn.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/web1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/fb1m.webp" data-position="50% 100%" /></p>
<p><em>Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã được các nhà làm phim sử dụng để đại diện cho những điều mang tính tầm vóc hơn là câu chuyện cá nhân.</em></p>
<p>Giai đoạn 1975–1986 đánh dấu cuộc chuyển mình mạnh mẽ của điện ảnh Việt. Theo sách <em><a href="https://books.google.com.vn/books?id=8oILAQAAMAAJ" target="_blank">Lịch Sử Điện Ảnh Việt Nam</a></em> của biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát, lúc này, dòng phim tuyên truyền bắt đầu nhường chỗ cho dòng phim phản biện và phim “thân thiện” với công chúng. Đặc biệt, kể từ sau công cuộc đổi mới năm 1986, các nhà làm phim đã dùng hình ảnh người bà, người mẹ, người chị để đại diện cho sự kiên cường và bền bỉ của người Việt khi thích ứng những thay đổi kinh tế, văn hóa, và xã hội của đất nước.</p>
<h3>Những thăng trầm của nền điện ảnh Việt non trẻ</h3>
<p>Năm 1986, chính phủ Việt Nam chuyển từ mô hình kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, tạo nên nhiều sự thay đổi trong mọi khía cạnh đời sống xã hội. Phim ảnh là một trong những phương tiện đại chúng phản ánh rõ nét những thay đổi này. Nếu thời kỳ thuộc địa để lại cho nền điện ảnh Việt những thước <a href="http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c271/n10901/Dien-anh-Viet-Nam-thoi-khai-sinh.html" target="_blank">phim tài liệu, phim ngắn</a> thì điện ảnh thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc đã mang đến những bước chuyển mới. </p>
<p>Tuy nhiên, phần lớn vẫn là các sản phẩm dựa trên các đề tài về chiến tranh, sản xuất và lao động như <em>Vợ chồng A Phủ</em> (1961), <em>Chị Tư Hậu</em> (1963), <em>Vĩ tuyến 17 ngày và đêm</em> (1972), <em>Em bé Hà Nộ</em>i (1974), v.v. Thời kỳ này có sự xuất hiện của một số nhà làm phim tài năng, nhưng các tác phẩm điện ảnh phải chịu sự kiểm soát gắt gao về nội dung lẫn hình thức của Cục Điện Ảnh.</p>
<div class="half-width left"><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/6.webp" />
<p class="image-caption">Poster phim Chị Tư Hậu (1963).</p>
</div>
<p>Ở miền Nam, bên cạnh phim về đề tài chiến tranh như <em>Từ Saigon đến Điện Biên Phủ</em> (1970), điện ảnh khám phá những chủ đề rộng hơn qua các bộ phim hài như <em>Tứ quái Sài Gòn</em> (1973), <em>Năm vua hề về làng</em> (1974) hay những câu chuyện tâm lý, tình cảm đã tạo được tiếng vang như <em>Chân trời tím</em> (1971),<em> Sau giờ giới nghiêm</em> (1972).</p>
<p><span style="background-color: transparent;">Đến năm 1975, trong bối cảnh xây dựng đất nước, đề tài của các thước phim cũng dần đa dạng hơn, tuy nhiên những bộ phim được biết đến rộng rãi vẫn là những kịch bản lấy đề tài chiến tranh như </span><em style="background-color: transparent;">Mối tình đầu</em><span style="background-color: transparent;"> (1977), </span><em style="background-color: transparent;">Mẹ vắng nhà</em><span style="background-color: transparent;"> (1979), </span><em style="background-color: transparent;">Cánh đồng hoang</em><span style="background-color: transparent;"> (1979).</span></p>
<p>Sau Đổi Mới, nền kinh tế thị trường đã tạo ra đã những đổi thay đáng kể cho điện ảnh nước nhà. Việc thương mại hóa ngành công nghiệp phim đã giúp dòng <a href="https://nhandan.vn/megastory/2018/03/29/" target="_blank">phim “mì ăn liền”</a> với đề tài gần gũi, dễ ăn khách lên ngôi, tạo nên một thế hệ ngôi sao như Lý Hùng, Thu Hà, Diễm Hương, và Việt Trinh. Đến cuối thập niên 90, độ phủ sóng dòng phim này bắt đầu đi xuống, nhường chỗ cho dòng phim nghệ thuật và phim hợp tác nước ngoài; các tác phẩm về Việt Nam của nhà làm phim người nước ngoài gốc Việt như Trần Anh Hùng, Tony Bùi đã có được sự công nhận tại các diễn đàn điện ảnh quốc tế.</p>
<h3>“Làm mẹ, làm vợ, làm chiến sĩ”</h3>
<p>Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cùng của Việt Nam, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính để xây dựng đất nước. Nhưng càng về phía Nam, ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán lại càng nhạt nhòa. Nhà nghiên cứu Barbara Watson Andaya <a href="https://www.jstor.org/stable/j.ctt6wqwjx" target="_blank">trong một nghiên cứu về phụ nữ Đông Nam Á</a> cho rằng xã hội Việt Nam vào giai đoạn cận đại không quá bị “thống trị” bởi luồng tư tưởng gia trưởng, do đó truyền thống mẫu hệ vẫn có vị thế về văn hóa, và vai trò của người phụ nữ vẫn được đề cao.</p>
<div class="half-width right"><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/5.webp" />
<p class="image-caption">Poster phim Bao giờ cho đến tháng Mười (1963).</p>
</div>
<p>Những bộ phim thời kỳ trước Đổi Mới chọn đề cao vai trò của phụ nữ qua đóng góp cho nỗ lực kháng chiến. Trong đó, người phụ nữ vừa là hậu phương vững chắc, vừa có thể cầm súng xông lên tiền tuyến. Đó là hình ảnh người mẹ, người chị trong chiến tranh như<em> Mẹ vắng nhà</em> (1979), <em>Em bé Hà Nội</em> (1974), hay <em>Bao giờ cho đến tháng Mười</em> (1984) của NSND Đặng Nhật Minh.</p>
<p>Phần lớn nhân vật nữ trong các bộ phim thời kỳ này là những người phục vụ cách mạng và dũng cảm chiến đấu như trong <em>Đến hẹn lại lên</em> (1974) của đạo diễn Trần Vũ, hay <em>Cánh đồng hoang</em> (1979) của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến. Các tác phẩm này đều tạo được tiếng vang tại các liên hoan phim thuộc khối Liên bang Xô Viết. Tuy nhiên, ngoài vai trò làm vợ, làm mẹ và phục vụ cho cách mạng, những nhân vật nữ đa phần không thoát ra khỏi vai trò củng cố những lý tưởng và ký ức của giai đoạn chiến tranh.</p>
<h3>Mở rộng về vật chất nhưng hạn chế về tinh thần</h3>
<p>Từ giai đoạn Đổi Mới, các nhân vật nữ trên màn ảnh không còn chỉ để ngợi ca vai trò của phụ nữ trong thời chiến hay để nhắc nhở về một đoạn ký ức đầy đau thương và mất mát. Họ bắt đầu được xây dựng để đại diện cho những ước mơ, hy vọng cá nhân cũng như hình ảnh của đất nước trong thời đại mới.</p>
<p>Cải cách kinh tế năm 1986 đã mở đường cho các cơ sở kinh doanh tư nhân. Phụ nữ có thể quay lại buôn bán hàng hóa tại các chợ dân sinh, kéo theo đó là sự phát triển của loại hình buôn bán nhỏ lẻ, doanh nghiệp gia đình do những người phụ nữ quản lý. Doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo ra nhiều cơ hội nghề nghiệp bình đẳng hơn cho nam giới và nữ giới. Số phụ nữ thành thị, trẻ tuổi, độc thân và có nguồn thu nhập ổn định ngày càng tăng. Phụ nữ trẻ được tự do hơn với nhu cầu vui chơi, giải trí của mình, được cha mẹ cho phép làm những điều hơn so với thế hệ trước.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/7.webp" /></p>
<p class="image-caption">Tác phẩm tại triển lãm "Đổi Mới - Hành trình của những giấc mơ" tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam vào năm 2016.</p>
<p>Tuy nhiên, theo tác gia Lisa Drummond trong bài viết "<a href="https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/09663690600700998" target="_blank">Gender in Post-Doi Moi Vietnam: Women, desire, and change</a>" (tạm dịch: Vấn đề giới tại Việt Nam hậu Đổi Mới: phụ nữ, những khát khao và đổi thay), cải cách kinh tế tạo ra nhiều biến chuyển trong đời sống người phụ nữ, nhưng cũng làm rõ hơn những vấn đề về giới đã hiện hữu từ lâu. Các chuẩn mực văn hóa về giới và tính gia trưởng của xã hội Việt Nam, tuy không còn gay gắt như trước, nhưng cũng không dễ để thay đổi sớm chiều.</p>
<p>Người phụ nữ thấy mình phải dung hòa những kỳ vọng truyền thống với những tiêu chuẩn đương đại. Họ phải đối mặt với người chồng già cả nhưng vẫn muốn có con trai trước chính sách kế hoạch gia đình của chính phủ, họ phải che giấu mong muốn tình dục trong môi trường đạo đức nghiêm ngặt của nông thôn, đồng thời hi vọng về môi trường làm việc cũng như điều kiện sống tốt hơn trong nền kinh tế thị trường.</p>
<h3>Kín đáo, kiệm lời không đồng nghĩa với mất đi tiếng nói</h3>
<p>Những vấn đề giới này được thể hiện khá rõ nét qua tác phẩm <em>Cô gái trên sông</em> (1987) của NSND Đặng Nhật Minh và <em>Mùi đu đủ xanh</em> (1993) của đạo diễn Trần Anh Hùng. Cách khắc họa nhân vật nam-nữ và mối quan hệ của họ trong các bộ phim cho thấy khuôn mẫu giới vẫn tồn tại trong tâm thức người Việt. Trong đó, đàn ông được định hình bởi hình tượng mạnh mẽ, thông minh nhưng có phần thiếu trách nhiệm. Phụ nữ thì thường khiêm tốn, kiệm lời, thủy chung và giàu đức hy sinh.</p>
<p>NSND Đặng Nhật Minh là một trong những người có đóng góp xuất sắc cho điện ảnh Việt Nam. Dưới tư cách một đạo diễn, ông dành nhiều sự thương cảm cho số phận của người phụ nữ Việt. Ông <a href="https://thegioidienanh.vn/30-nam-phim-co-gai-tren-song-nhung-ky-niem-kho-quen-16535.html" target="_blank">gặp nhiều tranh cãi</a> với C<em>ô gái trên sông </em>vì bị cho là “bôi nhọ” hình ảnh người lính cách mạng, khiến bộ phim từng đứng trước nguy cơ <a href="https://thegioidienanh.vn/30-nam-phim-co-gai-tren-song-nhung-ky-niem-kho-quen-16535.html" target="_blank">bị cấm chiếu</a>.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/11.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/12.webp" alt="" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Cô gái trên sông phá bỏ những quan niệm đã được định hình về phụ nữ, cách họ yêu và thể hiện tình yêu người.</p>
<p><em>Cô gái trên sông</em> là bức tranh hiện thực gây nhiều tranh cãi khi thể hiện sự đồng cảm với nhân vật “gái bán hoa,” cũng như trong cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ cách mạng “bội tình” trong xã hội Việt Nam thời bình. Bộ phim xoay quanh Nguyệt, một cô gái giang hồ trên sông Hương đi tìm lại người chiến sỹ cách mạng mà cô đã cứu với hy vọng gặp lại anh ta sau ngày giải phóng miền Nam. Niềm tin của cô tan vỡ khi chiến sỹ năm nào giờ đây đã trở thành cán bộ cao cấp và phủ nhận quan hệ với cô.</p>
<p>Trong <em>Cô gái trên sông</em>, sự táo bạo của Nguyệt đã cho thấy nỗ lực phá bỏ những quan niệm đã được định hình về phụ nữ, cách họ yêu và thể hiện tình yêu người. Bên cạnh đó, hình ảnh người cán bộ bị vạch trần là một tên bội bạc, còn tên lính ngụy lại giữ lòng thủy chung với người mình yêu cũng tạo nên góc nhìn đa chiều và phong phú hơn cho điện ảnh Việt so với những bộ phim tuyên truyền của thời kỳ trước. Trong suốt sự nghiệp của mình, các tác phẩm của NSND Nhật Minh đa phần là các bộ phim có sự hậu thuẫn của chính phủ, tuy vậy ông đã “<a href="https://tuoitre.vn/dang-nhat-minh-va-su-nghiep-dien-anh-chua-co-nguoi-thay-the-20180315091925898.htm" target="_blank">khéo léo tìm những khe cửa hẹp để thể hiện tiếng nói cá nhân, những đau đáu của ông về đất nước, con người</a>.”</p>
<p>Ông còn cho ra đời hai bộ phim được tài trợ bởi Anh và Nhật là <em>Trở về</em> (1994) và<em> Thương nhớ đồng quê</em> (1996), đều chứa đựng hành trình của những người phụ nữ khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường: phụ nữ thành thị có nhiều không gian để giải trí, gặp gỡ, giao lưu và có đời sống xã hội phong phú hơn, còn phụ nữ ở nông thôn vẫn còn thiếu không gian, cơ hội để mở rộng các mối quan hệ cá nhân. Họ bị ràng buộc bởi những yêu cầu khắt khe về đạo đức, cách cư xử khi xã hội vẫn kỳ vọng họ làm tròn vai người vợ, người mẹ.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/9.webp" /></p>
<p class="image-caption">Mùi đu đủ xanh là câu chuyện về những người phụ nữ </p>
<p>Sau năm 1986, tác phẩm của các đạo diễn gốc Việt ở nước ngoài cũng được diện kiến khán giả trong nước sau khi Việt Nam mở cửa. Trong đó chúng ta có <em>Mùi đu đủ xanh</em> (1993), bộ phim dài đầu tay đầu tiên của Trần Anh Hùng. Đây là tác phẩm gây được nhiều tiếng vang nhất của vị đạo diễn người Pháp gốc Việt ở trời Tây, nhận được nhiều đề cử và giải thưởng quốc tế.</p>
<p>Với dòng phim của Trần Anh Hùng, những tranh luận về <a href="http://baovannghe.com.vn/pham-tru-truyen-thong-va-dien-ngon-ve-can-tinh-dan-toc-trong-phim-cua-mot-so-dao-dien-viet-kieu-24734.html" target="_blank">“truyền thống” và “bản sắc”</a> là đề tài không bao giờ cạn. Trong <em>Mùi đu đủ xanh</em>, bên cạnh bối cảnh mang đậm chất Việt, mô hình gia đình truyền thống với phong tục, tập quán lâu đời của người Việt, cùng sự hiện hữu của chủ nghĩa gia trưởng tạo nên ý thức về thứ bậc, về vị trí của người con trai trưởng trong gia đình, vẫn in dấu sâu đậm trong tâm thức của các nhân vật nữ dù trong môi trường đô thị hay nông thôn.</p>
<p><em>Mùi đu đủ xan</em>h của Trần Anh Hùng là một câu chuyện tình yêu đậm chất Á Đông; bên cạnh sự tận tụy của người phụ nữ là sự vắng bóng của người đàn ông trong gia đình. Bộ phim kể về cô bé Mùi lên Sài Gòn làm người ở cho gia đình thành thị gốc Bắc. Mùi, một cô bé có cái nhìn sâu sắc với cuộc đời, nhận ra được những tổn thương, mất mát trong một gia đình tưởng chừng ấm êm.</p>
<p>Người mẹ, người bà đều phải sống trong sự thờ ơ, lạnh nhạt của những người đàn ông trong gia đình. Sự nỗ lực và hy sinh thầm lặng của họ không được chồng và con trân trọng. Khi đối mặt với tình yêu của đời mình, Mùi vẫn lựa chọn nép mình vào một góc lặng lẽ, âm thầm chăm sóc cho gia đình người mình yêu, khi cạnh anh là một vị hôn thê nổi bật cả về ngoại hình lẫn khí chất.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/1.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/13.webp" alt="" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Tình yêu của phụ nữ Á Đông được đặt đối lập với tình yêu mạnh mẽ kiểu Tây phương trong Mùi đu đủ xanh.</p>
<p>Tình yêu của phụ nữ Á Đông được đặt đối lập với tình yêu mạnh mẽ kiểu Tây trong <em>Mùi đu đủ xanh. </em>Nhưng vượt qua khuôn mẫu giới danh cho một cô hầu gái thôn quê, Mùi đã tự tin từng bước đặt chân vào thế giới của chàng trai được giáo dục và ảnh hưởng sâu sắc lối sống Tây phương. Nhìn chung, qua các bộ phim Việt kiều nói chung và phim của Trần Anh Hùng nói riêng, hình ảnh phụ nữ sau Đổi Mới có tính đa chiều: khiêm nhường, lặng lẽ, phục vụ, những không kém phần mạnh mẽ, tân tiến trong lối suy nghĩ, và tự chủ với vận mệnh của mình.</p>
<h3>Đất nước chuyển mình khi phụ nữ chuyển mình</h3>
<p>Không chỉ làm nổi lên những vấn đề về giới trong xã hội Việt Nam đương thời, các nhà làm phim còn gửi gắm niềm hy vọng về tương lai của đất nước qua những ước mơ cá nhân của phụ nữ. Hai tác phẩm làm rõ xu hướng này là <em>Lưỡi dao</em> (1995) của đạo diễn Lê Hoàng và <em>Ba mùa</em> (1999) của đạo diễn Tony Bùi.</p>
<p><em>Lưỡi dao</em> ra đời trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp của Lê Hoàng theo nhận định của giới chuyên môn. Bộ phim lấy bối cảnh năm 1975 tại miền Nam và kể về nhân vật nữ tên Nguyệt. Sau khi cả gia đình tử nạn trong chiến tranh, Nguyệt trở nên căm ghét lực lượng giải phóng. Khi nỗi hoài nghi và sợ hãi của Nguyệt dần biến mất qua thời gian, cô mới biết được một sự thật chấn động khiến cô dằn vặt giữa tình yêu và tấm lòng hiếu nghĩa. Nhân vật Nguyệt có thể xem là biểu tượng cho nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, xóa nhòa lòng hận thù trong lòng dân tộc. </p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/17.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguyệt có thể xem là biểu tượng cho nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, xóa nhòa lòng hận thù trong lòng dân tộc.</p>
<p>Trong khi đó, <em>Ba mùa </em>của đạo diễn người Mỹ gốc Việt Tony Bùi đã tạo nên một không gian Việt có phần lãng mạn hóa nhưng vẫn mang hơi thở của thời đại. Ra mắt ba năm sau khi Việt Nam được gỡ bỏ cấm vận, bộ phim kề những mảnh đời phụ nữ khác nhau tại Sài Gòn dưới tác động của cải cách kinh tế thị trường và hội nhập với phương Tây.</p>
<p><em>Ba mùa </em>mang đến những mảnh ghép đầy sắc màu và nhạy cảm trước những sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại. Mỗi người phụ nữ trong phim đại diện cho một giá trị khác nhau. Cô gái làng chơi Lan tìm kiếm một cuộc sống khá giả, không muốn chịu cái bi kịch như mẹ mình, đại diện cho ước mơ có được sự nghiệp, đồng thời giữ lấy cái thanh xuân của người phụ nữ. Ngược lại, An, một cô gái được thuê hái sen, đã an ủi tâm hồn người chủ mắc bệnh phong bằng giọng hát của mình. Cô đại diện cho những giá trị tinh thần đậm chất phương Đông với hình ảnh những đóa sen thuần khiết.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/15.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/16.webp" alt="" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Lan và An đều tìm kiếm sự thay đổi, niềm hy vọng, một ước mơ để tiếp tục sống sau bao tổn thương và cơ cực.</p>
<p>Nếu Lan là một cô gái hiện đại, mang cái nhìn thực tế, phá bỏ tư duy truyền thống thì An, một thiếu nữ truyền thống đại diện cho sự phê phán lề lối cũ, gột rửa quá khứ. Dù có xuất thân, địa vị, và lựa chọn cuộc sống khác nhau, họ đều đang tìm kiếm sự thay đổi, niềm hy vọng, một ước mơ để tiếp tục sống sau bao tổn thương và cơ cực, cũng như Việt Nam đang từng bước vượt qua chiến tranh và những hậu quả của nó để bắt đầu một chương mới của lịch sử.</p>
<p><strong>Kết</strong></p>
<p>Nhiều thập kỷ sau chính sách Đổi Mới, các tác phẩm trên vẫn được giới đại chúng lẫn chuyên môn công nhận là “vàng son của lịch sử điện ảnh.” Các nhà làm phim đã khéo léo đưa phụ nữ xa dần khỏi hình tượng “tấm gương tiêu biểu” của điện ảnh cách mạng. Thay vào đó, họ cho phép các nhân vật nữ được sống với những nỗi niềm, vấn đề, và ước mơ riêng của chính mình, từ đó thể hiện sự chuyển mình của đất nước trong tư tưởng, tiêu chuẩn và nhìn nhận về phụ nữ trong thời đại mới.</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/web1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/fb1m.webp" data-position="50% 100%" /></p>
<p><em>Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã được các nhà làm phim sử dụng để đại diện cho những điều mang tính tầm vóc hơn là câu chuyện cá nhân.</em></p>
<p>Giai đoạn 1975–1986 đánh dấu cuộc chuyển mình mạnh mẽ của điện ảnh Việt. Theo sách <em><a href="https://books.google.com.vn/books?id=8oILAQAAMAAJ" target="_blank">Lịch Sử Điện Ảnh Việt Nam</a></em> của biên kịch Nguyễn Thị Hồng Ngát, lúc này, dòng phim tuyên truyền bắt đầu nhường chỗ cho dòng phim phản biện và phim “thân thiện” với công chúng. Đặc biệt, kể từ sau công cuộc đổi mới năm 1986, các nhà làm phim đã dùng hình ảnh người bà, người mẹ, người chị để đại diện cho sự kiên cường và bền bỉ của người Việt khi thích ứng những thay đổi kinh tế, văn hóa, và xã hội của đất nước.</p>
<h3>Những thăng trầm của nền điện ảnh Việt non trẻ</h3>
<p>Năm 1986, chính phủ Việt Nam chuyển từ mô hình kinh tế bao cấp sang nền kinh tế thị trường, tạo nên nhiều sự thay đổi trong mọi khía cạnh đời sống xã hội. Phim ảnh là một trong những phương tiện đại chúng phản ánh rõ nét những thay đổi này. Nếu thời kỳ thuộc địa để lại cho nền điện ảnh Việt những thước <a href="http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c271/n10901/Dien-anh-Viet-Nam-thoi-khai-sinh.html" target="_blank">phim tài liệu, phim ngắn</a> thì điện ảnh thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc đã mang đến những bước chuyển mới. </p>
<p>Tuy nhiên, phần lớn vẫn là các sản phẩm dựa trên các đề tài về chiến tranh, sản xuất và lao động như <em>Vợ chồng A Phủ</em> (1961), <em>Chị Tư Hậu</em> (1963), <em>Vĩ tuyến 17 ngày và đêm</em> (1972), <em>Em bé Hà Nộ</em>i (1974), v.v. Thời kỳ này có sự xuất hiện của một số nhà làm phim tài năng, nhưng các tác phẩm điện ảnh phải chịu sự kiểm soát gắt gao về nội dung lẫn hình thức của Cục Điện Ảnh.</p>
<div class="half-width left"><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/6.webp" />
<p class="image-caption">Poster phim Chị Tư Hậu (1963).</p>
</div>
<p>Ở miền Nam, bên cạnh phim về đề tài chiến tranh như <em>Từ Saigon đến Điện Biên Phủ</em> (1970), điện ảnh khám phá những chủ đề rộng hơn qua các bộ phim hài như <em>Tứ quái Sài Gòn</em> (1973), <em>Năm vua hề về làng</em> (1974) hay những câu chuyện tâm lý, tình cảm đã tạo được tiếng vang như <em>Chân trời tím</em> (1971),<em> Sau giờ giới nghiêm</em> (1972).</p>
<p><span style="background-color: transparent;">Đến năm 1975, trong bối cảnh xây dựng đất nước, đề tài của các thước phim cũng dần đa dạng hơn, tuy nhiên những bộ phim được biết đến rộng rãi vẫn là những kịch bản lấy đề tài chiến tranh như </span><em style="background-color: transparent;">Mối tình đầu</em><span style="background-color: transparent;"> (1977), </span><em style="background-color: transparent;">Mẹ vắng nhà</em><span style="background-color: transparent;"> (1979), </span><em style="background-color: transparent;">Cánh đồng hoang</em><span style="background-color: transparent;"> (1979).</span></p>
<p>Sau Đổi Mới, nền kinh tế thị trường đã tạo ra đã những đổi thay đáng kể cho điện ảnh nước nhà. Việc thương mại hóa ngành công nghiệp phim đã giúp dòng <a href="https://nhandan.vn/megastory/2018/03/29/" target="_blank">phim “mì ăn liền”</a> với đề tài gần gũi, dễ ăn khách lên ngôi, tạo nên một thế hệ ngôi sao như Lý Hùng, Thu Hà, Diễm Hương, và Việt Trinh. Đến cuối thập niên 90, độ phủ sóng dòng phim này bắt đầu đi xuống, nhường chỗ cho dòng phim nghệ thuật và phim hợp tác nước ngoài; các tác phẩm về Việt Nam của nhà làm phim người nước ngoài gốc Việt như Trần Anh Hùng, Tony Bùi đã có được sự công nhận tại các diễn đàn điện ảnh quốc tế.</p>
<h3>“Làm mẹ, làm vợ, làm chiến sĩ”</h3>
<p>Nhà Nguyễn, triều đại phong kiến cùng của Việt Nam, lấy Nho giáo làm hệ tư tưởng chính để xây dựng đất nước. Nhưng càng về phía Nam, ảnh hưởng của văn hóa chữ Hán lại càng nhạt nhòa. Nhà nghiên cứu Barbara Watson Andaya <a href="https://www.jstor.org/stable/j.ctt6wqwjx" target="_blank">trong một nghiên cứu về phụ nữ Đông Nam Á</a> cho rằng xã hội Việt Nam vào giai đoạn cận đại không quá bị “thống trị” bởi luồng tư tưởng gia trưởng, do đó truyền thống mẫu hệ vẫn có vị thế về văn hóa, và vai trò của người phụ nữ vẫn được đề cao.</p>
<div class="half-width right"><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/5.webp" />
<p class="image-caption">Poster phim Bao giờ cho đến tháng Mười (1963).</p>
</div>
<p>Những bộ phim thời kỳ trước Đổi Mới chọn đề cao vai trò của phụ nữ qua đóng góp cho nỗ lực kháng chiến. Trong đó, người phụ nữ vừa là hậu phương vững chắc, vừa có thể cầm súng xông lên tiền tuyến. Đó là hình ảnh người mẹ, người chị trong chiến tranh như<em> Mẹ vắng nhà</em> (1979), <em>Em bé Hà Nội</em> (1974), hay <em>Bao giờ cho đến tháng Mười</em> (1984) của NSND Đặng Nhật Minh.</p>
<p>Phần lớn nhân vật nữ trong các bộ phim thời kỳ này là những người phục vụ cách mạng và dũng cảm chiến đấu như trong <em>Đến hẹn lại lên</em> (1974) của đạo diễn Trần Vũ, hay <em>Cánh đồng hoang</em> (1979) của đạo diễn Nguyễn Hồng Sến. Các tác phẩm này đều tạo được tiếng vang tại các liên hoan phim thuộc khối Liên bang Xô Viết. Tuy nhiên, ngoài vai trò làm vợ, làm mẹ và phục vụ cho cách mạng, những nhân vật nữ đa phần không thoát ra khỏi vai trò củng cố những lý tưởng và ký ức của giai đoạn chiến tranh.</p>
<h3>Mở rộng về vật chất nhưng hạn chế về tinh thần</h3>
<p>Từ giai đoạn Đổi Mới, các nhân vật nữ trên màn ảnh không còn chỉ để ngợi ca vai trò của phụ nữ trong thời chiến hay để nhắc nhở về một đoạn ký ức đầy đau thương và mất mát. Họ bắt đầu được xây dựng để đại diện cho những ước mơ, hy vọng cá nhân cũng như hình ảnh của đất nước trong thời đại mới.</p>
<p>Cải cách kinh tế năm 1986 đã mở đường cho các cơ sở kinh doanh tư nhân. Phụ nữ có thể quay lại buôn bán hàng hóa tại các chợ dân sinh, kéo theo đó là sự phát triển của loại hình buôn bán nhỏ lẻ, doanh nghiệp gia đình do những người phụ nữ quản lý. Doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cũng tạo ra nhiều cơ hội nghề nghiệp bình đẳng hơn cho nam giới và nữ giới. Số phụ nữ thành thị, trẻ tuổi, độc thân và có nguồn thu nhập ổn định ngày càng tăng. Phụ nữ trẻ được tự do hơn với nhu cầu vui chơi, giải trí của mình, được cha mẹ cho phép làm những điều hơn so với thế hệ trước.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/7.webp" /></p>
<p class="image-caption">Tác phẩm tại triển lãm "Đổi Mới - Hành trình của những giấc mơ" tại Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam vào năm 2016.</p>
<p>Tuy nhiên, theo tác gia Lisa Drummond trong bài viết "<a href="https://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/09663690600700998" target="_blank">Gender in Post-Doi Moi Vietnam: Women, desire, and change</a>" (tạm dịch: Vấn đề giới tại Việt Nam hậu Đổi Mới: phụ nữ, những khát khao và đổi thay), cải cách kinh tế tạo ra nhiều biến chuyển trong đời sống người phụ nữ, nhưng cũng làm rõ hơn những vấn đề về giới đã hiện hữu từ lâu. Các chuẩn mực văn hóa về giới và tính gia trưởng của xã hội Việt Nam, tuy không còn gay gắt như trước, nhưng cũng không dễ để thay đổi sớm chiều.</p>
<p>Người phụ nữ thấy mình phải dung hòa những kỳ vọng truyền thống với những tiêu chuẩn đương đại. Họ phải đối mặt với người chồng già cả nhưng vẫn muốn có con trai trước chính sách kế hoạch gia đình của chính phủ, họ phải che giấu mong muốn tình dục trong môi trường đạo đức nghiêm ngặt của nông thôn, đồng thời hi vọng về môi trường làm việc cũng như điều kiện sống tốt hơn trong nền kinh tế thị trường.</p>
<h3>Kín đáo, kiệm lời không đồng nghĩa với mất đi tiếng nói</h3>
<p>Những vấn đề giới này được thể hiện khá rõ nét qua tác phẩm <em>Cô gái trên sông</em> (1987) của NSND Đặng Nhật Minh và <em>Mùi đu đủ xanh</em> (1993) của đạo diễn Trần Anh Hùng. Cách khắc họa nhân vật nam-nữ và mối quan hệ của họ trong các bộ phim cho thấy khuôn mẫu giới vẫn tồn tại trong tâm thức người Việt. Trong đó, đàn ông được định hình bởi hình tượng mạnh mẽ, thông minh nhưng có phần thiếu trách nhiệm. Phụ nữ thì thường khiêm tốn, kiệm lời, thủy chung và giàu đức hy sinh.</p>
<p>NSND Đặng Nhật Minh là một trong những người có đóng góp xuất sắc cho điện ảnh Việt Nam. Dưới tư cách một đạo diễn, ông dành nhiều sự thương cảm cho số phận của người phụ nữ Việt. Ông <a href="https://thegioidienanh.vn/30-nam-phim-co-gai-tren-song-nhung-ky-niem-kho-quen-16535.html" target="_blank">gặp nhiều tranh cãi</a> với C<em>ô gái trên sông </em>vì bị cho là “bôi nhọ” hình ảnh người lính cách mạng, khiến bộ phim từng đứng trước nguy cơ <a href="https://thegioidienanh.vn/30-nam-phim-co-gai-tren-song-nhung-ky-niem-kho-quen-16535.html" target="_blank">bị cấm chiếu</a>.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/11.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/12.webp" alt="" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Cô gái trên sông phá bỏ những quan niệm đã được định hình về phụ nữ, cách họ yêu và thể hiện tình yêu người.</p>
<p><em>Cô gái trên sông</em> là bức tranh hiện thực gây nhiều tranh cãi khi thể hiện sự đồng cảm với nhân vật “gái bán hoa,” cũng như trong cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ cách mạng “bội tình” trong xã hội Việt Nam thời bình. Bộ phim xoay quanh Nguyệt, một cô gái giang hồ trên sông Hương đi tìm lại người chiến sỹ cách mạng mà cô đã cứu với hy vọng gặp lại anh ta sau ngày giải phóng miền Nam. Niềm tin của cô tan vỡ khi chiến sỹ năm nào giờ đây đã trở thành cán bộ cao cấp và phủ nhận quan hệ với cô.</p>
<p>Trong <em>Cô gái trên sông</em>, sự táo bạo của Nguyệt đã cho thấy nỗ lực phá bỏ những quan niệm đã được định hình về phụ nữ, cách họ yêu và thể hiện tình yêu người. Bên cạnh đó, hình ảnh người cán bộ bị vạch trần là một tên bội bạc, còn tên lính ngụy lại giữ lòng thủy chung với người mình yêu cũng tạo nên góc nhìn đa chiều và phong phú hơn cho điện ảnh Việt so với những bộ phim tuyên truyền của thời kỳ trước. Trong suốt sự nghiệp của mình, các tác phẩm của NSND Nhật Minh đa phần là các bộ phim có sự hậu thuẫn của chính phủ, tuy vậy ông đã “<a href="https://tuoitre.vn/dang-nhat-minh-va-su-nghiep-dien-anh-chua-co-nguoi-thay-the-20180315091925898.htm" target="_blank">khéo léo tìm những khe cửa hẹp để thể hiện tiếng nói cá nhân, những đau đáu của ông về đất nước, con người</a>.”</p>
<p>Ông còn cho ra đời hai bộ phim được tài trợ bởi Anh và Nhật là <em>Trở về</em> (1994) và<em> Thương nhớ đồng quê</em> (1996), đều chứa đựng hành trình của những người phụ nữ khi đất nước chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường: phụ nữ thành thị có nhiều không gian để giải trí, gặp gỡ, giao lưu và có đời sống xã hội phong phú hơn, còn phụ nữ ở nông thôn vẫn còn thiếu không gian, cơ hội để mở rộng các mối quan hệ cá nhân. Họ bị ràng buộc bởi những yêu cầu khắt khe về đạo đức, cách cư xử khi xã hội vẫn kỳ vọng họ làm tròn vai người vợ, người mẹ.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/9.webp" /></p>
<p class="image-caption">Mùi đu đủ xanh là câu chuyện về những người phụ nữ </p>
<p>Sau năm 1986, tác phẩm của các đạo diễn gốc Việt ở nước ngoài cũng được diện kiến khán giả trong nước sau khi Việt Nam mở cửa. Trong đó chúng ta có <em>Mùi đu đủ xanh</em> (1993), bộ phim dài đầu tay đầu tiên của Trần Anh Hùng. Đây là tác phẩm gây được nhiều tiếng vang nhất của vị đạo diễn người Pháp gốc Việt ở trời Tây, nhận được nhiều đề cử và giải thưởng quốc tế.</p>
<p>Với dòng phim của Trần Anh Hùng, những tranh luận về <a href="http://baovannghe.com.vn/pham-tru-truyen-thong-va-dien-ngon-ve-can-tinh-dan-toc-trong-phim-cua-mot-so-dao-dien-viet-kieu-24734.html" target="_blank">“truyền thống” và “bản sắc”</a> là đề tài không bao giờ cạn. Trong <em>Mùi đu đủ xanh</em>, bên cạnh bối cảnh mang đậm chất Việt, mô hình gia đình truyền thống với phong tục, tập quán lâu đời của người Việt, cùng sự hiện hữu của chủ nghĩa gia trưởng tạo nên ý thức về thứ bậc, về vị trí của người con trai trưởng trong gia đình, vẫn in dấu sâu đậm trong tâm thức của các nhân vật nữ dù trong môi trường đô thị hay nông thôn.</p>
<p><em>Mùi đu đủ xan</em>h của Trần Anh Hùng là một câu chuyện tình yêu đậm chất Á Đông; bên cạnh sự tận tụy của người phụ nữ là sự vắng bóng của người đàn ông trong gia đình. Bộ phim kể về cô bé Mùi lên Sài Gòn làm người ở cho gia đình thành thị gốc Bắc. Mùi, một cô bé có cái nhìn sâu sắc với cuộc đời, nhận ra được những tổn thương, mất mát trong một gia đình tưởng chừng ấm êm.</p>
<p>Người mẹ, người bà đều phải sống trong sự thờ ơ, lạnh nhạt của những người đàn ông trong gia đình. Sự nỗ lực và hy sinh thầm lặng của họ không được chồng và con trân trọng. Khi đối mặt với tình yêu của đời mình, Mùi vẫn lựa chọn nép mình vào một góc lặng lẽ, âm thầm chăm sóc cho gia đình người mình yêu, khi cạnh anh là một vị hôn thê nổi bật cả về ngoại hình lẫn khí chất.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/1.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/13.webp" alt="" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Tình yêu của phụ nữ Á Đông được đặt đối lập với tình yêu mạnh mẽ kiểu Tây phương trong Mùi đu đủ xanh.</p>
<p>Tình yêu của phụ nữ Á Đông được đặt đối lập với tình yêu mạnh mẽ kiểu Tây trong <em>Mùi đu đủ xanh. </em>Nhưng vượt qua khuôn mẫu giới danh cho một cô hầu gái thôn quê, Mùi đã tự tin từng bước đặt chân vào thế giới của chàng trai được giáo dục và ảnh hưởng sâu sắc lối sống Tây phương. Nhìn chung, qua các bộ phim Việt kiều nói chung và phim của Trần Anh Hùng nói riêng, hình ảnh phụ nữ sau Đổi Mới có tính đa chiều: khiêm nhường, lặng lẽ, phục vụ, những không kém phần mạnh mẽ, tân tiến trong lối suy nghĩ, và tự chủ với vận mệnh của mình.</p>
<h3>Đất nước chuyển mình khi phụ nữ chuyển mình</h3>
<p>Không chỉ làm nổi lên những vấn đề về giới trong xã hội Việt Nam đương thời, các nhà làm phim còn gửi gắm niềm hy vọng về tương lai của đất nước qua những ước mơ cá nhân của phụ nữ. Hai tác phẩm làm rõ xu hướng này là <em>Lưỡi dao</em> (1995) của đạo diễn Lê Hoàng và <em>Ba mùa</em> (1999) của đạo diễn Tony Bùi.</p>
<p><em>Lưỡi dao</em> ra đời trong thời kỳ đỉnh cao sự nghiệp của Lê Hoàng theo nhận định của giới chuyên môn. Bộ phim lấy bối cảnh năm 1975 tại miền Nam và kể về nhân vật nữ tên Nguyệt. Sau khi cả gia đình tử nạn trong chiến tranh, Nguyệt trở nên căm ghét lực lượng giải phóng. Khi nỗi hoài nghi và sợ hãi của Nguyệt dần biến mất qua thời gian, cô mới biết được một sự thật chấn động khiến cô dằn vặt giữa tình yêu và tấm lòng hiếu nghĩa. Nhân vật Nguyệt có thể xem là biểu tượng cho nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, xóa nhòa lòng hận thù trong lòng dân tộc. </p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/17.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguyệt có thể xem là biểu tượng cho nỗ lực hàn gắn vết thương chiến tranh, xóa nhòa lòng hận thù trong lòng dân tộc.</p>
<p>Trong khi đó, <em>Ba mùa </em>của đạo diễn người Mỹ gốc Việt Tony Bùi đã tạo nên một không gian Việt có phần lãng mạn hóa nhưng vẫn mang hơi thở của thời đại. Ra mắt ba năm sau khi Việt Nam được gỡ bỏ cấm vận, bộ phim kề những mảnh đời phụ nữ khác nhau tại Sài Gòn dưới tác động của cải cách kinh tế thị trường và hội nhập với phương Tây.</p>
<p><em>Ba mùa </em>mang đến những mảnh ghép đầy sắc màu và nhạy cảm trước những sự giao thoa giữa cái cũ và cái mới, giữa truyền thống và hiện đại. Mỗi người phụ nữ trong phim đại diện cho một giá trị khác nhau. Cô gái làng chơi Lan tìm kiếm một cuộc sống khá giả, không muốn chịu cái bi kịch như mẹ mình, đại diện cho ước mơ có được sự nghiệp, đồng thời giữ lấy cái thanh xuân của người phụ nữ. Ngược lại, An, một cô gái được thuê hái sen, đã an ủi tâm hồn người chủ mắc bệnh phong bằng giọng hát của mình. Cô đại diện cho những giá trị tinh thần đậm chất phương Đông với hình ảnh những đóa sen thuần khiết.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/15.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2023/02/10/hinhanhphunu/16.webp" alt="" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Lan và An đều tìm kiếm sự thay đổi, niềm hy vọng, một ước mơ để tiếp tục sống sau bao tổn thương và cơ cực.</p>
<p>Nếu Lan là một cô gái hiện đại, mang cái nhìn thực tế, phá bỏ tư duy truyền thống thì An, một thiếu nữ truyền thống đại diện cho sự phê phán lề lối cũ, gột rửa quá khứ. Dù có xuất thân, địa vị, và lựa chọn cuộc sống khác nhau, họ đều đang tìm kiếm sự thay đổi, niềm hy vọng, một ước mơ để tiếp tục sống sau bao tổn thương và cơ cực, cũng như Việt Nam đang từng bước vượt qua chiến tranh và những hậu quả của nó để bắt đầu một chương mới của lịch sử.</p>
<p><strong>Kết</strong></p>
<p>Nhiều thập kỷ sau chính sách Đổi Mới, các tác phẩm trên vẫn được giới đại chúng lẫn chuyên môn công nhận là “vàng son của lịch sử điện ảnh.” Các nhà làm phim đã khéo léo đưa phụ nữ xa dần khỏi hình tượng “tấm gương tiêu biểu” của điện ảnh cách mạng. Thay vào đó, họ cho phép các nhân vật nữ được sống với những nỗi niềm, vấn đề, và ước mơ riêng của chính mình, từ đó thể hiện sự chuyển mình của đất nước trong tư tưởng, tiêu chuẩn và nhìn nhận về phụ nữ trong thời đại mới.</p></div>Hẻm Gems: Quán bún bò Huế chinh phục được người không theo 'đạo bún bò'2025-10-17T17:24:16+07:002025-10-17T17:24:16+07:00https://saigoneer.com/vn/food/17975-hẻm-gems-quán-bún-bò-huế-chinh-phục-được-người-không-theo-đạo-bún-bòPaul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb1.webp" alt="" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/00.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Ở Việt Nam, các quán ăn bình dân thường chẳng cầu kỳ. Ghé vào một quán bất kỳ, bạn sẽ bắt gặp khung cảnh quen thuộc: ghế nhựa lụp xụp, bàn inox, khách khứa lẫn phục vụ đều mặc áo thun, đồ bộ. Không gian đơn sơ, tường bong sơn, dầu mỡ loang lổ. Thực đơn viết tay dán tạm lên tường, nhiều quán chỉ bán đúng một món. Âm thanh đường phố hòa với tiếng muỗng đũa. Chủ quán cũng không quá câu nệ chuyện bài trí hay “chuẩn vệ sinh” theo kiểu nhà hàng. Miễn món ăn nóng hổi, đậm đà, khách ăn xong gật gù và quay lại là đủ.</em></p>
<p>Thoạt nhìn, Quán Bà Nga ở Huế chính là một quán ăn như thế. Nằm khiêm tốn trong một khu dân cư nhỏ, chỉ cách Cửa Tây của Kinh Thành chưa đầy một cây số, quán không có bảng hiệu nổi bật, cũng chẳng dễ nhận ra giữa những ngôi nhà xung quanh. Thế nhưng chỉ cần ghé một lần, tôi đã hiểu ngay rằng nơi đây không chỉ mang trọn tinh thần của ẩm thực đường phố, mà còn xứng đáng được liệt vào tốp đầu những quán bún bò ngon nhất tôi từng thử. Dù ngày càng tiếp đón nhiều du khách phương xa, quán vẫn là chốn lui tới quen thuộc của người dân trong vùng. Từ 3 giờ chiều cho đến tận khuya, thực khách ra vào chưa lúc nào ngớt.</p>
<p>Người đứng bếp là một cô lớn tuổi, tay đeo vòng vàng, đều tay khuấy nồi nước dùng đang sôi sùng sục. Quanh cô, vài nhân viên khác thoăn thoắt dọn dẹp, bưng bê, chuẩn bị rau hẹ, xà lách, bún, móng giò và huyết. Gần lối vào, mấy anh shipper đứng đợi món, bên cạnh là một chị bán mít tranh thủ kê thau mít tươi sát lề đường, đi ngang qua họ là vào tới khu ngồi ăn. Căn phòng nhỏ chẳng trang trí gì nhiều, chỉ có mấy chiếc kệ gỗ ọp ẹp tựa vào bức tường loang ẩm, chất đầy nồi niêu, rổ nhựa, và vài bó mía còn dư.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb2.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb3.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Bước vào bên trong, tôi thấy vài chiếc khăn giấy vò nát và vỏ chanh vắt dở còn nằm vương vãi dưới nền. Không ai chào hỏi hay mang thực đơn ra bàn, nhưng chỉ cần ngồi xuống một lúc, sẽ có người để ý, bước tới hỏi ăn gì rồi quay vào trong gọi món. Chưa đầy vài phút sau, tô bún nghi ngút khói đã đặt trước mặt, nhanh đến mức có khi chưa kịp mở điện thoại lướt chút thì đã ăn uống xong xuôi.</p>
<p><span style="background-color: transparent;">Có lần tôi gặp một cảnh hơi buồn cười khi ghé quán Bà Nga. Hôm đó tôi đi một mình, vào một tối giữa tuần, mang theo sách như thường lệ. Vừa gọi món xong, còn đang đọc dở mấy dòng đầu, thì có người đàn ông hớt hải dắt bé trai chừng 10 tuổi vào và đặt cậu xuống chiếc ghế nhựa đối diện. Anh ta dặn dò nhân viên vài câu rồi ào ạt rời đi, chẳng thèm ngoái lại hay giải thích vì sao lại để đứa nhỏ ngồi đây với người lạ như tôi. Nhưng người ta không ngại thì tôi cũng không ngại. Tôi thản nhiên ngồi đọc sách tiếp còn nhóc con không dám hó hé gì, chỉ biết ngồi im thin thít ăn cho hết tô bún. Dường như ở những không gian đường phố, ai cũng phải học cách điềm nhiên trước những chuyện xảy ra quanh mình.</span></p>
<p>Thú thật, trong bảng xếp hạng các món bún của riêng tôi, bún bò Huế chỉ thuộc hàng trung bình. Nói vậy không phải chê nên xin đừng ném đá. Ở Việt Nam có quá nhiều món bún ngon rồi, nên “trung bình” ở đây có nghĩa là “cũng được” chứ không đến mức dở. </p>
<p>Với tôi, bữa tối chỉ cần vừa miệng, dinh dưỡng là đủ, không nhất thiết phải khiến người ta trầm trồ. Nhưng hễ tôi nói với bạn bè rằng, so với mặt bằng chung, tôi thấy bún bò là món “bình thường thôi” — họ lại bảo tôi chắc quý tòa ăn sai chỗ rồi, muốn hiểu thì phải về đúng nơi món ấy sinh ra. Thành thử, tôi mới nghe lời mọi người trong Saigoneer, ghé quán bà Nga trong lần “hành hương” về chốn khai sinh bún bò gần đây.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb5.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb6.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Một nét quen thuộc khác của ẩm thực đường phố là không mấy khi có công thức viết sẵn hay khuôn chuẩn, vì vậy mới có chuyện biến tấu theo ngày, theo vùng. Không có hai quán nào làm ra món y hệt nhau, và càng ở xa nhau thì khác biệt càng rõ. Bún bò cũng vậy. Nếu tách lẻ, từng điểm khác biệt giữa bún bò Sài Gòn và bún bò Huế có vẻ nhỏ, nhưng cộng lại thì thành khác biệt lớn. Ở Sài Gòn, sợi bún thường to hơn, chả lụa hay thay cho chả cua và huyết heo. Nước dùng miền Nam hay dựa vào xương bò và bò viên, còn ở Huế, người ta nghiêng về xương heo và móng giò. Vị nước miền Trung thơm đậm, cay hơn, còn ở miền Nam thì dịu, ngọt một nốt do có đường phèn. Rau thơm và rau sống cũng thay đổi theo vùng và theo mùa, kéo theo vị và độ giòn khác nhau. Khó mà gán cả trải nghiệm cho một cụm từ cụ thể, nhưng ở Huế, tôi thấy tô bún “hài hòa hơn,” các tầng hương vị nâng đỡ nhau chứ không tranh giành vị trí chính.</p>
<div class="smallest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb7.webp" alt="" /></div>
<p>Ngoài hương vị thì giá cả cũng khác nhau. Nói thẳng ra thì, như nhiều mặt hàng khác, ăn bún bò ở Huế rẻ hơn. Ở Bà Nga, một tô đặc biệt đủ thịt bò, chả cua và giò heo chỉ khoảng 40.000–50.000VND, chỉ chọn một loại thịt thì tầm 30.000VND. Trời Huế oi ả, ớt lại cay, gọi thêm ly nước mía 5.000VND là chuẩn bài.</p>
<p>Càng đi nhiều nơi, tôi càng quý các quán ăn đường phố ở Việt Nam, nên mỗi lần nhớ đến Bà Nga tôi lại lưu luyến cảm giác gần gũi và sống động mà nhiều chỗ bây giờ ít dần. Khi quán xá ngày một giống nhau theo một khuôn mẫu, cái phần “ngẫu hứng” của bữa ăn dễ biến mất. Đó là thứ cảm giác rất khó gọi tên, rõ nhất khi ngồi trên ghế nhựa giữa căn phòng nóng ẩm, ồn ào và hơi bừa bộn, mọi thứ chen chúc đến mức tưởng chừng sẽ nổ tung nhưng cuối cùng đâu lại vào đấy.</p>
<p>Ăn bún bò Huế ở chỗ như thế này mới đúng điệu. Còn việc Bà Nga có làm tôi đổi thứ hạng bún bò Huế trong bảng xếp hạng cá nhân hay không thì... hihi, bí mật. Tốt nhất là tự đến ăn và tự kết luận. Tôi chỉ gợi ý thử ở đây, rồi tự bạn sẽ thấy một tô bún bò có thể ngon đến đâu.</p>
<p><strong>Tóm tắt</strong></p>
<ul>
<li>Giờ mở cửa: 5h sáng–11h tối</li>
<li>Gửi xe: Trước quán (chỉ giữ xe máy)</li>
<li>Số điện thoại: 0905263715</li>
<li>Chi phí trung bình: $ (Dưới 100.000VND/người)</li>
<li>Thanh toán: Tiền mặt, chuyển khoản</li>
<li>Ứng dụng giao hàng: ShopeeFood</li>
</ul>
<div class="listing-detail">
<p data-icon="a">Quán Bà Nga</p>
<p data-icon="k">62 Lê Thánh Tôn, Phú Hậu, Huế</p>
</div>
</div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb1.webp" alt="" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/00.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Ở Việt Nam, các quán ăn bình dân thường chẳng cầu kỳ. Ghé vào một quán bất kỳ, bạn sẽ bắt gặp khung cảnh quen thuộc: ghế nhựa lụp xụp, bàn inox, khách khứa lẫn phục vụ đều mặc áo thun, đồ bộ. Không gian đơn sơ, tường bong sơn, dầu mỡ loang lổ. Thực đơn viết tay dán tạm lên tường, nhiều quán chỉ bán đúng một món. Âm thanh đường phố hòa với tiếng muỗng đũa. Chủ quán cũng không quá câu nệ chuyện bài trí hay “chuẩn vệ sinh” theo kiểu nhà hàng. Miễn món ăn nóng hổi, đậm đà, khách ăn xong gật gù và quay lại là đủ.</em></p>
<p>Thoạt nhìn, Quán Bà Nga ở Huế chính là một quán ăn như thế. Nằm khiêm tốn trong một khu dân cư nhỏ, chỉ cách Cửa Tây của Kinh Thành chưa đầy một cây số, quán không có bảng hiệu nổi bật, cũng chẳng dễ nhận ra giữa những ngôi nhà xung quanh. Thế nhưng chỉ cần ghé một lần, tôi đã hiểu ngay rằng nơi đây không chỉ mang trọn tinh thần của ẩm thực đường phố, mà còn xứng đáng được liệt vào tốp đầu những quán bún bò ngon nhất tôi từng thử. Dù ngày càng tiếp đón nhiều du khách phương xa, quán vẫn là chốn lui tới quen thuộc của người dân trong vùng. Từ 3 giờ chiều cho đến tận khuya, thực khách ra vào chưa lúc nào ngớt.</p>
<p>Người đứng bếp là một cô lớn tuổi, tay đeo vòng vàng, đều tay khuấy nồi nước dùng đang sôi sùng sục. Quanh cô, vài nhân viên khác thoăn thoắt dọn dẹp, bưng bê, chuẩn bị rau hẹ, xà lách, bún, móng giò và huyết. Gần lối vào, mấy anh shipper đứng đợi món, bên cạnh là một chị bán mít tranh thủ kê thau mít tươi sát lề đường, đi ngang qua họ là vào tới khu ngồi ăn. Căn phòng nhỏ chẳng trang trí gì nhiều, chỉ có mấy chiếc kệ gỗ ọp ẹp tựa vào bức tường loang ẩm, chất đầy nồi niêu, rổ nhựa, và vài bó mía còn dư.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb2.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb3.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Bước vào bên trong, tôi thấy vài chiếc khăn giấy vò nát và vỏ chanh vắt dở còn nằm vương vãi dưới nền. Không ai chào hỏi hay mang thực đơn ra bàn, nhưng chỉ cần ngồi xuống một lúc, sẽ có người để ý, bước tới hỏi ăn gì rồi quay vào trong gọi món. Chưa đầy vài phút sau, tô bún nghi ngút khói đã đặt trước mặt, nhanh đến mức có khi chưa kịp mở điện thoại lướt chút thì đã ăn uống xong xuôi.</p>
<p><span style="background-color: transparent;">Có lần tôi gặp một cảnh hơi buồn cười khi ghé quán Bà Nga. Hôm đó tôi đi một mình, vào một tối giữa tuần, mang theo sách như thường lệ. Vừa gọi món xong, còn đang đọc dở mấy dòng đầu, thì có người đàn ông hớt hải dắt bé trai chừng 10 tuổi vào và đặt cậu xuống chiếc ghế nhựa đối diện. Anh ta dặn dò nhân viên vài câu rồi ào ạt rời đi, chẳng thèm ngoái lại hay giải thích vì sao lại để đứa nhỏ ngồi đây với người lạ như tôi. Nhưng người ta không ngại thì tôi cũng không ngại. Tôi thản nhiên ngồi đọc sách tiếp còn nhóc con không dám hó hé gì, chỉ biết ngồi im thin thít ăn cho hết tô bún. Dường như ở những không gian đường phố, ai cũng phải học cách điềm nhiên trước những chuyện xảy ra quanh mình.</span></p>
<p>Thú thật, trong bảng xếp hạng các món bún của riêng tôi, bún bò Huế chỉ thuộc hàng trung bình. Nói vậy không phải chê nên xin đừng ném đá. Ở Việt Nam có quá nhiều món bún ngon rồi, nên “trung bình” ở đây có nghĩa là “cũng được” chứ không đến mức dở. </p>
<p>Với tôi, bữa tối chỉ cần vừa miệng, dinh dưỡng là đủ, không nhất thiết phải khiến người ta trầm trồ. Nhưng hễ tôi nói với bạn bè rằng, so với mặt bằng chung, tôi thấy bún bò là món “bình thường thôi” — họ lại bảo tôi chắc quý tòa ăn sai chỗ rồi, muốn hiểu thì phải về đúng nơi món ấy sinh ra. Thành thử, tôi mới nghe lời mọi người trong Saigoneer, ghé quán bà Nga trong lần “hành hương” về chốn khai sinh bún bò gần đây.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb5.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb6.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>Một nét quen thuộc khác của ẩm thực đường phố là không mấy khi có công thức viết sẵn hay khuôn chuẩn, vì vậy mới có chuyện biến tấu theo ngày, theo vùng. Không có hai quán nào làm ra món y hệt nhau, và càng ở xa nhau thì khác biệt càng rõ. Bún bò cũng vậy. Nếu tách lẻ, từng điểm khác biệt giữa bún bò Sài Gòn và bún bò Huế có vẻ nhỏ, nhưng cộng lại thì thành khác biệt lớn. Ở Sài Gòn, sợi bún thường to hơn, chả lụa hay thay cho chả cua và huyết heo. Nước dùng miền Nam hay dựa vào xương bò và bò viên, còn ở Huế, người ta nghiêng về xương heo và móng giò. Vị nước miền Trung thơm đậm, cay hơn, còn ở miền Nam thì dịu, ngọt một nốt do có đường phèn. Rau thơm và rau sống cũng thay đổi theo vùng và theo mùa, kéo theo vị và độ giòn khác nhau. Khó mà gán cả trải nghiệm cho một cụm từ cụ thể, nhưng ở Huế, tôi thấy tô bún “hài hòa hơn,” các tầng hương vị nâng đỡ nhau chứ không tranh giành vị trí chính.</p>
<div class="smallest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/07/25/bunbo/bb7.webp" alt="" /></div>
<p>Ngoài hương vị thì giá cả cũng khác nhau. Nói thẳng ra thì, như nhiều mặt hàng khác, ăn bún bò ở Huế rẻ hơn. Ở Bà Nga, một tô đặc biệt đủ thịt bò, chả cua và giò heo chỉ khoảng 40.000–50.000VND, chỉ chọn một loại thịt thì tầm 30.000VND. Trời Huế oi ả, ớt lại cay, gọi thêm ly nước mía 5.000VND là chuẩn bài.</p>
<p>Càng đi nhiều nơi, tôi càng quý các quán ăn đường phố ở Việt Nam, nên mỗi lần nhớ đến Bà Nga tôi lại lưu luyến cảm giác gần gũi và sống động mà nhiều chỗ bây giờ ít dần. Khi quán xá ngày một giống nhau theo một khuôn mẫu, cái phần “ngẫu hứng” của bữa ăn dễ biến mất. Đó là thứ cảm giác rất khó gọi tên, rõ nhất khi ngồi trên ghế nhựa giữa căn phòng nóng ẩm, ồn ào và hơi bừa bộn, mọi thứ chen chúc đến mức tưởng chừng sẽ nổ tung nhưng cuối cùng đâu lại vào đấy.</p>
<p>Ăn bún bò Huế ở chỗ như thế này mới đúng điệu. Còn việc Bà Nga có làm tôi đổi thứ hạng bún bò Huế trong bảng xếp hạng cá nhân hay không thì... hihi, bí mật. Tốt nhất là tự đến ăn và tự kết luận. Tôi chỉ gợi ý thử ở đây, rồi tự bạn sẽ thấy một tô bún bò có thể ngon đến đâu.</p>
<p><strong>Tóm tắt</strong></p>
<ul>
<li>Giờ mở cửa: 5h sáng–11h tối</li>
<li>Gửi xe: Trước quán (chỉ giữ xe máy)</li>
<li>Số điện thoại: 0905263715</li>
<li>Chi phí trung bình: $ (Dưới 100.000VND/người)</li>
<li>Thanh toán: Tiền mặt, chuyển khoản</li>
<li>Ứng dụng giao hàng: ShopeeFood</li>
</ul>
<div class="listing-detail">
<p data-icon="a">Quán Bà Nga</p>
<p data-icon="k">62 Lê Thánh Tôn, Phú Hậu, Huế</p>
</div>
</div>Sen - nguồn sống cho phụ nữ và mạch đất miền Tây2025-10-17T08:21:00+07:002025-10-17T08:21:00+07:00https://saigoneer.com/vn/vietnam-environment/17971-sen-nguồn-sống-cho-phụ-nữ-và-mạch-đất-miền-tâyPaul Christiansen. Ảnh: Alberto Prietoinfo@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/121.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p>Tại Đồng bằng sông Cửu Long, phụ nữ đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong cuộc sống. Họ vừa thiếu điều kiện tiếp cận giáo dục, vừa chật vật vì mùa màng bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Thế nhưng, dù cuộc sống còn khó khăn, người dân nơi đây vẫn tìm thấy hy vọng trong những đầm sen đang vào mùa nở rộ.</p>
<p>Từ lâu, cây sen đã được xem như biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt: loài hoa mang sức sống bền bỉ, vươn lên mạnh mẽ từ bùn lầy để tỏa hương như trong câu ca dao: “Trong đầm gì đẹp bằng sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l3.webp" /></div>
<p>Từ biểu tượng của sự kiên cường, cây sen trở thành nguồn sinh kế thực tiễn cho phụ nữ miền Tây thông qua chương trình do WWF-Việt Nam triển khai, trong khuôn khổ dự án Giải pháp thuận thiên thích ứng với biến đổi khí hậu Đồng bằng sông Cửu Long (CRxN Mekong).</p>
<div class="iframe sixteen-nine-ratio"><iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/RMjMqOX7Kc0?si=YQIu_iaxy4UXhPKr" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" referrerpolicy="strict-origin-when-cross-origin" allowfullscreen></iframe></div>
<p>Là loài thực vật bản địa của Đồng bằng sông Cửu Long, cây sen sinh trưởng dày đặc ở sông ngòi và ao hồ — những môi trường đã chịu nhiều biến đổi do hoạt động canh tác của con người.</p>
<p> </p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l4.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l2.webp" /></div>
</div>
<p>Suốt nhiều thập kỷ, để tăng sản lượng lương thực, nhà nông đã đắp đê trong mùa lũ để gieo thêm vụ lúa thứ ba. Cách làm này phá vỡ chu kỳ tự nhiên của dòng nước, khiến đất dần bạc màu, nguồn dinh dưỡng cạn kiệt, còn thuốc trừ sâu và phân hóa học lại làm hệ sinh thái thêm ô nhiễm. Trong bối cảnh đó, cây sen trở thành một lựa chọn canh tác thay thế hài hòa hơn với tự nhiên.</p>
<p>Các mô hình trồng sen mùa nước lũ do WWF-Việt Nam triển khai đang mở ra nguồn thu nhập ổn định cho người nông dân. Chỉ sau khoảng bốn đến bốn tháng rưỡi, thân và hạt sen được thu hoạch, chế biến và bán ra thị trường, mang lại trung bình hơn 43 triệu đồng/ha (tương đương 1.867 USD). Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mô hình này còn tạo tác động tích cực đến môi trường: giảm phát thải khí nhà kính, tăng khả năng giữ nước, phù sa và cải thiện chất lượng nguồn nước, phục hồi đất, đồng thời thúc đẩy đa dạng sinh học — những đặc tính vượt trội khi so với canh tác vụ lúa thứ ba thông thường.</p>
<div class="biggest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/233.webp" alt="" /></div>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l5.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l6.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Tại Đồng bằng sông Cửu Long, hệ sinh thái tự nhiên và cộng đồng cư dân gắn bó chặt chẽ, nương tựa lẫn nhau.</p>
<p>Để khuyến khích người dân chuyển đổi, WWF-Việt Nam đã hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho tám hộ tại xã Tân Hưng (tỉnh Tây Ninh, trước đây thuộc Long An). Dưới sự hướng dẫn của chuyên gia từ Trung tâm Biến đổi Khí hậu An Giang, nông dân được tập huấn kỹ thuật trồng sen và sử dụng phân bón hữu cơ nhằm hạn chế sâu bệnh. Saigoneer đã có dịp đến tận nơi để tìm hiểu cách mô hình này vận hành và nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ nơi đây.</p>
<h3>Chuyến ghé thăm đầm sen đầy cảm hứng</h3>
<div class="biggest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l7.webp" /></div>
<p>Giữa những thửa ruộng lúa kẻ ô thẳng tắp, đầm sen hiện ra như những mảng xanh hồng trên nền đất. Muốn vào được tận nơi, chúng tôi phải ngồi thuyền nhỏ len lỏi qua dòng nước. Đứng trên bờ đất hẹp, từ xa chỉ thấy lấp ló mấy chiếc nón lá thấp thoáng giữa hoa, đôi bàn tay thoăn thoắt đưa lên hái gương sen bỏ vào giỏ đeo sau lưng. Chừng 15 phút sau, nhóm phụ nữ tiến lại gần, và chúng tôi có dịp trò chuyện với chị Lê Thị Thòng, người đang tất bật thu hoạch sen buổi sáng hôm ấy.</p>
<p>Chị kể: “Hồi lúc trước chị trồng cũng trúng sen, nhưng mà không có quy trình thì sen nó cũng hay bị bệnh. Cho nên mấy anh hỗ trợ trồng sen sạch, kỹ thuật trồng rất là tốt.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/126.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l8.webp" /></div>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/124.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Lê Thị Thòng hái gương sen.</p>
<p>Nhờ nguồn thu nhập ổn định từ trồng sen, cuộc sống của nhiều phụ nữ nơi đây đã thay đổi. Với số tiền kiếm được, chị Thòng có thể lo cho bữa cơm gia đình đủ đầy hơn và cho con đi học tiếp. Quan trọng hơn, vì công việc ở ngay gần nhà nên chị vẫn có thể đưa đón con mỗi ngày, thay vì phải lên các khu công nghiệp xa xôi.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l22.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Nguyễn Thị Diễm Trinh bên đầm sen trước nhà.</p>
<p>Chị Nguyễn Thị Diễm Trinh, một người trồng sen khác, cũng nói rằng từ ngày theo mô hình này, chị thấy mình gắn bó với xóm làng hơn. Sau khi nói chuyện về chuyện gieo hạt, thu hoạch, chị rủ chúng tôi ở lại ăn cơm trưa. Mâm cơm đơn giản mà ấm cúng: thịt kho, khổ qua xào, rồi thêm món gỏi ngó sen giòn mát. Chưa kịp ăn xong, hàng xóm, cán bộ xã rồi cả mấy anh chị bên WWF-Việt Nam cũng ghé qua. Ai đến cũng được kéo lại ngồi, vừa ăn vừa trò chuyện. Không khí ấy chẳng khác gì những buổi họp nhóm mà chị hay kể: “Tới kỳ họp mọi người tụ họp ở nhà chị vậy nè, khoảng hai, ba chục người, mọi người qua đây ăn uống, nói chuyện rất vui vẻ, hòa đồng với nhau.” Nhờ trồng sen, những người phụ nữ như chị Trinh, chị Thòng không chỉ có thêm thu nhập mà còn được nhìn nhận và lắng nghe nhiều hơn trong gia đình cũng như trong các sinh hoạt chung của xóm làng.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l13.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l14.webp" /></div>
</div>
<h3>Niềm hy vọng từ xưởng chế biến sen</h3>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l23.webp" /></div>
<p>Cứ vài phút lại có một chiếc xe tải ghé tới, chở theo những bó ngó sen tươi rói. Ngay lập tức, nhóm công nhân nhanh nhẹn bốc dỡ rồi phân loại trên nền xưởng rộng. Những người phụ nữ ngồi trên ghế nhựa, tay thoăn thoắt rửa, cắt, lựa từng khúc ngó sen. Ở góc khác, các chậu lớn ngâm và lên men, chuẩn bị cho công đoạn đóng gói trong những mẫu bao bì bắt mắt, sẵn sàng lên kệ siêu thị trong và ngoài nước.</p>
<div class="one-row full-width">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l15.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l17.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l16.webp" /></div>
</div>
<p>Đó là nhịp sống thường ngày tại Vựa Sen Tâm, một cơ sở nhỏ ở xã Tây Ninh được lập ra để giải quyết nghịch lý: vùng đất này trồng ra rất nhiều sen, nhưng lại gần như không có thị trường tiêu thụ. Nhờ có công ty, nông dân yên tâm vì đầu ra ổn định, còn phụ nữ địa phương có thêm cơ hội việc làm ngay gần nhà.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l18.webp" /></div>
<p>Vựa Sen Tâm hoạt động như một điểm tập trung, kết nối nông hộ với các doanh nghiệp phân phối lớn. Điều này giúp đội ngũ lao động — phần lớn là chị em phụ nữ — vừa mưu sinh, vừa quán xuyến gia đình. Trong chuyến thăm, chúng tôi còn gặp một cô công nhân thường đưa đứa cháu nuôi tới xưởng. Em nhỏ được mọi người chăm sóc tận tình: “Mấy chị ở đây cũng thương đứa cháu lắm. Mua cái này cái kia cho quài à.”</p>
<p>Không chỉ mang lại thu nhập, công việc ở đây còn đem đến cho phụ nữ cảm giác bình yên và tiếng nói mới trong gia đình. Chị Hương, quản lý nhà máy, chia sẻ: “Mình là phụ nữ, [ngày trước] mình ở nhà giữ con. Mình không làm ra tiền, tiếng nói mình không có bằng. Bây giờ mình đi làm, mình có tiền, mình có thể chan hoà hơn.”</p>
<div class="one-row full-width">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l19.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l21.webp" /></div>
</div>
<p>Những cải thiện trong đời sống phụ nữ cũng song hành với lợi ích môi trường. So với canh tác lúa truyền thống, mô hình sen giúp cắt giảm tới 73,2% lượng khí thải nhà kính, đồng thời tích trữ hơn 662.000m³ nước mỗi ha, cải thiện chất lượng nguồn nước và làm giàu độ phì của đất. Nhờ đó, vụ sau ít cần phân bón hơn, hệ sinh thái quanh đó cũng đa dạng và khỏe mạnh hơn; điển hình là Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen là nơi sinh trưởng của hơn 86 loài thực vật, 51 loài cá và 73 loài chim nước.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l12.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Nguyễn Thị Diễm Trinh và con trai.</p>
<p>Ở Việt Nam, hình ảnh bông sen hiện diện gần như mỗi ngày – từ đài phun nước công cộng, các chi tiết trang trí, đến thương hiệu và thời trang. Nhưng khi hiểu rõ hơn về vai trò của cây sen trong dự án CRxN Mekong do WWF-Việt Nam triển khai, ta mới nhận ra vẻ đẹp ấy vượt xa tính biểu tượng. Sen không chỉ là hình ảnh ẩn dụ cho sự kiên cường và thanh khiết, mà còn là nguồn sinh kế cho người dân, cơ hội trao quyền cho phụ nữ, và giải pháp giúp tái tạo hệ sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long.</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/121.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p>Tại Đồng bằng sông Cửu Long, phụ nữ đang phải đối mặt với nhiều thách thức trong cuộc sống. Họ vừa thiếu điều kiện tiếp cận giáo dục, vừa chật vật vì mùa màng bị ảnh hưởng nặng nề bởi biến đổi khí hậu. Thế nhưng, dù cuộc sống còn khó khăn, người dân nơi đây vẫn tìm thấy hy vọng trong những đầm sen đang vào mùa nở rộ.</p>
<p>Từ lâu, cây sen đã được xem như biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của người Việt: loài hoa mang sức sống bền bỉ, vươn lên mạnh mẽ từ bùn lầy để tỏa hương như trong câu ca dao: “Trong đầm gì đẹp bằng sen. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.”</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l3.webp" /></div>
<p>Từ biểu tượng của sự kiên cường, cây sen trở thành nguồn sinh kế thực tiễn cho phụ nữ miền Tây thông qua chương trình do WWF-Việt Nam triển khai, trong khuôn khổ dự án Giải pháp thuận thiên thích ứng với biến đổi khí hậu Đồng bằng sông Cửu Long (CRxN Mekong).</p>
<div class="iframe sixteen-nine-ratio"><iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/RMjMqOX7Kc0?si=YQIu_iaxy4UXhPKr" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" referrerpolicy="strict-origin-when-cross-origin" allowfullscreen></iframe></div>
<p>Là loài thực vật bản địa của Đồng bằng sông Cửu Long, cây sen sinh trưởng dày đặc ở sông ngòi và ao hồ — những môi trường đã chịu nhiều biến đổi do hoạt động canh tác của con người.</p>
<p> </p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l4.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l2.webp" /></div>
</div>
<p>Suốt nhiều thập kỷ, để tăng sản lượng lương thực, nhà nông đã đắp đê trong mùa lũ để gieo thêm vụ lúa thứ ba. Cách làm này phá vỡ chu kỳ tự nhiên của dòng nước, khiến đất dần bạc màu, nguồn dinh dưỡng cạn kiệt, còn thuốc trừ sâu và phân hóa học lại làm hệ sinh thái thêm ô nhiễm. Trong bối cảnh đó, cây sen trở thành một lựa chọn canh tác thay thế hài hòa hơn với tự nhiên.</p>
<p>Các mô hình trồng sen mùa nước lũ do WWF-Việt Nam triển khai đang mở ra nguồn thu nhập ổn định cho người nông dân. Chỉ sau khoảng bốn đến bốn tháng rưỡi, thân và hạt sen được thu hoạch, chế biến và bán ra thị trường, mang lại trung bình hơn 43 triệu đồng/ha (tương đương 1.867 USD). Không chỉ mang lại giá trị kinh tế, mô hình này còn tạo tác động tích cực đến môi trường: giảm phát thải khí nhà kính, tăng khả năng giữ nước, phù sa và cải thiện chất lượng nguồn nước, phục hồi đất, đồng thời thúc đẩy đa dạng sinh học — những đặc tính vượt trội khi so với canh tác vụ lúa thứ ba thông thường.</p>
<div class="biggest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/233.webp" alt="" /></div>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l5.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l6.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Tại Đồng bằng sông Cửu Long, hệ sinh thái tự nhiên và cộng đồng cư dân gắn bó chặt chẽ, nương tựa lẫn nhau.</p>
<p>Để khuyến khích người dân chuyển đổi, WWF-Việt Nam đã hỗ trợ kỹ thuật và tài chính cho tám hộ tại xã Tân Hưng (tỉnh Tây Ninh, trước đây thuộc Long An). Dưới sự hướng dẫn của chuyên gia từ Trung tâm Biến đổi Khí hậu An Giang, nông dân được tập huấn kỹ thuật trồng sen và sử dụng phân bón hữu cơ nhằm hạn chế sâu bệnh. Saigoneer đã có dịp đến tận nơi để tìm hiểu cách mô hình này vận hành và nâng cao chất lượng cuộc sống của phụ nữ nơi đây.</p>
<h3>Chuyến ghé thăm đầm sen đầy cảm hứng</h3>
<div class="biggest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l7.webp" /></div>
<p>Giữa những thửa ruộng lúa kẻ ô thẳng tắp, đầm sen hiện ra như những mảng xanh hồng trên nền đất. Muốn vào được tận nơi, chúng tôi phải ngồi thuyền nhỏ len lỏi qua dòng nước. Đứng trên bờ đất hẹp, từ xa chỉ thấy lấp ló mấy chiếc nón lá thấp thoáng giữa hoa, đôi bàn tay thoăn thoắt đưa lên hái gương sen bỏ vào giỏ đeo sau lưng. Chừng 15 phút sau, nhóm phụ nữ tiến lại gần, và chúng tôi có dịp trò chuyện với chị Lê Thị Thòng, người đang tất bật thu hoạch sen buổi sáng hôm ấy.</p>
<p>Chị kể: “Hồi lúc trước chị trồng cũng trúng sen, nhưng mà không có quy trình thì sen nó cũng hay bị bệnh. Cho nên mấy anh hỗ trợ trồng sen sạch, kỹ thuật trồng rất là tốt.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/126.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l8.webp" /></div>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/124.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Lê Thị Thòng hái gương sen.</p>
<p>Nhờ nguồn thu nhập ổn định từ trồng sen, cuộc sống của nhiều phụ nữ nơi đây đã thay đổi. Với số tiền kiếm được, chị Thòng có thể lo cho bữa cơm gia đình đủ đầy hơn và cho con đi học tiếp. Quan trọng hơn, vì công việc ở ngay gần nhà nên chị vẫn có thể đưa đón con mỗi ngày, thay vì phải lên các khu công nghiệp xa xôi.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l22.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Nguyễn Thị Diễm Trinh bên đầm sen trước nhà.</p>
<p>Chị Nguyễn Thị Diễm Trinh, một người trồng sen khác, cũng nói rằng từ ngày theo mô hình này, chị thấy mình gắn bó với xóm làng hơn. Sau khi nói chuyện về chuyện gieo hạt, thu hoạch, chị rủ chúng tôi ở lại ăn cơm trưa. Mâm cơm đơn giản mà ấm cúng: thịt kho, khổ qua xào, rồi thêm món gỏi ngó sen giòn mát. Chưa kịp ăn xong, hàng xóm, cán bộ xã rồi cả mấy anh chị bên WWF-Việt Nam cũng ghé qua. Ai đến cũng được kéo lại ngồi, vừa ăn vừa trò chuyện. Không khí ấy chẳng khác gì những buổi họp nhóm mà chị hay kể: “Tới kỳ họp mọi người tụ họp ở nhà chị vậy nè, khoảng hai, ba chục người, mọi người qua đây ăn uống, nói chuyện rất vui vẻ, hòa đồng với nhau.” Nhờ trồng sen, những người phụ nữ như chị Trinh, chị Thòng không chỉ có thêm thu nhập mà còn được nhìn nhận và lắng nghe nhiều hơn trong gia đình cũng như trong các sinh hoạt chung của xóm làng.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l13.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l14.webp" /></div>
</div>
<h3>Niềm hy vọng từ xưởng chế biến sen</h3>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l23.webp" /></div>
<p>Cứ vài phút lại có một chiếc xe tải ghé tới, chở theo những bó ngó sen tươi rói. Ngay lập tức, nhóm công nhân nhanh nhẹn bốc dỡ rồi phân loại trên nền xưởng rộng. Những người phụ nữ ngồi trên ghế nhựa, tay thoăn thoắt rửa, cắt, lựa từng khúc ngó sen. Ở góc khác, các chậu lớn ngâm và lên men, chuẩn bị cho công đoạn đóng gói trong những mẫu bao bì bắt mắt, sẵn sàng lên kệ siêu thị trong và ngoài nước.</p>
<div class="one-row full-width">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l15.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l17.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l16.webp" /></div>
</div>
<p>Đó là nhịp sống thường ngày tại Vựa Sen Tâm, một cơ sở nhỏ ở xã Tây Ninh được lập ra để giải quyết nghịch lý: vùng đất này trồng ra rất nhiều sen, nhưng lại gần như không có thị trường tiêu thụ. Nhờ có công ty, nông dân yên tâm vì đầu ra ổn định, còn phụ nữ địa phương có thêm cơ hội việc làm ngay gần nhà.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l18.webp" /></div>
<p>Vựa Sen Tâm hoạt động như một điểm tập trung, kết nối nông hộ với các doanh nghiệp phân phối lớn. Điều này giúp đội ngũ lao động — phần lớn là chị em phụ nữ — vừa mưu sinh, vừa quán xuyến gia đình. Trong chuyến thăm, chúng tôi còn gặp một cô công nhân thường đưa đứa cháu nuôi tới xưởng. Em nhỏ được mọi người chăm sóc tận tình: “Mấy chị ở đây cũng thương đứa cháu lắm. Mua cái này cái kia cho quài à.”</p>
<p>Không chỉ mang lại thu nhập, công việc ở đây còn đem đến cho phụ nữ cảm giác bình yên và tiếng nói mới trong gia đình. Chị Hương, quản lý nhà máy, chia sẻ: “Mình là phụ nữ, [ngày trước] mình ở nhà giữ con. Mình không làm ra tiền, tiếng nói mình không có bằng. Bây giờ mình đi làm, mình có tiền, mình có thể chan hoà hơn.”</p>
<div class="one-row full-width">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l19.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l21.webp" /></div>
</div>
<p>Những cải thiện trong đời sống phụ nữ cũng song hành với lợi ích môi trường. So với canh tác lúa truyền thống, mô hình sen giúp cắt giảm tới 73,2% lượng khí thải nhà kính, đồng thời tích trữ hơn 662.000m³ nước mỗi ha, cải thiện chất lượng nguồn nước và làm giàu độ phì của đất. Nhờ đó, vụ sau ít cần phân bón hơn, hệ sinh thái quanh đó cũng đa dạng và khỏe mạnh hơn; điển hình là Khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen là nơi sinh trưởng của hơn 86 loài thực vật, 51 loài cá và 73 loài chim nước.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-lotus/l12.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Nguyễn Thị Diễm Trinh và con trai.</p>
<p>Ở Việt Nam, hình ảnh bông sen hiện diện gần như mỗi ngày – từ đài phun nước công cộng, các chi tiết trang trí, đến thương hiệu và thời trang. Nhưng khi hiểu rõ hơn về vai trò của cây sen trong dự án CRxN Mekong do WWF-Việt Nam triển khai, ta mới nhận ra vẻ đẹp ấy vượt xa tính biểu tượng. Sen không chỉ là hình ảnh ẩn dụ cho sự kiên cường và thanh khiết, mà còn là nguồn sinh kế cho người dân, cơ hội trao quyền cho phụ nữ, và giải pháp giúp tái tạo hệ sinh thái vùng Đồng bằng sông Cửu Long.</p></div>Giữa lòng Hội An, nghệ sĩ Nguyễn Quốc Dân thổi sức sống mới vào những phế phẩm đời sống2025-10-14T17:31:35+07:002025-10-14T17:31:35+07:00https://saigoneer.com/vn/vietnam-music-art/17972-giữa-lòng-hội-an,-nghệ-sĩ-nguyễn-quốc-dân-thổi-sức-sống-mới-vào-những-phế-phẩm-đời-sốngPaul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p dir="ltr"><em>Hàng chục bàn thờ gia tiên cũ nằm chồng chất trong góc sân. Mỗi chiếc đều từng bị bỏ quên giữa những ngôi mộ rêu phong. Với nhiều người, đó là thứ cấm kỵ không nên chạm tới. Nhưng anh Nguyễn Quốc Dân lại coi chúng là kho báu để sáng tạo.</em></p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a2.webp" /></div>
<p dir="ltr">Anh Dân tìm thấy phần lớn chất liệu sáng tác của mình trong những nghĩa trang quanh vùng, nơi người khác xem là chốn kiêng kỵ, nhưng lại nuôi dưỡng phong cách nghệ thuật mà anh gọi là chủ nghĩa Tái Sinh, hay <em>Taisinism</em> trong tiếng Anh. </p>
<p dir="ltr">Khi chúng tôi đến thăm ngôi nhà kiêm xưởng làm việc rộng gần 2.000 mét vuông của anh ở Hội An, tinh thần Tái Sinh ấy hiện diện ở khắp nơi. Chai lọ, can nhựa, bình gốm, lưới đánh cá, chăn màn, túi xách, vỏ máy điện tử, ống nước, dây điện, vải vóc, gạch lát, vật trang trí… phủ kín không gian. Cả khu nhà giống như một thế giới được ghép lại từ những mảnh vụn mà chủ nghĩa tiêu dùng đã bỏ quên.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a3.webp" /></div>
<p>Một bầy chó thân thiện nhưng nghịch ngợm lao ra sủa vang khi chúng tôi đến gần cổng. Có tiếng gọi vọng ra, bầy chó lập tức chạy vào trong. Cánh cổng mở hé, chúng tôi bước vào khu nhà nằm ở vùng ven Hội An, mặt tiền kín đáo, trông chẳng khác gì một xưởng cơ khí nhỏ. Bên trong, anh Dân với mái tóc dài và bộ râu rậm đang chăm chú chỉ đạo thợ thi công một hạng mục mới. Thấy anh bận, anh Huy ra đón chúng tôi.</p>
<p>Anh Huy là người Bến Tre. Trong chuyến đạp xe xuyên Đông Nam Á, anh từng dừng chân ở xưởng tái chế của anh Dân để nghỉ ngơi vài ngày. Nhưng chính triết lý và tinh thần ở đây khiến anh quyết định ở lại hơn một năm. Những vết sẹo trên tay là kỷ niệm của quãng thời gian đó, minh chứng cho lòng tận tâm với nghệ thuật. Sau hơn một năm làm việc cùng anh Dân, anh có lẽ là người am hiểu nhất về chủ nghĩa Tái Sinh mà cộng sự mình theo đuổi.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a15.webp" style="background-color: transparent;" /></p>
<p>Trước khi dẫn chúng tôi đi tham quan xưởng, anh Huy hỏi: “Anh biết tòa nhà nào an toàn nhất thế giới không?”</p>
<p>Chúng tôi lắc đầu. Anh mỉm cười nói tiếp: “Trụ sở Liên Hợp Quốc. Thử tưởng tượng những nhà lãnh đạo thế giới ngồi quanh một trong các tác phẩm của anh Dân xem.”</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a4.webp" /></div>
<p>Những tác phẩm ấy thật khó quên: chiếc quần jean được uốn nắn, dán chặt thành hình Đức Phật ngồi thiền; vỏ tivi bị nung chảy, biến dạng thành mặt nạ chiến binh; hay tấm mền khách sạn được bó, xoắn, cố định thành hình một người khoác áo choàng. Khi hình dung chúng giữa phòng họp của các nguyên thủ, người ta có thể hiểu được cả tham vọng của anh Dân lẫn thông điệp mà anh muốn gửi gắm qua nghệ thuật.</p>
<p>Không gian xưởng mà anh Huy dẫn chúng tôi đi qua được xây dựng theo đúng thiết kế của anh Dân. Trước đó, nhiều đội thi công từng bỏ cuộc vì cho rằng bản vẽ quá khó thực hiện. Cuối cùng, công trình cũng hoàn thành, với hai cánh cửa tròn lớn ở hai đầu. Khi mở ra, ánh sáng lọt vào, hắt bóng lên nền nhà thành hình lưỡi liềm.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a5.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a6.webp" /></div>
</div>
<p>Anh Huy vừa chỉ cho chúng tôi xem từng bức tượng, vừa đố chúng tôi đoán chúng được làm từ gì. Giữa lúc đó, anh Dân bước đến, muốn giới thiệu phần đặc biệt nhất của xưởng. Ở giữa gian nhà là một khoảng sàn trũng, nơi một cái cây lớn mọc lên, tán vươn sát trần. Ngay phía trên là một ô kính lớn đón ánh sáng ban ngày. Anh Dân còn nghĩ ra một cách dẫn nước khéo léo, để khi mở van, nước từ mái chảy xuống như một cơn mưa thật.</p>
<p>Anh bật hệ thống, những giọt nước bắt đầu rơi lộp độp. Trong tiếng mưa, anh cởi quần dài rồi bắt đầu tạo nhạc: gõ vào thùng kim loại, chai nhựa và những vật phế thải quanh gốc cây. Âm thanh vang dội, nhịp nhanh và dồn dập lan khắp không gian. Anh như trút hết năng lượng vào màn trình diễn, còn anh Huy đứng cạnh, vừa quan sát vừa kể cho chúng tôi nghe cách các tác phẩm quanh đó được tạo ra.</p>
<div class="bigger" v=""><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a17.webp" /></div>
<div class="one-row bigger">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a8.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a19.webp" /></div>
</div>
<p dir="ltr">Nhiều tác phẩm của anh Dân được tạo ra bằng cách nung chảy các vật liệu nhặt từ bãi rác và bãi chôn lấp. Chúng nguội rất nhanh, nên anh và nhóm cộng sự phải làm việc gấp rút để kịp tạo hình. Họ thường dùng ma-nơ-canh hoặc những món phế liệu khác làm khuôn.</p>
<p dir="ltr">Quá trình ấy không hề an toàn. Anh Huy kể, có người trong nhóm đã làm việc đến mức đầu ngón tay chai cứng, có thể cầm trực tiếp đồ đang nóng. Nhiều khi họ không mang khẩu trang dù khói độc bốc lên nồng nặc, chỉ vì nhiệt trong xưởng quá cao. Anh Dân nói rằng, người nghệ sĩ phải chịu đựng như chính linh hồn của vật liệu từng chịu đựng.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a16.webp" /></div>
<p>Anh Huy nhặt lên một chai nước giặt, hỏi: “Anh đoán xem, chai này giá bao nhiêu khi còn đầy, và bao nhiêu khi rỗng?” Chúng tôi đoán sai. Anh trả lời ngay: “Ba mươi lăm nghìn khi đầy, mười lăm nghìn khi rỗng, rồi còn phải trả thêm tiền để vứt bỏ.”</p>
<p>Câu chuyện về giá trị của cái chai rỗng là tiền đề cho chủ nghĩa Tái Sinh. Theo anh Dân, Tái Sinh không giống tái chế, vốn chỉ kéo dài vòng đời của vật liệu theo giá trị thấp hơn. Nó cũng khác “tái tạo” — vốn chỉ đổi công năng. Tái Sinh là sự chuyển hóa hoàn toàn, biến vật vô giá trị thành tác phẩm nghệ thuật, một thứ không thể đo bằng tiền, dù có được đem ra đấu giá hay bán. Anh không kéo dài tuổi thọ của vật chất, mà kéo giãn nó đến vô tận, để chúng không bao giờ quay lại bãi rác.</p>
<p>Bãi rác giữ vai trò trung tâm trong triết lý Tái Sinh. Thuở nhỏ, anh Dân thường theo mẹ đi nhặt rác. Những đồng tiền ít ỏi kiếm được từ đó giúp hai mẹ con trang trải cuộc sống. Giờ đây, anh vẫn trở lại những bãi rác cũ, nhưng với một tâm thế khác.</p>
<p>Anh còn tìm thấy nhiều vật liệu ở nghĩa trang. Nhiều người lợi dụng sự hoang vắng và cấm kỵ nơi ấy để lén đổ rác thải, và chính từ đó anh có được những món đồ đặc biệt. Nhiều ma-nơ-canh anh dùng làm khuôn, hay dựng thành tượng ma-nơ-canh cao vút, đều được anh nhặt từ những nghĩa địa quanh vùng.</p>
<p>Theo lời anh Huy, từ khi tên tuổi của anh Dân được biết đến rộng rãi, người ta bắt đầu mang rác đến cho anh. “Giờ thì rác tự tìm đến bọn anh,” anh nói vui.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a11.webp" /></p>
<p class="image-caption">Anh Dân nghỉ ngơi trên bãi rác. Nguồn ảnh: <a href="https://www.instagram.com/nguyenquocdan?utm_source=ig_web_button_share_sheet&igsh=NjFrY212aXlqa3cy" target="_blank">Instagram</a> Nguyễn Quốc Dân.</p>
<p dir="ltr">Công việc và lối sống của anh Dân có thể khiến nhiều người thấy kỳ lạ, nhưng anh không phải là kẻ ngoài lề của thế giới nghệ thuật. Tài năng sáng tạo của anh đã được phát hiện từ sớm. Anh nhận được học bổng theo học tại Đại học Mỹ thuật TP.HCM, nơi anh từng theo đuổi các phong cách đương đại truyền thống hơn.</p>
<p>Những năm tháng ấy giúp anh hiểu sâu về nền tảng, kỹ thuật và mục tiêu của nghệ thuật, trong khi căn phòng trọ nhỏ ở Sài Gòn lại chất đầy những món rác mà anh thu nhặt mỗi ngày. Chính sự song hành đó đã dẫn anh đến một bước ngoặt: nhận ra rằng nghệ thuật, với anh, phải trả lời những câu hỏi của thời đại. Anh nói, các phong trào như lập thể hay hiện đại đã làm xong sứ mệnh của chúng. Câu hỏi còn bỏ ngỏ hôm nay là: “Chúng ta sẽ làm gì với khối rác khổng lồ mà loài người đang tạo ra mỗi ngày?” Và Tái Sinh chính là câu trả lời của anh cho câu hỏi đó.</p>
<p>Kinh nghiệm từng làm việc trong giới nghệ thuật, cùng với sự cuốn hút của bản thân, giúp anh Dân có được chỗ đứng riêng. Lượng người theo dõi trên mạng xã hội, các bài báo và triển lãm — trong đó có buổi trưng bày gần đây tại <a href="https://vccavietnam.com/trien-lam-tai-chat-hoan-sinh-vat-chat-tai-sinh-materia-renata" target="_blank">VCCA</a> Hà Nội — đều cho thấy anh đã trở thành một nghệ sĩ được biết đến rộng rãi. Nhờ vậy, anh có cơ hội chia sẻ Tái Sinh đến nhiều người hơn.</p>
<p>Khách trong nước và nước ngoài thường tìm đến xưởng của anh ở Hội An để tận mắt xem các tác phẩm, như một chuyến hành hương nhỏ dành cho nghệ thuật. Anh cũng mở lớp và tổ chức workshop cho trẻ em, khơi gợi óc sáng tạo và giúp các em sớm hình thành một cách nhìn mới mẻ, đầy cảm hứng về những thứ tưởng chừng vô dụng.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a22.webp" /></p>
<p class="image-caption">Triển lãm của Nguyễn Quốc Dân tại VCCA. Nguồn ảnh: <a href="https://hanoitimes.vn/vietnamese-artist-turns-plastic-waste-into-artworks.762546.html" target="_blank"><em>Hanoi Times</em></a>.</p>
<p>Kể cả khi chưa thực sự hiểu hay tin vào chủ nghĩa Tái Sinh, bạn vẫn nên một lần ghé xưởng của anh Dân. Anh đón mọi người bằng sự cởi mở hiếm thấy. Chỉ cần đến với tâm thế sẵn sàng, bạn có thể ra về với một cách nghĩ khác: về rác, về những gì còn sót lại sau một buổi triển lãm. Và nếu có điều gì còn đọng lại sau chuyến ghé thăm ấy, thì đó chính là sự chân thành và nét lập dị đáng mến của anh Dân, cùng những tác phẩm đầy sức sống mà anh tạo ra từ những thứ tưởng như bỏ đi.</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p dir="ltr"><em>Hàng chục bàn thờ gia tiên cũ nằm chồng chất trong góc sân. Mỗi chiếc đều từng bị bỏ quên giữa những ngôi mộ rêu phong. Với nhiều người, đó là thứ cấm kỵ không nên chạm tới. Nhưng anh Nguyễn Quốc Dân lại coi chúng là kho báu để sáng tạo.</em></p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a2.webp" /></div>
<p dir="ltr">Anh Dân tìm thấy phần lớn chất liệu sáng tác của mình trong những nghĩa trang quanh vùng, nơi người khác xem là chốn kiêng kỵ, nhưng lại nuôi dưỡng phong cách nghệ thuật mà anh gọi là chủ nghĩa Tái Sinh, hay <em>Taisinism</em> trong tiếng Anh. </p>
<p dir="ltr">Khi chúng tôi đến thăm ngôi nhà kiêm xưởng làm việc rộng gần 2.000 mét vuông của anh ở Hội An, tinh thần Tái Sinh ấy hiện diện ở khắp nơi. Chai lọ, can nhựa, bình gốm, lưới đánh cá, chăn màn, túi xách, vỏ máy điện tử, ống nước, dây điện, vải vóc, gạch lát, vật trang trí… phủ kín không gian. Cả khu nhà giống như một thế giới được ghép lại từ những mảnh vụn mà chủ nghĩa tiêu dùng đã bỏ quên.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a3.webp" /></div>
<p>Một bầy chó thân thiện nhưng nghịch ngợm lao ra sủa vang khi chúng tôi đến gần cổng. Có tiếng gọi vọng ra, bầy chó lập tức chạy vào trong. Cánh cổng mở hé, chúng tôi bước vào khu nhà nằm ở vùng ven Hội An, mặt tiền kín đáo, trông chẳng khác gì một xưởng cơ khí nhỏ. Bên trong, anh Dân với mái tóc dài và bộ râu rậm đang chăm chú chỉ đạo thợ thi công một hạng mục mới. Thấy anh bận, anh Huy ra đón chúng tôi.</p>
<p>Anh Huy là người Bến Tre. Trong chuyến đạp xe xuyên Đông Nam Á, anh từng dừng chân ở xưởng tái chế của anh Dân để nghỉ ngơi vài ngày. Nhưng chính triết lý và tinh thần ở đây khiến anh quyết định ở lại hơn một năm. Những vết sẹo trên tay là kỷ niệm của quãng thời gian đó, minh chứng cho lòng tận tâm với nghệ thuật. Sau hơn một năm làm việc cùng anh Dân, anh có lẽ là người am hiểu nhất về chủ nghĩa Tái Sinh mà cộng sự mình theo đuổi.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a15.webp" style="background-color: transparent;" /></p>
<p>Trước khi dẫn chúng tôi đi tham quan xưởng, anh Huy hỏi: “Anh biết tòa nhà nào an toàn nhất thế giới không?”</p>
<p>Chúng tôi lắc đầu. Anh mỉm cười nói tiếp: “Trụ sở Liên Hợp Quốc. Thử tưởng tượng những nhà lãnh đạo thế giới ngồi quanh một trong các tác phẩm của anh Dân xem.”</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a4.webp" /></div>
<p>Những tác phẩm ấy thật khó quên: chiếc quần jean được uốn nắn, dán chặt thành hình Đức Phật ngồi thiền; vỏ tivi bị nung chảy, biến dạng thành mặt nạ chiến binh; hay tấm mền khách sạn được bó, xoắn, cố định thành hình một người khoác áo choàng. Khi hình dung chúng giữa phòng họp của các nguyên thủ, người ta có thể hiểu được cả tham vọng của anh Dân lẫn thông điệp mà anh muốn gửi gắm qua nghệ thuật.</p>
<p>Không gian xưởng mà anh Huy dẫn chúng tôi đi qua được xây dựng theo đúng thiết kế của anh Dân. Trước đó, nhiều đội thi công từng bỏ cuộc vì cho rằng bản vẽ quá khó thực hiện. Cuối cùng, công trình cũng hoàn thành, với hai cánh cửa tròn lớn ở hai đầu. Khi mở ra, ánh sáng lọt vào, hắt bóng lên nền nhà thành hình lưỡi liềm.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a5.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a6.webp" /></div>
</div>
<p>Anh Huy vừa chỉ cho chúng tôi xem từng bức tượng, vừa đố chúng tôi đoán chúng được làm từ gì. Giữa lúc đó, anh Dân bước đến, muốn giới thiệu phần đặc biệt nhất của xưởng. Ở giữa gian nhà là một khoảng sàn trũng, nơi một cái cây lớn mọc lên, tán vươn sát trần. Ngay phía trên là một ô kính lớn đón ánh sáng ban ngày. Anh Dân còn nghĩ ra một cách dẫn nước khéo léo, để khi mở van, nước từ mái chảy xuống như một cơn mưa thật.</p>
<p>Anh bật hệ thống, những giọt nước bắt đầu rơi lộp độp. Trong tiếng mưa, anh cởi quần dài rồi bắt đầu tạo nhạc: gõ vào thùng kim loại, chai nhựa và những vật phế thải quanh gốc cây. Âm thanh vang dội, nhịp nhanh và dồn dập lan khắp không gian. Anh như trút hết năng lượng vào màn trình diễn, còn anh Huy đứng cạnh, vừa quan sát vừa kể cho chúng tôi nghe cách các tác phẩm quanh đó được tạo ra.</p>
<div class="bigger" v=""><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a17.webp" /></div>
<div class="one-row bigger">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a8.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a19.webp" /></div>
</div>
<p dir="ltr">Nhiều tác phẩm của anh Dân được tạo ra bằng cách nung chảy các vật liệu nhặt từ bãi rác và bãi chôn lấp. Chúng nguội rất nhanh, nên anh và nhóm cộng sự phải làm việc gấp rút để kịp tạo hình. Họ thường dùng ma-nơ-canh hoặc những món phế liệu khác làm khuôn.</p>
<p dir="ltr">Quá trình ấy không hề an toàn. Anh Huy kể, có người trong nhóm đã làm việc đến mức đầu ngón tay chai cứng, có thể cầm trực tiếp đồ đang nóng. Nhiều khi họ không mang khẩu trang dù khói độc bốc lên nồng nặc, chỉ vì nhiệt trong xưởng quá cao. Anh Dân nói rằng, người nghệ sĩ phải chịu đựng như chính linh hồn của vật liệu từng chịu đựng.</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a16.webp" /></div>
<p>Anh Huy nhặt lên một chai nước giặt, hỏi: “Anh đoán xem, chai này giá bao nhiêu khi còn đầy, và bao nhiêu khi rỗng?” Chúng tôi đoán sai. Anh trả lời ngay: “Ba mươi lăm nghìn khi đầy, mười lăm nghìn khi rỗng, rồi còn phải trả thêm tiền để vứt bỏ.”</p>
<p>Câu chuyện về giá trị của cái chai rỗng là tiền đề cho chủ nghĩa Tái Sinh. Theo anh Dân, Tái Sinh không giống tái chế, vốn chỉ kéo dài vòng đời của vật liệu theo giá trị thấp hơn. Nó cũng khác “tái tạo” — vốn chỉ đổi công năng. Tái Sinh là sự chuyển hóa hoàn toàn, biến vật vô giá trị thành tác phẩm nghệ thuật, một thứ không thể đo bằng tiền, dù có được đem ra đấu giá hay bán. Anh không kéo dài tuổi thọ của vật chất, mà kéo giãn nó đến vô tận, để chúng không bao giờ quay lại bãi rác.</p>
<p>Bãi rác giữ vai trò trung tâm trong triết lý Tái Sinh. Thuở nhỏ, anh Dân thường theo mẹ đi nhặt rác. Những đồng tiền ít ỏi kiếm được từ đó giúp hai mẹ con trang trải cuộc sống. Giờ đây, anh vẫn trở lại những bãi rác cũ, nhưng với một tâm thế khác.</p>
<p>Anh còn tìm thấy nhiều vật liệu ở nghĩa trang. Nhiều người lợi dụng sự hoang vắng và cấm kỵ nơi ấy để lén đổ rác thải, và chính từ đó anh có được những món đồ đặc biệt. Nhiều ma-nơ-canh anh dùng làm khuôn, hay dựng thành tượng ma-nơ-canh cao vút, đều được anh nhặt từ những nghĩa địa quanh vùng.</p>
<p>Theo lời anh Huy, từ khi tên tuổi của anh Dân được biết đến rộng rãi, người ta bắt đầu mang rác đến cho anh. “Giờ thì rác tự tìm đến bọn anh,” anh nói vui.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a11.webp" /></p>
<p class="image-caption">Anh Dân nghỉ ngơi trên bãi rác. Nguồn ảnh: <a href="https://www.instagram.com/nguyenquocdan?utm_source=ig_web_button_share_sheet&igsh=NjFrY212aXlqa3cy" target="_blank">Instagram</a> Nguyễn Quốc Dân.</p>
<p dir="ltr">Công việc và lối sống của anh Dân có thể khiến nhiều người thấy kỳ lạ, nhưng anh không phải là kẻ ngoài lề của thế giới nghệ thuật. Tài năng sáng tạo của anh đã được phát hiện từ sớm. Anh nhận được học bổng theo học tại Đại học Mỹ thuật TP.HCM, nơi anh từng theo đuổi các phong cách đương đại truyền thống hơn.</p>
<p>Những năm tháng ấy giúp anh hiểu sâu về nền tảng, kỹ thuật và mục tiêu của nghệ thuật, trong khi căn phòng trọ nhỏ ở Sài Gòn lại chất đầy những món rác mà anh thu nhặt mỗi ngày. Chính sự song hành đó đã dẫn anh đến một bước ngoặt: nhận ra rằng nghệ thuật, với anh, phải trả lời những câu hỏi của thời đại. Anh nói, các phong trào như lập thể hay hiện đại đã làm xong sứ mệnh của chúng. Câu hỏi còn bỏ ngỏ hôm nay là: “Chúng ta sẽ làm gì với khối rác khổng lồ mà loài người đang tạo ra mỗi ngày?” Và Tái Sinh chính là câu trả lời của anh cho câu hỏi đó.</p>
<p>Kinh nghiệm từng làm việc trong giới nghệ thuật, cùng với sự cuốn hút của bản thân, giúp anh Dân có được chỗ đứng riêng. Lượng người theo dõi trên mạng xã hội, các bài báo và triển lãm — trong đó có buổi trưng bày gần đây tại <a href="https://vccavietnam.com/trien-lam-tai-chat-hoan-sinh-vat-chat-tai-sinh-materia-renata" target="_blank">VCCA</a> Hà Nội — đều cho thấy anh đã trở thành một nghệ sĩ được biết đến rộng rãi. Nhờ vậy, anh có cơ hội chia sẻ Tái Sinh đến nhiều người hơn.</p>
<p>Khách trong nước và nước ngoài thường tìm đến xưởng của anh ở Hội An để tận mắt xem các tác phẩm, như một chuyến hành hương nhỏ dành cho nghệ thuật. Anh cũng mở lớp và tổ chức workshop cho trẻ em, khơi gợi óc sáng tạo và giúp các em sớm hình thành một cách nhìn mới mẻ, đầy cảm hứng về những thứ tưởng chừng vô dụng.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/12/a22.webp" /></p>
<p class="image-caption">Triển lãm của Nguyễn Quốc Dân tại VCCA. Nguồn ảnh: <a href="https://hanoitimes.vn/vietnamese-artist-turns-plastic-waste-into-artworks.762546.html" target="_blank"><em>Hanoi Times</em></a>.</p>
<p>Kể cả khi chưa thực sự hiểu hay tin vào chủ nghĩa Tái Sinh, bạn vẫn nên một lần ghé xưởng của anh Dân. Anh đón mọi người bằng sự cởi mở hiếm thấy. Chỉ cần đến với tâm thế sẵn sàng, bạn có thể ra về với một cách nghĩ khác: về rác, về những gì còn sót lại sau một buổi triển lãm. Và nếu có điều gì còn đọng lại sau chuyến ghé thăm ấy, thì đó chính là sự chân thành và nét lập dị đáng mến của anh Dân, cùng những tác phẩm đầy sức sống mà anh tạo ra từ những thứ tưởng như bỏ đi.</p></div>Đạm Phương nữ sử và những bài học về nữ quyền từ 100 năm trước2025-10-13T11:00:00+07:002025-10-13T11:00:00+07:00https://saigoneer.com/vn/trich-or-triet/17755-đạm-phương-nữ-sử-và-những-bài-học-về-nữ-quyền-từ-100-năm-trướcUyên Đỗ. Ảnh bìa: Mai Khanh.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuongweb1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuongfb1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>“Đàn bà là người, đàn bà là phần nửa nhân loại... Nếu tất cả đàn bà thế giới không có học thức thì một nửa nhân loại có lẽ sẽ là thú cả.”</em></p>
<p><span style="background-color: transparent;">Ấy chính là những lời lẽ đanh thép của Đạm Phương nữ sử viết trên tờ <em>Phụ nữ tân văn</em> năm 1930, là một trong rất nhiều tuyên ngôn nói lên tinh thần phản kháng của vị nữ sĩ khi đấu tranh cho sự bình đẳng giới. Sinh ra trong thời kỳ còn nặng nề với các lễ giáo hà khắc, bà chứng kiến phụ nữ đương thời bị trói buộc bởi những tư tưởng hủ lậu của thể chế phong kiến. Từ đó, bà đã chọn con đường cầm bút hành văn, lấy đặc quyền và hiểu biết của mình để cổ vũ cho những điều tiến bộ, đặt nền móng cho nhiều cải cách giáo dục và phong trào nữ quyền tại Việt Nam trong nhiều thập kỷ sau.</span></p>
<p>Công nữ Đồng Canh, lấy biệt hiệu Đạm Phương nữ sử, là một nhà văn, nhà báo, và nhà hoạt động xã hội vào đầu thế kỷ 20. Qua văn đàn và diễn đàn báo chí, bà để lại kho tàng đồ sộ bao gồm các tiểu luận, tiểu thuyết, thơ, tài liệu biên khảo và sách dịch. Dưới nghiên cứu của hậu thế, bà được nhận xét là nhân vật có tư tưởng cấp tiến vượt thời đại, luôn đề cao tầm quan trọng của việc nâng cao dân trí phụ nữ trong công cuộc xây dựng xã hội.</p>
<h3>Vị nữ công đòi nữ quyền</h3>
<p>Cuộc đời và sự nghiệp văn hoá của nữ ký giả gắn liền với giai đoạn biến động nhất của lịch sử Việt Nam cận đại.</p>
<p>Đạm Phương (1881–1947) sinh ra trong một gia đình hoàng tộc, là cháu gái của Hoàng đế Minh Mạng. Khi bà ra đời, vương triều nhà Nguyễn đang suy yếu trước công cuộc thôn tính của thực dân. Thân phụ bà lại có thời gian bị bãi chức vì phục vụ cựu vương bị phế truất. Giữa tình hình triều đình rối ren, bà may mắn vẫn được dạy dỗ bởi nền giáo dục của hoàng tộc. Thuở nhỏ, bà đã học chữ Hán, Quốc ngữ, tiếng Pháp và giỏi nhiều bộ môn cầm kỳ thi họa, nữ công gia chánh. Đồng thời, bà hấp thụ tư tưởng cởi mở từ thân phụ Miên Triện, là hoàng tử đầu tiên được cử sang Pháp để tìm hiểu nền văn minh phương Tây.</p>
<div class="half-width right"><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong5.webp" />
<p class="image-caption">Đạm Phương nữ sử. Nguồn ảnh: Tạp chí Sông Hương.</p>
</div>
<p>Thời trưởng thành, bà chịu ảnh hưởng lớn từ các phong trào cải cách xã hội trong và ngoài nước. Sau Thế chiến Thế giới I, những thảo luận đầu tiên về phong trào nữ quyền bắt đầu nhen nhóm ở vùng đất Nam Kỳ. Sự lan truyền mạnh mẽ của làn sóng nữ quyền ở châu Âu đã có những <a href="https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/21523/1/004.pdf" target="_blank">hiệu ứng</a> dây chuyền nhất định đến Đông Dương về mặt truyền thông.</p>
<p>Song song đó, chính quyền thuộc địa đã ban hành “<a href="https://nghiencuuquocte.org/2018/06/17/thi-cu-va-giao-duc-viet-nam-thoi-phap-thuoc-p1/" target="_blank">Học chính Tổng Quy</a>,” bộ quy chế cải cách giáo dục cho phép các học sinh nữ đi học tại các ngôi trường Việt-Pháp. Quy chế ấy đã dẫn đến sự xuất hiện một thế hệ nữ sinh “Tây học” và tầng lớp phụ nữ trí thức — được lao động kinh tế và khát khao tự do, bình đẳng. Quan trọng hơn hết, họ biết đọc, viết, và tiêu thụ nội dung bằng Quốc ngữ. Và từ đó, những ấn phẩm viết cho nữ giới, những chủ bút nữ giới đầu tiên ra đời.</p>
<p>Việc sống và làm việc giữa những luồng văn hóa đa chiều ấy đã giúp bà thoát khỏi thứ tư duy “khuôn mẫu” đương thời, thay vào đó chọn cho mình suy nghĩ canh tân để mở lối cho những người phụ nữ khác.</p>
<h3>Ngòi bút phá vỡ truyền thống</h3>
<p>Năm 1918 đánh dấu bước ngoặt khi Đạm Phương chính thức bước chân vào làng báo qua tờ <em><a href="https://saigoneer.com/vn/trich-or-triet/17732-b%C3%A0n-v%E1%BB%81-s%E1%BB%B1-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-ph%E1%BB%A5-n%E1%BB%AF-trong-nam-phong-t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-qua-ng%C3%B2i-b%C3%BAt-ph%E1%BA%A1m-qu%E1%BB%B3nh" target="_blank">Nam Phong tạp chí</a></em> và trở thành một trong những nữ ký giả đầu tiên của Việt Nam. Trong thời điểm báo chí Quốc ngữ còn non trẻ, Đạm Phương nhanh chóng được biết đến nhờ những bài viết sâu sắc và lập luận chặt chẽ, phản ánh cả khát vọng tự do cá nhân lẫn trách nhiệm với gia đình, xã hội.</p>
<p>Bà cộng tác với nhiều tờ báo lớn và uy tín trên khắp ba miền, trong đó, phần nhiều là các tạp chí phục vụ nữ giới như <em>Phụ nữ Thời đàm</em>, <em>Phụ nữ Tân văn</em>; hoặc chuyên mục riêng như “Văn đàn bà” trên tờ <em>Hữu thanh</em>.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong3.webp" /></p>
<p class="image-caption">Báo Phụ nữ Tân văn số 28 xuất bản năm 1929. Nguồn ảnh: Báo Tia Sáng.</p>
<p>Thường xuyên xuất hiện trong các bài viết của Đạm Phương là câu chữ lên án các quan niệm lỗi thời về vai trò của phụ nữ. Dưới thời phong kiến, phụ nữ bị giam hãm trong khuôn mẫu “hiền thê lương mẫu” và việc nội trợ bị coi là bổn phận duy nhất. Lớn lên ở chốn hậu cung, bà cũng không lạ gì những định kiến mà phụ nữ phải chịu đựng, và bà dùng báo chí để phê phán xiềng xích vô hình và bất công ấy. Trong một bài viết đăng trên <em>Trung Bắc tân văn,</em> bà viết: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, bắt người đàn bà thủ tiết chờ chồng khi chồng chết, hạn chế học hành của phụ nữ đều phải vứt bỏ cùng với tam tòng tứ đức.”</p>
<p>Đạm Phương không chỉ chỉ ra sự phi nhân tính của như hủ tục như “thủ tiết,” “ép gả” phụ nữ như món hàng, mà còn thẳng thắn yêu cầu chúng phải bị loại bỏ. Đối với bà, thứ lễ giáo đó không phải là thước đo đạo đức, mà chính là công cụ kìm hãm sự phát triển của phụ nữ, khiến họ mãi sống trong cảnh lệ thuộc. Song, Đạm Phương cũng hiểu chế độ phụ quyền không chỉ ảnh hưởng đến người phụ nữ. Bà coi thứ quan niệm của người đời lúc đó — “đàn ông phải làm nhiều tiền của, bao bọc cho cả gia đình,” còn đàn bà là “phận phá phụ tòng, phụ sự các việc nhỏ mọn” — là một sự phân công bất tự nhiên. Nó gán cho họ những thân phận và lấy đi quyền được tự quyết định về cuộc đời mình của mỗi người.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong8.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nữ sinh trường Đồng Khánh, là ngôi trường đầu tiên và duy nhất dành cho nữ tại Thừa Thiên-Huế vào đầu thế kỷ 20. Nguồn ảnh: Sở Du lịch Thừa Thiên-Huế.</p>
<p>“Làm người phải nên biết rằng: tấm thân đứng giữa vũ trụ, chẳng phải sinh không, không phải ích. Người đàn ông có bổn phận nghĩa vụ thế nào, người đàn bà cũng có bổn phận nghĩa vụ thế ấy, chỉ khác nhau có cái địa vị phần trong phần ngoài mà […] chớ tạo hóa đã sinh ra người, thì người nào lại không linh tính, vật gì là vật vô lý, vô dụng là bởi gì không học đó mà thôi.”</p>
<p>Thông qua “<a href="http://www.thuvienhaiphu.com.vn/datafile1/BE015387.pdf" target="_blank">Bàn về sự học con gái</a>,” Đạm Phương đưa ra một thảo luận sơ khai về vấn đề bình đẳng giới: Đầu thế kỷ 19, người nam và người nữ vẫn còn bị gò bó bởi những bổn phận cố định (“phần ngoài” chỉ việc kinh tế, “phần trong” chỉ việc nội trợ). Bà cho rằng dù có sự khác biệt như thế, người nam và người nữ sinh ra về cơ bản là giống nhau, mỗi người đều được tạo hóa ban cho một ý nghĩa và mục đích riêng. Ai cũng cần được trao cơ hội để phát triển, có thể mới không “vô dụng” mà làm đẹp cho đời, và xã hội cần ghi nhận một cách công bằng giá trị của cả hai giới, dù họ có đảm nhiệm vị trí “ngoài” hay “trong.”</p>
<h3>Vì sự giải phóng đàn bà</h3>
<p>Bên cạnh bác bỏ các quan niệm truyền thống, Đạm Phương còn đặc biệt tập trung vào việc truyền bá tư tưởng <a href="http://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/2982-tu-tuong-nu-hoc-cua-dam-phuong-nu-su-ky-2" target="_blank">giải phóng phụ nữ</a> bằng con đường tự chủ giáo dục và kinh tế: “Bởi vì cớ làm sao mà người đàn bà lại không được trực tiếp với xã hội? Là vì sự học vấn còn chưa được phổ thông và thời kỳ chưa được hiệu dụng cho nên nữ ngôn không được kiến trọng với đời.”</p>
<p>Vốn thạo chữ nghĩa, bà nhận thức được tầm quan trọng của việc đi học với số phận một con người. Theo bà, phụ nữ nước Nam là những công dân “không phải không có óc thông minh, cũng không phải không có tài năng,” chỉ rằng tiềm năng của họ bị phí hoài do không được mở rộng hiểu biết. Tuy nhiên, họ không nên chờ đợi sự thay đổi từ bên ngoài, mà cần chủ động trau dồi kiến thức và xây dựng sự nghiệp để kiểm soát cuộc đời mình.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong6.webp" /></p>
<p class="image-caption">Đạm Phương cùng chồng, ông Nguyễn Khoa Tùng. Như vợ mình, ông cũng là một nhà quý tộc và một học sĩ. Hai người từng viết một tập thơ chung. Cháu nội của họ chính là nhà văn Nguyễn Khoa Điềm. Nguồn ảnh: Tạp chí Sông Hương.</p>
<p>Với Đạm Phương, đi học về cơ bản nhất là để có được sự cân bằng vai vế trong môi trường gia đình, bởi “nếu người phụ nữ chỉ được dạy về đức hạnh, không được dạy tri thức thì ‘không đủ sức khuyên can chồng, dạy vẽ con’ và bảo tồn được cái danh giá làm người.” Đạm Phương nhấn mạnh rằng “tri thức xấp xỉ với nhau thì sự đề huề mới có được” — sự bình đẳng trong tri thức là nền tảng cho hạnh phúc gia đình. Chỉ khi vợ chồng có mức độ hiểu biết tương đồng, họ mới có thể hỗ trợ và đồng hành cùng nhau.</p>
<p>Việc học ở đây không chỉ là học nữ công gia chánh, mà là học văn hóa, học cho mình một cái kế sinh nhai đường hoàng: “Chị em ta đã biết rằng: ngày nay tất cả phải có công nghệ mới sinh tồn, cho nên ôm quyển sách mà đi học, là cũng mong cho có kiến thức mở mang, tùy theo tư cách mình để mà chọn lấy nghề nghiệp làm ăn…”</p>
<p>Trên thực tế, thời kỳ thực dân Pháp bắt đầu khai thác Việt Nam, một bộ phận phụ nữ đã tham gia hoạt động sản xuất tại các hầm mỏ, đồn điền, nhà máy, v.v. Nhưng thiếu trình độ, họ thường bị giao những công việc nặng nhọc, làm nhiều giờ nhưng lương thấp hơn so với nam giới. Ở nông thôn, tình trạng nghèo đói đã đẩy nhiều phụ nữ vào cảnh tha hương, phải đối mặt với nguy cơ bị xâm hại, bóc lột trong quá trình kiếm sống.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong10.webp" /></p>
<p class="image-caption">Hình ảnh trong một xưởng chế biến mủ cao su. Vào năm 1926, đồn điền Michelin có 2030 người lao động, trong đó có 250 phụ nữ, đa phần là người di cư từ Bắc bộ vì tình trạng nghèo đói. Nguồn ảnh: Sách Des Hévéas et des Hommes, l'aventure des plantations Michelin (Cây cao su và những người đàn ông - Khám phá các đồn điền Michelin) (2006).</p>
<p>Nêu bật thực trạng lúc bấy giờ, Đạm Phương nhận xét: “Dĩ tri nghề nghiệp của đàn bà con gái đều khoáng kế cả, thợ thêu, thợ dệt, thợ may phó mặc cho đàn ông lãnh hết.” Bà chỉ ra rằng, nhà nước ngày ấy dù có mở các trường nữ học, giúp một số phụ nữ được tiếp cận với lĩnh vực trí thức như cô giáo hay hộ sinh, nhưng về chung con số này vô cùng ít ỏi, phần lớn vẫn mắc kẹt với những công việc lặt vặt, giá trị thấp, khiến họ dễ bị khinh thường, khó thoát khỏi vòng lẩn quẩn giữa sự áp bức của chế độ phong kiến và chế độ thực dân.</p>
<p>Lao động, mà không đi kèm với sự học phù hợp, rồi cũng sẽ chỉ dẫn phụ nữ đến con đường cùng cực, tha hóa. Vậy nên, Đạm Phương hết sức chủ trương kêu gọi phụ nữ tự trang bị vốn sống toàn diện — trước nhất là giáo dục trí đức để họ biết biết lễ nghi nước Nam, biết đạo làm người, biết suy nghĩ thông suốt; thứ hai là giáo dục kỹ năng, phải học cho thật chắc một cái nghề là để phần nào làm chủ được công việc của mình “chớ không phải nô lệ ai,” có thế mới từng bước tạo dựng được tiếng nói.</p>
<h3>“Nữ giới mà có học thức, là ích lợi chung trong xã hội…”</h3>
<p>Nhằm hiện thực hóa chủ trương khai phóng phụ nữ của mình, năm 1926, Đạm Phương đã trở thành Hội trưởng của Nữ công Học hội, được xem là tổ chức giáo dục nghề nghiệp đầu tiên của phụ nữ tại Việt Nam.</p>
<p>Ngay tại buổi diễn văn khánh thành, bà đã khẳng định sứ mệnh của Hội: “Nữ công chẳng những giúp cho đàn bà về đường tự lập, mà lại về đường sinh kế, và thứ nữa là cái mầm mống của sự công nghệ thực nghiệp nước nhà sau này vậy...”.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong4.webp" /></p>
<p class="image-caption">Đạm Phương (ngồi ở giữa, sau bàn) tại lễ khánh thành Nữ công Học hội Huế. Nguồn ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.</p>
<p>Dưới sự lãnh đạo của Đạm Phương, Nữ công Học hội nhanh chóng mở rộng ra 18 tỉnh thành và thu hút hàng trăm phụ nữ từ khắp ba miền. Hoạt động của Nữ công Học hội rất đa dạng và thiết thực, từ việc các kỹ nghệ truyền thống như “may mặc, thêu thùa, dệt vải, nuôi tằm ươm tơ, nấu ăn, làm mứt và kẹo bánh” đến giáo dục đại cương như quản lý chi tiêu gia đình, nuôi dạy con trẻ, bồi bổ kiến thức khoa học v.v.</p>
<p>Cùng với sự phát triển của hội, Đạm Phương đã tiến cử cán bộ ra Hà Đông, Hà Nội, vào Quảng Nam học thêm các nghề mới như dệt vải, ươm tơ, nuôi tằm để về phổ biến lại cho chị em trong Hội. Hoặc biết nơi nào mới sáng chế được máy móc phục vụ tốt cho sản xuất, bà viết thư mời người đó dạy cho Hội viên. Khi công việc của Hội ổn định, đi vào hoạt động có nề nếp, bà đã liên tiếp ra Bắc vào Nam để khuyến khích việc thành lập các tổ chức nữ học tương tự.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong1.webp" /></p>
<p class="image-caption">Điều lệ tham gia Nữ công Học hội Huế. Nguồn ảnh: Tạp chí Sông Hương.</p>
<p>Giai đoạn cuối 1920, đầu 1930, nhận thức về nữ quyền trong nước càng dâng cao khi phong trào giải phóng phụ nữ hòa chung với dòng chảy của phong trào yêu nước và giải phóng giai cấp. Khi ấy, Nữ công Học hội lại càng đóng vai trò quan trọng khi “tạo nhiều sự thuận lợi cho sự tập hợp của phụ nữ ở Huế” — giúp họ làm quen với các công việc xã hội và là bàn đạp cho phong trào bãi khóa của nữ học sinh trường Đồng Khánh, trường Quốc học Huế.</p>
<p>“Sự ra đời của Hội Nữ Công đã thu hút đông đảo chị em tham gia vào các hoạt động xã hội… Hội đã giác ngộ tinh thần yêu nước, hướng chị em phụ nữ vào những hoạt động tích cực, chống lại các hủ tục, những ràng buộc lễ giáo phong kiến,” sách Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế năm 1930 đã ghi nhận.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong15.webp" /></p>
<p class="image-caption">Các bé gái chơi bóng bàn tại Nữ công Học hội Gia Định, một hội sở ở Sài Gòn nối đuôi thành công của tổ chức tại Huế. Nguồn ảnh: Báo Phụ Nữ.</p>
<h3>Bài học về nữ quyền cho 100 năm sau</h3>
<p>Uy tín của bà qua các hoạt động xã hội như Nữ công Học hội đã thu hút sự chú ý của thế lực thù địch. Năm 1929, bà bị bắt giam vì bị nghi ngờ có liên hệ với các phong trào cách mạng. Dù được thả sau 2 tháng, sự giám sát liên tục từ phía thực dân buộc bà phải từ bỏ vai trò lãnh đạo để tổ chức có thể tiếp tục tồn tại. Những năm sau đó, bà phải chịu đựng nhiều mất mát cá nhân: chồng mất vì bệnh tật, và hai con trai hy sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập.</p>
<p>Giữa những biến cố gia đình và thời cuộc, Đạm Phương rời xa làng báo từ giữa thập niên 1930. Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ vào năm 1946, bà cùng gia đình tản cư đến vùng tự do ở Thanh Hóa, nơi bà qua đời vào năm 1947.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong13.webp" /></p>
<p class="image-caption">Tranh cổ động bình đẳng giới nhằm dịp kỷ niệm 50 Liên Hợp Quốc. Nguồn ảnh: Viet Craft Collection.</p>
<p>Dù rời xa vũ đài báo chí vào cuối đời, di sản của Đạm Phương vẫn tỏa sáng qua những tác phẩm bà để lại cho hậu thế. Minh chứng rõ ràng rằng, sau hơn 100 năm, các vấn đề mà bà đấu tranh — bình đẳng giới, giáo dục, và tự chủ kinh tế — vẫn còn nguyên tính thời sự trong xã hội.</p>
<p>Bất bình đẳng giới vẫn tồn tại, đặc biệt trong thu nhập, cơ hội thăng tiến, và định kiến ở nơi làm việc. Phụ nữ Việt Nam hiện đại vẫn phải đối diện với gánh nặng kép — vừa kiếm tiền, vừa đảm trách việc gia đình — như Đạm Phương từng phê phán.</p>
<p>Trước bối cảnh ấy, tư tưởng khai phóng của bà tiếp tục mang tính định hướng cho các cuộc thảo luận về giới của chúng ta ngày nay: việc giáo dục và nâng cao nhận thức của từng cá nhân là thiết yếu, bởi tư duy của từng người thay đổi thì tư duy của toàn xã hội mới có thể tiến bộ. Như Đạm Phương đã từng nhấn mạnh, “cuộc sinh tồn cạnh tranh là chung cả nhân loại, có phải riêng chi một ai.” Chỉ khi cả cộng đồng, bất kể giới, chung tay vì cuộc sinh tồn ấy, chúng ta mới có thể hiện thực hóa những ước mơ mà Đạm Phương đã phấn đấu suốt cuộc đời mình.</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuongweb1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuongfb1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>“Đàn bà là người, đàn bà là phần nửa nhân loại... Nếu tất cả đàn bà thế giới không có học thức thì một nửa nhân loại có lẽ sẽ là thú cả.”</em></p>
<p><span style="background-color: transparent;">Ấy chính là những lời lẽ đanh thép của Đạm Phương nữ sử viết trên tờ <em>Phụ nữ tân văn</em> năm 1930, là một trong rất nhiều tuyên ngôn nói lên tinh thần phản kháng của vị nữ sĩ khi đấu tranh cho sự bình đẳng giới. Sinh ra trong thời kỳ còn nặng nề với các lễ giáo hà khắc, bà chứng kiến phụ nữ đương thời bị trói buộc bởi những tư tưởng hủ lậu của thể chế phong kiến. Từ đó, bà đã chọn con đường cầm bút hành văn, lấy đặc quyền và hiểu biết của mình để cổ vũ cho những điều tiến bộ, đặt nền móng cho nhiều cải cách giáo dục và phong trào nữ quyền tại Việt Nam trong nhiều thập kỷ sau.</span></p>
<p>Công nữ Đồng Canh, lấy biệt hiệu Đạm Phương nữ sử, là một nhà văn, nhà báo, và nhà hoạt động xã hội vào đầu thế kỷ 20. Qua văn đàn và diễn đàn báo chí, bà để lại kho tàng đồ sộ bao gồm các tiểu luận, tiểu thuyết, thơ, tài liệu biên khảo và sách dịch. Dưới nghiên cứu của hậu thế, bà được nhận xét là nhân vật có tư tưởng cấp tiến vượt thời đại, luôn đề cao tầm quan trọng của việc nâng cao dân trí phụ nữ trong công cuộc xây dựng xã hội.</p>
<h3>Vị nữ công đòi nữ quyền</h3>
<p>Cuộc đời và sự nghiệp văn hoá của nữ ký giả gắn liền với giai đoạn biến động nhất của lịch sử Việt Nam cận đại.</p>
<p>Đạm Phương (1881–1947) sinh ra trong một gia đình hoàng tộc, là cháu gái của Hoàng đế Minh Mạng. Khi bà ra đời, vương triều nhà Nguyễn đang suy yếu trước công cuộc thôn tính của thực dân. Thân phụ bà lại có thời gian bị bãi chức vì phục vụ cựu vương bị phế truất. Giữa tình hình triều đình rối ren, bà may mắn vẫn được dạy dỗ bởi nền giáo dục của hoàng tộc. Thuở nhỏ, bà đã học chữ Hán, Quốc ngữ, tiếng Pháp và giỏi nhiều bộ môn cầm kỳ thi họa, nữ công gia chánh. Đồng thời, bà hấp thụ tư tưởng cởi mở từ thân phụ Miên Triện, là hoàng tử đầu tiên được cử sang Pháp để tìm hiểu nền văn minh phương Tây.</p>
<div class="half-width right"><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong5.webp" />
<p class="image-caption">Đạm Phương nữ sử. Nguồn ảnh: Tạp chí Sông Hương.</p>
</div>
<p>Thời trưởng thành, bà chịu ảnh hưởng lớn từ các phong trào cải cách xã hội trong và ngoài nước. Sau Thế chiến Thế giới I, những thảo luận đầu tiên về phong trào nữ quyền bắt đầu nhen nhóm ở vùng đất Nam Kỳ. Sự lan truyền mạnh mẽ của làn sóng nữ quyền ở châu Âu đã có những <a href="https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/21523/1/004.pdf" target="_blank">hiệu ứng</a> dây chuyền nhất định đến Đông Dương về mặt truyền thông.</p>
<p>Song song đó, chính quyền thuộc địa đã ban hành “<a href="https://nghiencuuquocte.org/2018/06/17/thi-cu-va-giao-duc-viet-nam-thoi-phap-thuoc-p1/" target="_blank">Học chính Tổng Quy</a>,” bộ quy chế cải cách giáo dục cho phép các học sinh nữ đi học tại các ngôi trường Việt-Pháp. Quy chế ấy đã dẫn đến sự xuất hiện một thế hệ nữ sinh “Tây học” và tầng lớp phụ nữ trí thức — được lao động kinh tế và khát khao tự do, bình đẳng. Quan trọng hơn hết, họ biết đọc, viết, và tiêu thụ nội dung bằng Quốc ngữ. Và từ đó, những ấn phẩm viết cho nữ giới, những chủ bút nữ giới đầu tiên ra đời.</p>
<p>Việc sống và làm việc giữa những luồng văn hóa đa chiều ấy đã giúp bà thoát khỏi thứ tư duy “khuôn mẫu” đương thời, thay vào đó chọn cho mình suy nghĩ canh tân để mở lối cho những người phụ nữ khác.</p>
<h3>Ngòi bút phá vỡ truyền thống</h3>
<p>Năm 1918 đánh dấu bước ngoặt khi Đạm Phương chính thức bước chân vào làng báo qua tờ <em><a href="https://saigoneer.com/vn/trich-or-triet/17732-b%C3%A0n-v%E1%BB%81-s%E1%BB%B1-gi%C3%A1o-d%E1%BB%A5c-ph%E1%BB%A5-n%E1%BB%AF-trong-nam-phong-t%E1%BA%A1p-ch%C3%AD-qua-ng%C3%B2i-b%C3%BAt-ph%E1%BA%A1m-qu%E1%BB%B3nh" target="_blank">Nam Phong tạp chí</a></em> và trở thành một trong những nữ ký giả đầu tiên của Việt Nam. Trong thời điểm báo chí Quốc ngữ còn non trẻ, Đạm Phương nhanh chóng được biết đến nhờ những bài viết sâu sắc và lập luận chặt chẽ, phản ánh cả khát vọng tự do cá nhân lẫn trách nhiệm với gia đình, xã hội.</p>
<p>Bà cộng tác với nhiều tờ báo lớn và uy tín trên khắp ba miền, trong đó, phần nhiều là các tạp chí phục vụ nữ giới như <em>Phụ nữ Thời đàm</em>, <em>Phụ nữ Tân văn</em>; hoặc chuyên mục riêng như “Văn đàn bà” trên tờ <em>Hữu thanh</em>.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong3.webp" /></p>
<p class="image-caption">Báo Phụ nữ Tân văn số 28 xuất bản năm 1929. Nguồn ảnh: Báo Tia Sáng.</p>
<p>Thường xuyên xuất hiện trong các bài viết của Đạm Phương là câu chữ lên án các quan niệm lỗi thời về vai trò của phụ nữ. Dưới thời phong kiến, phụ nữ bị giam hãm trong khuôn mẫu “hiền thê lương mẫu” và việc nội trợ bị coi là bổn phận duy nhất. Lớn lên ở chốn hậu cung, bà cũng không lạ gì những định kiến mà phụ nữ phải chịu đựng, và bà dùng báo chí để phê phán xiềng xích vô hình và bất công ấy. Trong một bài viết đăng trên <em>Trung Bắc tân văn,</em> bà viết: “Cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy, bắt người đàn bà thủ tiết chờ chồng khi chồng chết, hạn chế học hành của phụ nữ đều phải vứt bỏ cùng với tam tòng tứ đức.”</p>
<p>Đạm Phương không chỉ chỉ ra sự phi nhân tính của như hủ tục như “thủ tiết,” “ép gả” phụ nữ như món hàng, mà còn thẳng thắn yêu cầu chúng phải bị loại bỏ. Đối với bà, thứ lễ giáo đó không phải là thước đo đạo đức, mà chính là công cụ kìm hãm sự phát triển của phụ nữ, khiến họ mãi sống trong cảnh lệ thuộc. Song, Đạm Phương cũng hiểu chế độ phụ quyền không chỉ ảnh hưởng đến người phụ nữ. Bà coi thứ quan niệm của người đời lúc đó — “đàn ông phải làm nhiều tiền của, bao bọc cho cả gia đình,” còn đàn bà là “phận phá phụ tòng, phụ sự các việc nhỏ mọn” — là một sự phân công bất tự nhiên. Nó gán cho họ những thân phận và lấy đi quyền được tự quyết định về cuộc đời mình của mỗi người.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong8.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nữ sinh trường Đồng Khánh, là ngôi trường đầu tiên và duy nhất dành cho nữ tại Thừa Thiên-Huế vào đầu thế kỷ 20. Nguồn ảnh: Sở Du lịch Thừa Thiên-Huế.</p>
<p>“Làm người phải nên biết rằng: tấm thân đứng giữa vũ trụ, chẳng phải sinh không, không phải ích. Người đàn ông có bổn phận nghĩa vụ thế nào, người đàn bà cũng có bổn phận nghĩa vụ thế ấy, chỉ khác nhau có cái địa vị phần trong phần ngoài mà […] chớ tạo hóa đã sinh ra người, thì người nào lại không linh tính, vật gì là vật vô lý, vô dụng là bởi gì không học đó mà thôi.”</p>
<p>Thông qua “<a href="http://www.thuvienhaiphu.com.vn/datafile1/BE015387.pdf" target="_blank">Bàn về sự học con gái</a>,” Đạm Phương đưa ra một thảo luận sơ khai về vấn đề bình đẳng giới: Đầu thế kỷ 19, người nam và người nữ vẫn còn bị gò bó bởi những bổn phận cố định (“phần ngoài” chỉ việc kinh tế, “phần trong” chỉ việc nội trợ). Bà cho rằng dù có sự khác biệt như thế, người nam và người nữ sinh ra về cơ bản là giống nhau, mỗi người đều được tạo hóa ban cho một ý nghĩa và mục đích riêng. Ai cũng cần được trao cơ hội để phát triển, có thể mới không “vô dụng” mà làm đẹp cho đời, và xã hội cần ghi nhận một cách công bằng giá trị của cả hai giới, dù họ có đảm nhiệm vị trí “ngoài” hay “trong.”</p>
<h3>Vì sự giải phóng đàn bà</h3>
<p>Bên cạnh bác bỏ các quan niệm truyền thống, Đạm Phương còn đặc biệt tập trung vào việc truyền bá tư tưởng <a href="http://vanhoanghean.com.vn/chi-tiet-tin-tuc/2982-tu-tuong-nu-hoc-cua-dam-phuong-nu-su-ky-2" target="_blank">giải phóng phụ nữ</a> bằng con đường tự chủ giáo dục và kinh tế: “Bởi vì cớ làm sao mà người đàn bà lại không được trực tiếp với xã hội? Là vì sự học vấn còn chưa được phổ thông và thời kỳ chưa được hiệu dụng cho nên nữ ngôn không được kiến trọng với đời.”</p>
<p>Vốn thạo chữ nghĩa, bà nhận thức được tầm quan trọng của việc đi học với số phận một con người. Theo bà, phụ nữ nước Nam là những công dân “không phải không có óc thông minh, cũng không phải không có tài năng,” chỉ rằng tiềm năng của họ bị phí hoài do không được mở rộng hiểu biết. Tuy nhiên, họ không nên chờ đợi sự thay đổi từ bên ngoài, mà cần chủ động trau dồi kiến thức và xây dựng sự nghiệp để kiểm soát cuộc đời mình.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong6.webp" /></p>
<p class="image-caption">Đạm Phương cùng chồng, ông Nguyễn Khoa Tùng. Như vợ mình, ông cũng là một nhà quý tộc và một học sĩ. Hai người từng viết một tập thơ chung. Cháu nội của họ chính là nhà văn Nguyễn Khoa Điềm. Nguồn ảnh: Tạp chí Sông Hương.</p>
<p>Với Đạm Phương, đi học về cơ bản nhất là để có được sự cân bằng vai vế trong môi trường gia đình, bởi “nếu người phụ nữ chỉ được dạy về đức hạnh, không được dạy tri thức thì ‘không đủ sức khuyên can chồng, dạy vẽ con’ và bảo tồn được cái danh giá làm người.” Đạm Phương nhấn mạnh rằng “tri thức xấp xỉ với nhau thì sự đề huề mới có được” — sự bình đẳng trong tri thức là nền tảng cho hạnh phúc gia đình. Chỉ khi vợ chồng có mức độ hiểu biết tương đồng, họ mới có thể hỗ trợ và đồng hành cùng nhau.</p>
<p>Việc học ở đây không chỉ là học nữ công gia chánh, mà là học văn hóa, học cho mình một cái kế sinh nhai đường hoàng: “Chị em ta đã biết rằng: ngày nay tất cả phải có công nghệ mới sinh tồn, cho nên ôm quyển sách mà đi học, là cũng mong cho có kiến thức mở mang, tùy theo tư cách mình để mà chọn lấy nghề nghiệp làm ăn…”</p>
<p>Trên thực tế, thời kỳ thực dân Pháp bắt đầu khai thác Việt Nam, một bộ phận phụ nữ đã tham gia hoạt động sản xuất tại các hầm mỏ, đồn điền, nhà máy, v.v. Nhưng thiếu trình độ, họ thường bị giao những công việc nặng nhọc, làm nhiều giờ nhưng lương thấp hơn so với nam giới. Ở nông thôn, tình trạng nghèo đói đã đẩy nhiều phụ nữ vào cảnh tha hương, phải đối mặt với nguy cơ bị xâm hại, bóc lột trong quá trình kiếm sống.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong10.webp" /></p>
<p class="image-caption">Hình ảnh trong một xưởng chế biến mủ cao su. Vào năm 1926, đồn điền Michelin có 2030 người lao động, trong đó có 250 phụ nữ, đa phần là người di cư từ Bắc bộ vì tình trạng nghèo đói. Nguồn ảnh: Sách Des Hévéas et des Hommes, l'aventure des plantations Michelin (Cây cao su và những người đàn ông - Khám phá các đồn điền Michelin) (2006).</p>
<p>Nêu bật thực trạng lúc bấy giờ, Đạm Phương nhận xét: “Dĩ tri nghề nghiệp của đàn bà con gái đều khoáng kế cả, thợ thêu, thợ dệt, thợ may phó mặc cho đàn ông lãnh hết.” Bà chỉ ra rằng, nhà nước ngày ấy dù có mở các trường nữ học, giúp một số phụ nữ được tiếp cận với lĩnh vực trí thức như cô giáo hay hộ sinh, nhưng về chung con số này vô cùng ít ỏi, phần lớn vẫn mắc kẹt với những công việc lặt vặt, giá trị thấp, khiến họ dễ bị khinh thường, khó thoát khỏi vòng lẩn quẩn giữa sự áp bức của chế độ phong kiến và chế độ thực dân.</p>
<p>Lao động, mà không đi kèm với sự học phù hợp, rồi cũng sẽ chỉ dẫn phụ nữ đến con đường cùng cực, tha hóa. Vậy nên, Đạm Phương hết sức chủ trương kêu gọi phụ nữ tự trang bị vốn sống toàn diện — trước nhất là giáo dục trí đức để họ biết biết lễ nghi nước Nam, biết đạo làm người, biết suy nghĩ thông suốt; thứ hai là giáo dục kỹ năng, phải học cho thật chắc một cái nghề là để phần nào làm chủ được công việc của mình “chớ không phải nô lệ ai,” có thế mới từng bước tạo dựng được tiếng nói.</p>
<h3>“Nữ giới mà có học thức, là ích lợi chung trong xã hội…”</h3>
<p>Nhằm hiện thực hóa chủ trương khai phóng phụ nữ của mình, năm 1926, Đạm Phương đã trở thành Hội trưởng của Nữ công Học hội, được xem là tổ chức giáo dục nghề nghiệp đầu tiên của phụ nữ tại Việt Nam.</p>
<p>Ngay tại buổi diễn văn khánh thành, bà đã khẳng định sứ mệnh của Hội: “Nữ công chẳng những giúp cho đàn bà về đường tự lập, mà lại về đường sinh kế, và thứ nữa là cái mầm mống của sự công nghệ thực nghiệp nước nhà sau này vậy...”.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong4.webp" /></p>
<p class="image-caption">Đạm Phương (ngồi ở giữa, sau bàn) tại lễ khánh thành Nữ công Học hội Huế. Nguồn ảnh: Bảo tàng Lịch sử Quốc gia Việt Nam.</p>
<p>Dưới sự lãnh đạo của Đạm Phương, Nữ công Học hội nhanh chóng mở rộng ra 18 tỉnh thành và thu hút hàng trăm phụ nữ từ khắp ba miền. Hoạt động của Nữ công Học hội rất đa dạng và thiết thực, từ việc các kỹ nghệ truyền thống như “may mặc, thêu thùa, dệt vải, nuôi tằm ươm tơ, nấu ăn, làm mứt và kẹo bánh” đến giáo dục đại cương như quản lý chi tiêu gia đình, nuôi dạy con trẻ, bồi bổ kiến thức khoa học v.v.</p>
<p>Cùng với sự phát triển của hội, Đạm Phương đã tiến cử cán bộ ra Hà Đông, Hà Nội, vào Quảng Nam học thêm các nghề mới như dệt vải, ươm tơ, nuôi tằm để về phổ biến lại cho chị em trong Hội. Hoặc biết nơi nào mới sáng chế được máy móc phục vụ tốt cho sản xuất, bà viết thư mời người đó dạy cho Hội viên. Khi công việc của Hội ổn định, đi vào hoạt động có nề nếp, bà đã liên tiếp ra Bắc vào Nam để khuyến khích việc thành lập các tổ chức nữ học tương tự.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong1.webp" /></p>
<p class="image-caption">Điều lệ tham gia Nữ công Học hội Huế. Nguồn ảnh: Tạp chí Sông Hương.</p>
<p>Giai đoạn cuối 1920, đầu 1930, nhận thức về nữ quyền trong nước càng dâng cao khi phong trào giải phóng phụ nữ hòa chung với dòng chảy của phong trào yêu nước và giải phóng giai cấp. Khi ấy, Nữ công Học hội lại càng đóng vai trò quan trọng khi “tạo nhiều sự thuận lợi cho sự tập hợp của phụ nữ ở Huế” — giúp họ làm quen với các công việc xã hội và là bàn đạp cho phong trào bãi khóa của nữ học sinh trường Đồng Khánh, trường Quốc học Huế.</p>
<p>“Sự ra đời của Hội Nữ Công đã thu hút đông đảo chị em tham gia vào các hoạt động xã hội… Hội đã giác ngộ tinh thần yêu nước, hướng chị em phụ nữ vào những hoạt động tích cực, chống lại các hủ tục, những ràng buộc lễ giáo phong kiến,” sách Lịch sử Đảng bộ Thừa Thiên Huế năm 1930 đã ghi nhận.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong15.webp" /></p>
<p class="image-caption">Các bé gái chơi bóng bàn tại Nữ công Học hội Gia Định, một hội sở ở Sài Gòn nối đuôi thành công của tổ chức tại Huế. Nguồn ảnh: Báo Phụ Nữ.</p>
<h3>Bài học về nữ quyền cho 100 năm sau</h3>
<p>Uy tín của bà qua các hoạt động xã hội như Nữ công Học hội đã thu hút sự chú ý của thế lực thù địch. Năm 1929, bà bị bắt giam vì bị nghi ngờ có liên hệ với các phong trào cách mạng. Dù được thả sau 2 tháng, sự giám sát liên tục từ phía thực dân buộc bà phải từ bỏ vai trò lãnh đạo để tổ chức có thể tiếp tục tồn tại. Những năm sau đó, bà phải chịu đựng nhiều mất mát cá nhân: chồng mất vì bệnh tật, và hai con trai hy sinh trong cuộc đấu tranh giành độc lập.</p>
<p>Giữa những biến cố gia đình và thời cuộc, Đạm Phương rời xa làng báo từ giữa thập niên 1930. Khi toàn quốc kháng chiến bùng nổ vào năm 1946, bà cùng gia đình tản cư đến vùng tự do ở Thanh Hóa, nơi bà qua đời vào năm 1947.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2024/10/29/damphuong/damphuong13.webp" /></p>
<p class="image-caption">Tranh cổ động bình đẳng giới nhằm dịp kỷ niệm 50 Liên Hợp Quốc. Nguồn ảnh: Viet Craft Collection.</p>
<p>Dù rời xa vũ đài báo chí vào cuối đời, di sản của Đạm Phương vẫn tỏa sáng qua những tác phẩm bà để lại cho hậu thế. Minh chứng rõ ràng rằng, sau hơn 100 năm, các vấn đề mà bà đấu tranh — bình đẳng giới, giáo dục, và tự chủ kinh tế — vẫn còn nguyên tính thời sự trong xã hội.</p>
<p>Bất bình đẳng giới vẫn tồn tại, đặc biệt trong thu nhập, cơ hội thăng tiến, và định kiến ở nơi làm việc. Phụ nữ Việt Nam hiện đại vẫn phải đối diện với gánh nặng kép — vừa kiếm tiền, vừa đảm trách việc gia đình — như Đạm Phương từng phê phán.</p>
<p>Trước bối cảnh ấy, tư tưởng khai phóng của bà tiếp tục mang tính định hướng cho các cuộc thảo luận về giới của chúng ta ngày nay: việc giáo dục và nâng cao nhận thức của từng cá nhân là thiết yếu, bởi tư duy của từng người thay đổi thì tư duy của toàn xã hội mới có thể tiến bộ. Như Đạm Phương đã từng nhấn mạnh, “cuộc sinh tồn cạnh tranh là chung cả nhân loại, có phải riêng chi một ai.” Chỉ khi cả cộng đồng, bất kể giới, chung tay vì cuộc sinh tồn ấy, chúng ta mới có thể hiện thực hóa những ước mơ mà Đạm Phương đã phấn đấu suốt cuộc đời mình.</p></div>Về mũi Cà Màu tìm loài ba khía mang mùi vị biển rừng phương Nam2025-10-12T13:00:00+07:002025-10-12T13:00:00+07:00https://saigoneer.com/vn/natural-selection/17966-về-mũi-cà-màu-tìm-loài-ba-khía-mang-mùi-vị-biển-rừng-phương-namĐình Phúc. Minh họa: Mai Khanh.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhiaweb1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia_fb1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Đêm nước ròng, bãi bùn lấp lóa đèn đội đầu, gốc mắm gốc đước bu đen một đám cua nhỏ. Ở quê tôi, người ta kêu tụi nó là ba khía.</em></p>
<p>Tôi chưa bao giờ mảy may nghĩ về lý do vì sao người ta gọi loài cua nhỏ bằng cái tên này. Hai chữ ba khía quen thuộc tới mức, nó ăn vào trong máu thịt của tôi như một lẽ tự nhiên, không hoài nghi, không phản kháng, cũng không chịu hỏi người lớn bao giờ. Nhưng rồi, sự thật nào cũng phải được hé lộ. Kêu là ba khía vì ngoại hình của con vật này có phần mai sẫm có ba vệt (khía), nên từ đó, tụi nó chết danh hai chữ ba khía luôn.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia2.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguồn ảnh:<a href="https://www.vietnam.vn/sv/san-ba-khia-dem-o-dat-mui" target="_blank"> Vietnam.vn</a>.</p>
<h3>Con ba khía</h3>
<p>Nhớ hồi tôi còn nhỏ, có một hãng viễn thông đã đặt tên cho một dòng sim mới dành riêng cho bà con vùng đồng bằng sông Cửu Long cái tên “sim Ba Khía.” Ban đầu tôi lấy làm lạ, mà giờ nghĩ thấy cũng hay hay. Người ta không lấy lúa, tôm, kênh, rạch để đặt tên, mà chọn ngay con ba khía. Vì mấy thứ kia ở đâu mà không có, duy chỉ có ba khía kén đất để sinh sôi. Phải là ở mấy vùng nước lợ, nước mặn của vùng <a href="https://baocamau.vn/xuoi-ve-miet-thu-a32781.html" target="_blank">Miệt Thứ</a> xa lắc xa lơ, trong những cánh rừng ngập mặn dọc theo bờ biển Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau thì may ra mới đúng chỗ ba khía trú mình.</p>
<p>Mà có tới đúng chỗ cũng chưa chắc được diện kiến con cua nhỏ bí ẩn này. Ngoại tôi ngày xưa từng kêu ba khía là con cua xấu, vì tướng tá nhỏ thó, mình mẩy đen thui, lại quen chui rúc trong sình bùn. Nhưng không phải vì bị người đời chê xấu mà ba khía phải mai danh ẩn tích chốn hoang dã. Chỉ đơn giản là ba khía có "công ăn việc làm," có kế sinh nhai, nên nó không rảnh rang gì để trồi lên mặt nước làm cảnh cho người đời nhìn ngắm. Ban ngày, ba khía bận đào hang, xây ổ. Đêm về, ba khía ra khỏi nhà, lăn lộn với đời để kiếm cái ăn.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia15.webp" /></p>
<p>Ba khía, cũng như những loài giáp xác khác, lấy ốc nhỏ, cá nhỏ làm mồi ngon. Nhưng ở vùng ngập mặn cuối trời Tổ quốc, ba khía lại chuộng hơn những sản vật sẵn có của rừng già. Nông dân sành nghề, chỉ bằng màu vỏ, màu gạch, có thể nhìn ra một con ba khía khoái ăn món gì nhất. Ví dụ như ba khía ở vùng rừng mắm, ăn lá cây mắm sẽ có gạch son, vỏ đen. Ăn trái mắm trắng thì phần gạch ba khía sẽ có màu xám tro. Ba khía rừng đước thì chủ yếu ăn lá đước, thành ra lớn con hơn, gạch vàng, đặc biệt là bộ vỏ màu đỏ đậm nhìn vô cùng bắt mắt.</p>
<p>Ăn toàn “thực phẩm hữu cơ” nên thịt của ba khía chắc, ngọt, đậm đà hương vị của biển rừng phương Nam. Tuy nhiên, hảo hạng nhất vẫn là ba khía của vùng Rạch Gốc. Cái này đã được báo đài đưa tin, dân tứ xứ công nhận, chứ hổng phải tại tôi thiên vị quê nhà đâu nhen! Thổ nhưỡng của miền quê này đã khơi nên những cánh rừng mắm bạt ngàn, là chốn thiên đường để ba khía tiệc tùng mỗi đêm. Ba khía ở vùng trũng, nước đọng thì thịt teo. Mảnh đất cực Nam nối liền với biển, khiến cho con nước ròng chở nặng phù sa tắm táp cho loài ba khía được khơi thông da thịt, xứng với danh hiệu “đệ nhất ba khía” được ca thán mấy đời.</p>
<h3>Bắt ba khía</h3>
<p>Ba khía trời sinh thân hình nhỏ, lại thêm điệu bộ nhanh nhạy, hay chui rúc hang nọ, ổ kia, nên nhiều lúc làm khó ngư phủ. Ông cha miệt vườn phải quan sát tỉ mỉ lắm mới đúc kết được thời điểm vàng để bắt được ba khía: đó là vào độ tháng 10 âm lịch. Ca dao tục truyền rằng:</p>
<h3 class="quote-alt bigger">Tháng bảy nước chảy Cà Mau<br />Tháng mười ba khía, hội kéo nhau đi làm<br />U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm<br />Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi</h3>
<p>Cái chữ “hội” là mấu chốt của vấn đề. Đó là dịp để ba khía kéo nhau từng đàn lũ lượt rời hang, lựa giấc mưa dầm, tối trời để tìm bạn tình. Mùa “ba khía hội,” từng gốc mắm, gốc đước bu đen đặc cơ man ba khía. Và chỉ đúng vào một mùa này trong năm, ba khía mới buông lơi cảnh giác vì mắc say sưa, chè chén hội hè. Dân ham ba khía dễ gì bỏ qua cơ hội kiếm lời này. Vậy là mỗi năm, cứ đúng cữ con nước ròng, dân tình lại gói ghém đồ nghề, đổ xô về nơi rừng thiêng nước độc, quyết săn lùng ba khía.</p>
<p>Trước khi lừng danh vang xứ như hiện tại, ba khía chỉ là loài thủy sản hạ phẩm, nên nghề bắt ba khía cũng là nghề hạ bạc. Thêm phần công việc cực khổ trăm bề: không chỉ phải ăn bờ, ngủ bụi, mà còn phải cẩn thận với muỗi mòng, đĩa vắt, rắn rết của chốn lâm thủy hoang vu — nên phải là người hoặc là gan dạ, hoặc là cùng đường túng thiếu, mới dám đâm đầu vô cái nghiệp bắt ba khía kiếm cơm.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia1.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguồn ảnh: <a href="https://phunu.nld.com.vn/diem-den/can-gio-loi-rung-ngap-man-bat-ba-khia-trong-dem-20180710152856359.htm" target="_blank">Người Lao Động</a>.</p>
<p>Bây giờ thời đại phát triển, người ta không còn phải nhọc công xuồng ghe lách cách tìm về đất mũi Cà Mau, nhưng nghề bắt ba khía vẫn chỉ đỡ cực được đôi phần. Muốn mục sở thị được ba khía thì vẫn phải chờ đến khi đêm xuống, đeo đèn trên cổ, trên trán, rồi lội bì bõm soi từng bãi lầy, gốc cây.</p>
<p>Gặp được chúng là một chuyện, ai muốn tận tay bắt được ba khía phải thao tác lẹ làng hơn tụi nó, nếu không lũ ba khía ranh mãnh sẽ nhanh chân lẩn khuất sau những ổ sình, rễ cây chằng chịt. Ai nấy cũng xắn quần xắn áo, vẫy vùng giữa thiên nhiên hoang dã, hì hụi với mẻ ba khía kẹp càng kêu lách tách, cho đến khi mặt trời ló dạng mới chịu ngừng.</p>
<h3>Muối ba khía</h3>
<p>Ông bà hồi còn khai hoang mở cõi đã coi ba khía như một nguồn thức ăn dự trữ, đặc biệt trong mùa mưa bão thiếu vắng cá tôm. Muốn vậy thì ba khía phải để được lâu, nên người ta mới sáng chế ra cái kiểu muối ba khía, cũng công phu không kém gì đoạn bắt được chúng. </p>
<p>Nông dân ngày xưa lên đường săn ba khía, phải chuẩn bị sẵn mấy lu nước muối. Mấy con ba khía vừa được bắt lên sẽ được rửa ráy cho sạch bùn sình, thả vô lu này. Giây trước còn hung hãn bung càng, giây sau ba khía đã ngắc ngứ, ngoan ngoãn im lìm trong làn nước mặn.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia10.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguồn ảnh: <a href="https://www.nguoiduatin.vn/con-ba-khia-va-mon-ba-khia-muoi-nghe-di-san-cua-ca-mau-204519713.htm" target="_blank">Người đưa tin</a>.</p>
<p>Để muối được con ba khía ngon, phải cân đo liều lượng muối với nước cẩn thận. Nước lạt quá thì ba khía hư, mặn quá thì ba khía rụng càng, đen da, chát thịt. Dụng cụ muối như lu, chậu, và keo phải chuẩn bị phải sạch sẽ kỹ lưỡng, đặc biệt không để một giọt nước mưa ám vô mẻ ba khía muối. Cái nghiệp muối ba khía của dân Cà Mau này xem chừng không đơn giản, nên lúc được vinh danh là <a href="https://baocamau.vn/cong-bo-di-san-cap-quoc-gia-nghe-muoi-ba-khia--a27418.html" target="_blank">Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia</a> hồi năm 2019, bà con ai nấy đều phấn khởi, báo chí đưa tin cho một giá trị sinh kế, ẩm thực truyền đời nay đã được công nhận.</p>
<p>Ba khía muối nhanh, vì thịt thà da dẻ vốn đã thắm sẵn chất mặn từ biển cả đại ngàn. Tầm mươi bữa, ba khía không đổi màu vỏ là coi như ăn được. Nếu là ba khía tươi, bây giờ người ta đã chế ra đủ cách nấu nướng: rang muối, rang me, xào tỏi, v.v. Nhưng ba khía muối thì tuyệt nhiên chỉ có một kiểu. Không biết vì dân mình thủy chung, trước sau như một, hay vì kiểu chế biến đó đã quá tuyệt đích, thỏa mãn miệng ăn bao đời?</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia21.webp" /></p>
<p class="image-caption">Ảnh: <a href="https://www.vietnamplus.vn/doc-dao-nghe-muoi-ba-khia-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-post678552.vnp" target="_blank">Huỳnh Anh/Thông tấn xã Việt Nam</a>.</p>
<p>Kiểu chế biến đó được nhà tôi thực hành trong mỗi bữa cơm. Nhà bạn bè tôi cũng vậy. Một lần được người quen mời cơm, tôi cũng thấy người ta làm thế. Và thậm chí khi viết bài này, giữa muôn vàn thông tin trôi nổi trên mạng, con ba khía muối vẫn được đối xử bằng đúng vỏn vẹn một cách. Đó là rửa qua nước ấm, bỏ yếm, tách càng, bẻ ngoe, cắt đôi thân, rồi trộn với tỏi, ớt, chanh, đường. Hết rồi.</p>
<p>Ba khía là cua, nhưng cũng không phải cua. Con cua bẻ càng, đập vỏ, ăn thịt chắc nụi. Ba khía nhỏ thó, nên không thể tách vỏ, mà chỉ có thể dùng răng cạp, mút cho thịt hòa với sốt trộn đưa đẩy vô miệng. Thịt ba khía mềm béo, tan nhanh. Cái mặn lừng của loài quen sống nơi rừng bể bạt ngàn đang trôi trong khoang miệng.</p>
<h3>Ăn ba khía</h3>
<p>Không phải người Cà Mau nào sinh ra cũng đã thích ăn ba khía. Đã có một thời điểm tôi ghét cay ghét đắng cái mùi đặc trưng của keo ba khía muối mẹ đem từ quê lên. Tôi đã từng là người đứng ngoài cuộc trong những bữa cơm nhà, chễm chệ dĩa ba khía muối trộn sẵn giữa bàn. Nhưng tôi của ngày ấy cũng không chịu nổi tiếng gặm, tiếng mút chùn chụt của cả nhà. Bàn tay ba và cơm liên tục vô miệng. Mẹ tôi nhanh nhảu bới chén cơm thêm, rồi lại nhanh bóc một cái càng ba khía còn nguyên miếng tỏi ớt. Bà ngoại tôi thì chan nước trộn vô cơm, vừa hít hà, vừa khen tấm tắc, động viên tôi cùng ngồi vào bàn.</p>
<p>Và tôi của lúc ấy đã xiêu lòng. Tôi nghĩ thầm rằng ba khía chắc là đáng thử. Mỗi dịp tiệc tùng, nhà tôi lại lấy keo ba khía chia cho chú bác, anh em. Chắc là ngon lắm. Lần đầu tiên, tôi chịu đón nhận cái mùi mà ngày xưa mình từng cự tuyệt. Vị nồng của hải sản phảng phất với mùi chua của chanh, hương nồng hắc của ớt và tỏi bằm. Rồi tôi đánh bạo bóc lấy một ngoe ba khía còn vương chút thịt.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia22.webp" /></p>
<p class="image-caption">Ảnh: <a href="https://www.vietnamplus.vn/doc-dao-nghe-muoi-ba-khia-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-post678552.vnp" target="_blank">Huỳnh Anh/Thông tấn xã Việt Nam</a>.</p>
<p>Cả nhà tôi gật gù nhìn con trai mình đang dần bị ba khía muối thuần phục. Ba tôi nói tôi đã nếm được nửa cái ngon của ẩm thực Cà Mau. Nửa cái ngon còn lại thì phải chịu khó húp phần nước trộn. Cái sốt trộn sóng sánh chất đạm loài ba khía mặn mòi, bắt cầu trên đầu lưỡi cái ngọt thanh, mặn đầm, tê cay của gia vị, một lần nữa đánh gục lòng tự tôn của tôi.</p>
<p>Mấy năm nay xa nhà, tôi ít ăn ba khía. Có mấy lần tôi được bạn bè mời mọc ăn ghẹ ngâm tương. Cảm giác beo béo của thịt ghẹ hòa cùng nước tương mằn mặn gợi nhớ về dĩa ba khía trộn ngày nào. Đương nhiên cảm giác đó chỉ là tạm bợ. Chẳng thứ gì trên đời thay thế được ba khía muối trong lòng tôi, thay thế được bàn tay mẹ thoăn thoắt, lóc xóc trộn một thau ba khía hòa lẫn với đường cát trắng, với tỏi ớt nồng thơm, mùi chanh chua thơm bừng cả căn bếp.</p>
<p>Lúc đó, tôi sẽ bới sẵn một tô cơm đầy, chân xếp bằng, chờ mẹ bưng dĩa ba khía đã thấm đẫm nước trộn. Tôi sẽ mặc kệ hình tượng, sẽ mút lấy mút để từng càng ba khía, dùng răng cắn rốp phần vỏ, cho thịt trắng tứa ra, béo bùi, hòa với nước trộn hội đủ mặn, ngọt, chua, cay. Thêm một đũa và cơm đầy miệng nữa, đối với một người Cà Mau, nhiều khi chỉ vậy là đủ no lòng mình rồi.</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhiaweb1.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia_fb1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Đêm nước ròng, bãi bùn lấp lóa đèn đội đầu, gốc mắm gốc đước bu đen một đám cua nhỏ. Ở quê tôi, người ta kêu tụi nó là ba khía.</em></p>
<p>Tôi chưa bao giờ mảy may nghĩ về lý do vì sao người ta gọi loài cua nhỏ bằng cái tên này. Hai chữ ba khía quen thuộc tới mức, nó ăn vào trong máu thịt của tôi như một lẽ tự nhiên, không hoài nghi, không phản kháng, cũng không chịu hỏi người lớn bao giờ. Nhưng rồi, sự thật nào cũng phải được hé lộ. Kêu là ba khía vì ngoại hình của con vật này có phần mai sẫm có ba vệt (khía), nên từ đó, tụi nó chết danh hai chữ ba khía luôn.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia2.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguồn ảnh:<a href="https://www.vietnam.vn/sv/san-ba-khia-dem-o-dat-mui" target="_blank"> Vietnam.vn</a>.</p>
<h3>Con ba khía</h3>
<p>Nhớ hồi tôi còn nhỏ, có một hãng viễn thông đã đặt tên cho một dòng sim mới dành riêng cho bà con vùng đồng bằng sông Cửu Long cái tên “sim Ba Khía.” Ban đầu tôi lấy làm lạ, mà giờ nghĩ thấy cũng hay hay. Người ta không lấy lúa, tôm, kênh, rạch để đặt tên, mà chọn ngay con ba khía. Vì mấy thứ kia ở đâu mà không có, duy chỉ có ba khía kén đất để sinh sôi. Phải là ở mấy vùng nước lợ, nước mặn của vùng <a href="https://baocamau.vn/xuoi-ve-miet-thu-a32781.html" target="_blank">Miệt Thứ</a> xa lắc xa lơ, trong những cánh rừng ngập mặn dọc theo bờ biển Kiên Giang, Sóc Trăng, Cà Mau thì may ra mới đúng chỗ ba khía trú mình.</p>
<p>Mà có tới đúng chỗ cũng chưa chắc được diện kiến con cua nhỏ bí ẩn này. Ngoại tôi ngày xưa từng kêu ba khía là con cua xấu, vì tướng tá nhỏ thó, mình mẩy đen thui, lại quen chui rúc trong sình bùn. Nhưng không phải vì bị người đời chê xấu mà ba khía phải mai danh ẩn tích chốn hoang dã. Chỉ đơn giản là ba khía có "công ăn việc làm," có kế sinh nhai, nên nó không rảnh rang gì để trồi lên mặt nước làm cảnh cho người đời nhìn ngắm. Ban ngày, ba khía bận đào hang, xây ổ. Đêm về, ba khía ra khỏi nhà, lăn lộn với đời để kiếm cái ăn.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia15.webp" /></p>
<p>Ba khía, cũng như những loài giáp xác khác, lấy ốc nhỏ, cá nhỏ làm mồi ngon. Nhưng ở vùng ngập mặn cuối trời Tổ quốc, ba khía lại chuộng hơn những sản vật sẵn có của rừng già. Nông dân sành nghề, chỉ bằng màu vỏ, màu gạch, có thể nhìn ra một con ba khía khoái ăn món gì nhất. Ví dụ như ba khía ở vùng rừng mắm, ăn lá cây mắm sẽ có gạch son, vỏ đen. Ăn trái mắm trắng thì phần gạch ba khía sẽ có màu xám tro. Ba khía rừng đước thì chủ yếu ăn lá đước, thành ra lớn con hơn, gạch vàng, đặc biệt là bộ vỏ màu đỏ đậm nhìn vô cùng bắt mắt.</p>
<p>Ăn toàn “thực phẩm hữu cơ” nên thịt của ba khía chắc, ngọt, đậm đà hương vị của biển rừng phương Nam. Tuy nhiên, hảo hạng nhất vẫn là ba khía của vùng Rạch Gốc. Cái này đã được báo đài đưa tin, dân tứ xứ công nhận, chứ hổng phải tại tôi thiên vị quê nhà đâu nhen! Thổ nhưỡng của miền quê này đã khơi nên những cánh rừng mắm bạt ngàn, là chốn thiên đường để ba khía tiệc tùng mỗi đêm. Ba khía ở vùng trũng, nước đọng thì thịt teo. Mảnh đất cực Nam nối liền với biển, khiến cho con nước ròng chở nặng phù sa tắm táp cho loài ba khía được khơi thông da thịt, xứng với danh hiệu “đệ nhất ba khía” được ca thán mấy đời.</p>
<h3>Bắt ba khía</h3>
<p>Ba khía trời sinh thân hình nhỏ, lại thêm điệu bộ nhanh nhạy, hay chui rúc hang nọ, ổ kia, nên nhiều lúc làm khó ngư phủ. Ông cha miệt vườn phải quan sát tỉ mỉ lắm mới đúc kết được thời điểm vàng để bắt được ba khía: đó là vào độ tháng 10 âm lịch. Ca dao tục truyền rằng:</p>
<h3 class="quote-alt bigger">Tháng bảy nước chảy Cà Mau<br />Tháng mười ba khía, hội kéo nhau đi làm<br />U Minh, Rạch Gốc, rừng tràm<br />Muỗi kêu kệ muỗi tao ham ba khía rồi</h3>
<p>Cái chữ “hội” là mấu chốt của vấn đề. Đó là dịp để ba khía kéo nhau từng đàn lũ lượt rời hang, lựa giấc mưa dầm, tối trời để tìm bạn tình. Mùa “ba khía hội,” từng gốc mắm, gốc đước bu đen đặc cơ man ba khía. Và chỉ đúng vào một mùa này trong năm, ba khía mới buông lơi cảnh giác vì mắc say sưa, chè chén hội hè. Dân ham ba khía dễ gì bỏ qua cơ hội kiếm lời này. Vậy là mỗi năm, cứ đúng cữ con nước ròng, dân tình lại gói ghém đồ nghề, đổ xô về nơi rừng thiêng nước độc, quyết săn lùng ba khía.</p>
<p>Trước khi lừng danh vang xứ như hiện tại, ba khía chỉ là loài thủy sản hạ phẩm, nên nghề bắt ba khía cũng là nghề hạ bạc. Thêm phần công việc cực khổ trăm bề: không chỉ phải ăn bờ, ngủ bụi, mà còn phải cẩn thận với muỗi mòng, đĩa vắt, rắn rết của chốn lâm thủy hoang vu — nên phải là người hoặc là gan dạ, hoặc là cùng đường túng thiếu, mới dám đâm đầu vô cái nghiệp bắt ba khía kiếm cơm.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia1.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguồn ảnh: <a href="https://phunu.nld.com.vn/diem-den/can-gio-loi-rung-ngap-man-bat-ba-khia-trong-dem-20180710152856359.htm" target="_blank">Người Lao Động</a>.</p>
<p>Bây giờ thời đại phát triển, người ta không còn phải nhọc công xuồng ghe lách cách tìm về đất mũi Cà Mau, nhưng nghề bắt ba khía vẫn chỉ đỡ cực được đôi phần. Muốn mục sở thị được ba khía thì vẫn phải chờ đến khi đêm xuống, đeo đèn trên cổ, trên trán, rồi lội bì bõm soi từng bãi lầy, gốc cây.</p>
<p>Gặp được chúng là một chuyện, ai muốn tận tay bắt được ba khía phải thao tác lẹ làng hơn tụi nó, nếu không lũ ba khía ranh mãnh sẽ nhanh chân lẩn khuất sau những ổ sình, rễ cây chằng chịt. Ai nấy cũng xắn quần xắn áo, vẫy vùng giữa thiên nhiên hoang dã, hì hụi với mẻ ba khía kẹp càng kêu lách tách, cho đến khi mặt trời ló dạng mới chịu ngừng.</p>
<h3>Muối ba khía</h3>
<p>Ông bà hồi còn khai hoang mở cõi đã coi ba khía như một nguồn thức ăn dự trữ, đặc biệt trong mùa mưa bão thiếu vắng cá tôm. Muốn vậy thì ba khía phải để được lâu, nên người ta mới sáng chế ra cái kiểu muối ba khía, cũng công phu không kém gì đoạn bắt được chúng. </p>
<p>Nông dân ngày xưa lên đường săn ba khía, phải chuẩn bị sẵn mấy lu nước muối. Mấy con ba khía vừa được bắt lên sẽ được rửa ráy cho sạch bùn sình, thả vô lu này. Giây trước còn hung hãn bung càng, giây sau ba khía đã ngắc ngứ, ngoan ngoãn im lìm trong làn nước mặn.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia10.webp" /></p>
<p class="image-caption">Nguồn ảnh: <a href="https://www.nguoiduatin.vn/con-ba-khia-va-mon-ba-khia-muoi-nghe-di-san-cua-ca-mau-204519713.htm" target="_blank">Người đưa tin</a>.</p>
<p>Để muối được con ba khía ngon, phải cân đo liều lượng muối với nước cẩn thận. Nước lạt quá thì ba khía hư, mặn quá thì ba khía rụng càng, đen da, chát thịt. Dụng cụ muối như lu, chậu, và keo phải chuẩn bị phải sạch sẽ kỹ lưỡng, đặc biệt không để một giọt nước mưa ám vô mẻ ba khía muối. Cái nghiệp muối ba khía của dân Cà Mau này xem chừng không đơn giản, nên lúc được vinh danh là <a href="https://baocamau.vn/cong-bo-di-san-cap-quoc-gia-nghe-muoi-ba-khia--a27418.html" target="_blank">Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia</a> hồi năm 2019, bà con ai nấy đều phấn khởi, báo chí đưa tin cho một giá trị sinh kế, ẩm thực truyền đời nay đã được công nhận.</p>
<p>Ba khía muối nhanh, vì thịt thà da dẻ vốn đã thắm sẵn chất mặn từ biển cả đại ngàn. Tầm mươi bữa, ba khía không đổi màu vỏ là coi như ăn được. Nếu là ba khía tươi, bây giờ người ta đã chế ra đủ cách nấu nướng: rang muối, rang me, xào tỏi, v.v. Nhưng ba khía muối thì tuyệt nhiên chỉ có một kiểu. Không biết vì dân mình thủy chung, trước sau như một, hay vì kiểu chế biến đó đã quá tuyệt đích, thỏa mãn miệng ăn bao đời?</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia21.webp" /></p>
<p class="image-caption">Ảnh: <a href="https://www.vietnamplus.vn/doc-dao-nghe-muoi-ba-khia-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-post678552.vnp" target="_blank">Huỳnh Anh/Thông tấn xã Việt Nam</a>.</p>
<p>Kiểu chế biến đó được nhà tôi thực hành trong mỗi bữa cơm. Nhà bạn bè tôi cũng vậy. Một lần được người quen mời cơm, tôi cũng thấy người ta làm thế. Và thậm chí khi viết bài này, giữa muôn vàn thông tin trôi nổi trên mạng, con ba khía muối vẫn được đối xử bằng đúng vỏn vẹn một cách. Đó là rửa qua nước ấm, bỏ yếm, tách càng, bẻ ngoe, cắt đôi thân, rồi trộn với tỏi, ớt, chanh, đường. Hết rồi.</p>
<p>Ba khía là cua, nhưng cũng không phải cua. Con cua bẻ càng, đập vỏ, ăn thịt chắc nụi. Ba khía nhỏ thó, nên không thể tách vỏ, mà chỉ có thể dùng răng cạp, mút cho thịt hòa với sốt trộn đưa đẩy vô miệng. Thịt ba khía mềm béo, tan nhanh. Cái mặn lừng của loài quen sống nơi rừng bể bạt ngàn đang trôi trong khoang miệng.</p>
<h3>Ăn ba khía</h3>
<p>Không phải người Cà Mau nào sinh ra cũng đã thích ăn ba khía. Đã có một thời điểm tôi ghét cay ghét đắng cái mùi đặc trưng của keo ba khía muối mẹ đem từ quê lên. Tôi đã từng là người đứng ngoài cuộc trong những bữa cơm nhà, chễm chệ dĩa ba khía muối trộn sẵn giữa bàn. Nhưng tôi của ngày ấy cũng không chịu nổi tiếng gặm, tiếng mút chùn chụt của cả nhà. Bàn tay ba và cơm liên tục vô miệng. Mẹ tôi nhanh nhảu bới chén cơm thêm, rồi lại nhanh bóc một cái càng ba khía còn nguyên miếng tỏi ớt. Bà ngoại tôi thì chan nước trộn vô cơm, vừa hít hà, vừa khen tấm tắc, động viên tôi cùng ngồi vào bàn.</p>
<p>Và tôi của lúc ấy đã xiêu lòng. Tôi nghĩ thầm rằng ba khía chắc là đáng thử. Mỗi dịp tiệc tùng, nhà tôi lại lấy keo ba khía chia cho chú bác, anh em. Chắc là ngon lắm. Lần đầu tiên, tôi chịu đón nhận cái mùi mà ngày xưa mình từng cự tuyệt. Vị nồng của hải sản phảng phất với mùi chua của chanh, hương nồng hắc của ớt và tỏi bằm. Rồi tôi đánh bạo bóc lấy một ngoe ba khía còn vương chút thịt.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/11/bakhia/bakhia22.webp" /></p>
<p class="image-caption">Ảnh: <a href="https://www.vietnamplus.vn/doc-dao-nghe-muoi-ba-khia-di-san-van-hoa-phi-vat-the-quoc-gia-post678552.vnp" target="_blank">Huỳnh Anh/Thông tấn xã Việt Nam</a>.</p>
<p>Cả nhà tôi gật gù nhìn con trai mình đang dần bị ba khía muối thuần phục. Ba tôi nói tôi đã nếm được nửa cái ngon của ẩm thực Cà Mau. Nửa cái ngon còn lại thì phải chịu khó húp phần nước trộn. Cái sốt trộn sóng sánh chất đạm loài ba khía mặn mòi, bắt cầu trên đầu lưỡi cái ngọt thanh, mặn đầm, tê cay của gia vị, một lần nữa đánh gục lòng tự tôn của tôi.</p>
<p>Mấy năm nay xa nhà, tôi ít ăn ba khía. Có mấy lần tôi được bạn bè mời mọc ăn ghẹ ngâm tương. Cảm giác beo béo của thịt ghẹ hòa cùng nước tương mằn mặn gợi nhớ về dĩa ba khía trộn ngày nào. Đương nhiên cảm giác đó chỉ là tạm bợ. Chẳng thứ gì trên đời thay thế được ba khía muối trong lòng tôi, thay thế được bàn tay mẹ thoăn thoắt, lóc xóc trộn một thau ba khía hòa lẫn với đường cát trắng, với tỏi ớt nồng thơm, mùi chanh chua thơm bừng cả căn bếp.</p>
<p>Lúc đó, tôi sẽ bới sẵn một tô cơm đầy, chân xếp bằng, chờ mẹ bưng dĩa ba khía đã thấm đẫm nước trộn. Tôi sẽ mặc kệ hình tượng, sẽ mút lấy mút để từng càng ba khía, dùng răng cắn rốp phần vỏ, cho thịt trắng tứa ra, béo bùi, hòa với nước trộn hội đủ mặn, ngọt, chua, cay. Thêm một đũa và cơm đầy miệng nữa, đối với một người Cà Mau, nhiều khi chỉ vậy là đủ no lòng mình rồi.</p></div>Trăm năm lịch sử của trường THPT Marie Curie qua loạt ảnh xưa2025-10-09T10:00:00+07:002025-10-09T10:00:00+07:00https://saigoneer.com/vn/heritage/17967-trăm-năm-lịch-sử-của-thpt-marie-curie-qua-loạt-ảnh-xưaSaigoneer.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school16.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school16.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Trường Trung học Phổ thông Marie Curie, tên tiếng Pháp là Lycée Marie Curie, thuộc phường Xuân Hòa TP. HCM, là một trong những ngôi trường công lập lâu đời và nổi tiếng nhất của thành phố.</em></p>
<p>Tên trường được đặt theo nữ bác học Marie Curie, người gốc Ba Lan-Pháp, người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel, và cũng là người đầu tiên trên thế giới giành hai giải Nobel ở hai lĩnh vực khoa học khác nhau.</p>
<p>Trường Marie Curie được chính quyền Pháp thành lập năm 1918, ban đầu là trường tư thục dành cho nữ sinh. Học sinh chủ yếu là con em người Pháp sinh sống tại Đông Dương, bên cạnh một số ít học sinh người Việt. Tất cả các môn học đều được giảng dạy bằng tiếng Pháp.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school17.webp" /></p>
<p>Phần lớn học sinh Việt Nam lúc đó là con nhà khá giả hoặc công chức. Họ được học những môn phổ biến ở châu Âu nhưng còn rất mới mẻ tại Việt Nam thời đó. Theo chia sẻ của các cựu học sinh trong <a href="http://gas.hoasen.edu.vn/en/gas-page/seminar-memories-vietnamese-students-trained-french-high-schools-vietnam-during-1950s" target="_blank">nghiên cứu của Nguyễn Thụy Phong</a>, trường từng là một môi trường cởi mở, khuyến khích sáng tạo và tranh luận, điều hiếm có trong bối cảnh xã hội đương thời.</p>
<p>Kiến trúc của trường gồm tám dãy phòng học mang đậm dấu ấn Pháp, thể hiện rõ qua cổng chính, khu vườn xanh mát và đài phun nước giữa sân. Dù đã qua hơn một thế kỷ, nhiều chi tiết của công trình vẫn được giữ gần như nguyên vẹn.</p>
<p>Từ năm 1970, trường bắt đầu tiếp nhận nam sinh. Sau năm 1975, Marie Curie được bàn giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo TP. HCM, còn đội ngũ giáo viên người Pháp trở về nước.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school7.webp" /></p>
<p>Năm 1997, trường chuyển sang mô hình bán công. Giai đoạn đó, Marie Curie là một trong những trường có quy mô lớn nhất cả nước, với hơn 5.000 học sinh mỗi năm. Sau này, trường giảm chỉ tiêu để tập trung nâng cao chất lượng giảng dạy.</p>
<p>Hiện nay, trường hoạt động theo mô hình công lập, với khoảng 3.500 học sinh. Năm 2015, Marie Curie được công nhận là di tích lịch sử–văn hóa–danh lam thắng cảnh của TP. HCM.</p>
<p>Khác với nhiều ngôi trường có nguồn gốc từ thời Pháp thuộc đã đổi tên, Marie Curie vẫn giữ nguyên tên gọi ban đầu. Mời bạn đọc khám phá ngôi trường mang đậm dấu ấn lịch sử này qua những hình ảnh dưới đây.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school1.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school2.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school3.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school4.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school5.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school6.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school8.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school9.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school10.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school11.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school12.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school13.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school14.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school15.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school16.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school18.webp" /></p>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school19.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school20.webp" alt="" /></div>
</div>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school21.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school22.webp" alt="" /></div>
</div>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school23.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school24.webp" alt="" /></div>
</div>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school25.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school26.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>[Nguồn ảnh: trang Flickr <a href="https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/72157687549656965">manhhai</a>]</p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school16.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school16.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p><em>Trường Trung học Phổ thông Marie Curie, tên tiếng Pháp là Lycée Marie Curie, thuộc phường Xuân Hòa TP. HCM, là một trong những ngôi trường công lập lâu đời và nổi tiếng nhất của thành phố.</em></p>
<p>Tên trường được đặt theo nữ bác học Marie Curie, người gốc Ba Lan-Pháp, người phụ nữ đầu tiên nhận giải Nobel, và cũng là người đầu tiên trên thế giới giành hai giải Nobel ở hai lĩnh vực khoa học khác nhau.</p>
<p>Trường Marie Curie được chính quyền Pháp thành lập năm 1918, ban đầu là trường tư thục dành cho nữ sinh. Học sinh chủ yếu là con em người Pháp sinh sống tại Đông Dương, bên cạnh một số ít học sinh người Việt. Tất cả các môn học đều được giảng dạy bằng tiếng Pháp.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school17.webp" /></p>
<p>Phần lớn học sinh Việt Nam lúc đó là con nhà khá giả hoặc công chức. Họ được học những môn phổ biến ở châu Âu nhưng còn rất mới mẻ tại Việt Nam thời đó. Theo chia sẻ của các cựu học sinh trong <a href="http://gas.hoasen.edu.vn/en/gas-page/seminar-memories-vietnamese-students-trained-french-high-schools-vietnam-during-1950s" target="_blank">nghiên cứu của Nguyễn Thụy Phong</a>, trường từng là một môi trường cởi mở, khuyến khích sáng tạo và tranh luận, điều hiếm có trong bối cảnh xã hội đương thời.</p>
<p>Kiến trúc của trường gồm tám dãy phòng học mang đậm dấu ấn Pháp, thể hiện rõ qua cổng chính, khu vườn xanh mát và đài phun nước giữa sân. Dù đã qua hơn một thế kỷ, nhiều chi tiết của công trình vẫn được giữ gần như nguyên vẹn.</p>
<p>Từ năm 1970, trường bắt đầu tiếp nhận nam sinh. Sau năm 1975, Marie Curie được bàn giao cho Sở Giáo dục và Đào tạo TP. HCM, còn đội ngũ giáo viên người Pháp trở về nước.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school7.webp" /></p>
<p>Năm 1997, trường chuyển sang mô hình bán công. Giai đoạn đó, Marie Curie là một trong những trường có quy mô lớn nhất cả nước, với hơn 5.000 học sinh mỗi năm. Sau này, trường giảm chỉ tiêu để tập trung nâng cao chất lượng giảng dạy.</p>
<p>Hiện nay, trường hoạt động theo mô hình công lập, với khoảng 3.500 học sinh. Năm 2015, Marie Curie được công nhận là di tích lịch sử–văn hóa–danh lam thắng cảnh của TP. HCM.</p>
<p>Khác với nhiều ngôi trường có nguồn gốc từ thời Pháp thuộc đã đổi tên, Marie Curie vẫn giữ nguyên tên gọi ban đầu. Mời bạn đọc khám phá ngôi trường mang đậm dấu ấn lịch sử này qua những hình ảnh dưới đây.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school1.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school2.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school3.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school4.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school5.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school6.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school8.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school9.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school10.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school11.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school12.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school13.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school14.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school15.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school16.webp" /></p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school18.webp" /></p>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school19.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school20.webp" alt="" /></div>
</div>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school21.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school22.webp" alt="" /></div>
</div>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school23.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school24.webp" alt="" /></div>
</div>
<div class="one-row smaller">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school25.webp" alt="" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/urbanistvietnam/articleimages/2025/10/10/school/school26.webp" alt="" /></div>
</div>
<p>[Nguồn ảnh: trang Flickr <a href="https://www.flickr.com/photos/13476480@N07/sets/72157687549656965">manhhai</a>]</p></div>Đồng bằng sông Cửu Long trên hành trình cân bằng giữa thách thức khí hậu và phát triển bền vững2025-10-09T02:02:00+07:002025-10-09T02:02:00+07:00https://saigoneer.com/vn/vietnam-environment/17968-đồng-bằng-sông-cửu-long-trên-hành-trình-cân-bằng-giữa-thách-thức-khí-hậu-và-phát-triển-bền-vữngPaul Christiansen. Ảnh Alberto Prieto. info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p>Cục diện Đồng bằng sông Cửu Long đang đổi thay nhanh đến mức Google Maps cũng khó lòng bắt kịp. Con đường nhỏ trước kia chỉ vừa đủ cho xe máy nay đã được mở rộng, bụi công trình còn vương khắp nơi khi chúng tôi quay lại vào tháng Tám. Chiếc xe bảy chỗ chở chúng tôi phải khéo léo len qua dàn máy thi công mới vào được đến nhà chị Nguyễn Thị Thu Thủy, người làm nghề khô cá.</p>
<div class=""><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i3.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Nguyễn Thị Thu Thủy bên cơ sở phơi cá quy mô nhỏ tại gia.</p>
<p>Chị Thủy cho biết, khi đường xá thông thoáng hơn, việc buôn bán của chị cũng dễ dàng hơn. Chị có thể đóng gói nhiều cá hơn và tiếp cận nhiều khách hàng mới hơn. Với chị, niềm vui của nghề không chỉ là được làm đều tay quanh năm mà còn là thấy công việc của mình ngày một phát triển. Giờ đây, sản lượng khô cá chốt mỗi vụ của gia đình đã tăng gấp nhiều lần so với thời cha mẹ chị.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/ii1.webp" /></p>
<p>Mùa nước nổi, chị lại nhờ chồng và hàng xóm thu mua thêm cá từ các cánh đồng ngập nước mang về chế biến. Chị nói, nếu có thêm chiếc máy đánh vảy cá, chị sẽ nhận cả cá lóc để làm thêm. Đặc biệt, chiếc tủ sấy do WWF–Việt Nam hỗ trợ thông qua quỹ xoay vòng dành cho phụ nữ cũng giúp chị có thể làm việc ngay cả trong những ngày âm u hay mưa gió, tăng thêm thu nhập cho gia đình.</p>
<p>Việc gia tăng sản lượng trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản là một phần trong nỗ lực tổng thể nhằm nâng cao sinh kế cho người dân, đồng thời bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long. Một trong những sáng kiến tiêu biểu là dự án Giải pháp thuận thiên thích ứng với biến đổi khí hậu Đồng bằng sông Cửu Long (CRxN), hướng đến giảm thiểu tác động tiêu cực từ sản xuất lên môi trường mà vẫn phù hợp với đời sống truyền thống của bà con nơi đây.</p>
<p>Tại các xã Tân Hưng, Vĩnh Châu và Vĩnh Thạnh thuộc tỉnh Tây Ninh (trước đây là các xã Vĩnh Châu A, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi và Thạnh Hưng), sáu mô hình sinh kế đang được triển khai song song với các chương trình mang tính vi mô và giáo dục cộng đồng. Những hoạt động này được triển khai dựa trên tập quán lâu đời của người dân, kết hợp với sự hỗ trợ từ chính quyền và tổ chức địa phương, nhằm xây dựng các mô hình có thể nhân rộng, vừa giúp cải thiện thu nhập trong vùng, vừa gìn giữ môi trường thiên nhiên.</p>
<div class="biggest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i4.webp" /></div>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i8.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i5.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Các tuyến kênh rạch và lớp đất phù sa màu mỡ đã nuôi dưỡng những phiên chợ sầm uất ở ĐBSCL.</p>
<h3>Hy vọng mở ra từ những mùa nước nổi</h3>
<p>“Cái giống lúa nổi này ngày xưa ông bà mình làm [....] Bây giờ mình tái tạo lại nó. Mình có cái ký ức xưa một chút xíu,” ông Nguyễn Ngọc Điền, Chủ tịch Hội đồng quản trị hợp tác xã lúa mùa nổi, chia sẻ với Saigoneer. Hơn cả một ký ức về nguồn cội, giống lúa cổ này đang mở ra những tiềm năng kinh tế mới, đồng thời góp phần bảo vệ và hồi phục nguồn nước cũng như đất đai.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i7.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i6.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Ông Nguyễn Ngọc Điền bên cánh đồng lúa mùa nổi.</p>
<p>Khác với cách làm phổ biến hiện nay là đắp đê để canh tác lúa thường trong mùa nước, mô hình trồng lúa mùa nổi không cần can thiệp vào dòng chảy tự nhiên. Giống lúa này không làm gián đoạn dòng nước, cũng không cần dùng đến hóa chất hay phân bón. Nhờ đó, đất có thời gian và điều kiện để tự phục hồi. Tác động tích cực ấy chính là lý do WWF-Việt Nam hỗ trợ cung cấp giống lúa mùa nổi và máy bay nông nghiệp cho bà con.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i11.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i12.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Bà Nguyễn Thị Bé canh tác cả lúa thường lẫn lúa mùa nổi.</p>
<p>Hẳn nhiên, bài toán kinh tế và thói quen canh tác vẫn là yếu tố quyết định ở một trong những vùng còn nhiều khó khăn của Việt Nam. Bà Nguyễn Thị Bé, nông dân và cũng là thành viên hợp tác xã, chia sẻ với Saigoneer: “Nó phải có lợi ích chứ. Ở đây bà con mình ăn quen gạo dẻo rồi thì ăn hỏng có nổi. Chứ nấu đúng cách thì nó cũng ngon lắm.”</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/387.webp" alt="" /></div>
<p>Để giúp người dân dần thích nghi, WWF-Việt Nam không chỉ hướng dẫn thêm các cách chế biến như nấu cháo cho hợp khẩu vị địa phương, mà còn kết nối hợp tác xã với các đối tác tiêu thụ ở nước ngoài, những thị trường dễ đón nhận giá trị dinh dưỡng và đặc tính riêng của giống lúa này hơn. Các doanh nghiệp bắt đầu thử nghiệm chế biến lúa mùa nổi thành bún, bánh tráng hay sản phẩm từ sữa trước khi xuất khẩu. Công ty Khải Nam, chẳng hạn, đang làm thủ tục chứng nhận Halal để đưa sản phẩm sang Malaysia và các nước châu Á khác, cũng như sang Anh và Đức.</p>
<p>Nhu cầu từ thị trường quốc tế đã dẫn đến đề xuất mở rộng diện tích trồng lúa mùa nổi lên 200 ha, so với chỉ 10 ha của năm 2024. Ông Điền cho biết: “Bà con hợp tác xã cũng mạnh dạn hơn một chút, tự tin vì mình làm ra sản phẩm được bán ra ngoài thế giới.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i13.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/371.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Ở nhiều nơi, việc thu hoạch lúa thường vẫn gắn liền với cảnh đốt rơm rạ, gây hại cho môi trường.</p>
<h3>Lúa mùa nổi mở đường cho cá và nấm</h3>
<p>Thành công của mô hình lúa mùa nổi là đầu tàu kéo theo những mô hình khác như nuôi cá. Các loài cá như cá rô, cá lóc có thể sinh trưởng trong cánh đồng ngập nước cùng với lúa mùa nổi. Không có thuốc trừ sâu hay hóa chất, cá lớn lên tự nhiên và có thể thu hoạch để phơi khô, chế biến, giống như công việc mà chị Thủy đang làm. Hoạt động này được hỗ trợ thông qua quỹ xoay vòng, với tổng số vốn ban đầu 840 triệu đồng (32.000 USD) đã giúp 82 phụ nữ tiếp cận kỹ thuật và nguồn vốn để sản xuất.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i15.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i16.webp" /></div>
</div>
<div class="one-row biggest">
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/313.webp" /></div>
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/315.webp" /></div>
<div class="a-3-2"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/311.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Công nghệ mới giúp người dân chủ động phơi cá trong mọi điều kiện thời tiết, ngay cả trong những ngày mưa.</p>
<p>Không chỉ cá, lúa mùa nổi còn đem lại lượng phụ phẩm hữu cơ dồi dào sau thu hoạch. Thay vì bị đốt bỏ ngoài đồng, rơm rạ này được tận dụng để trồng nấm. Chỉ sau 45 ngày, nấm có thể thu hoạch và mang lại nguồn thu khoảng 10 triệu đồng (384 USD). Tiếp nối mô hình trồng nấm rơm từ rơm của lúa thường, từ đầu năm 2026, chương trình CRxN sẽ cung cấp rơm sạch từ lúa mùa nổi cho các hộ dân, cùng với kỹ thuật trồng nấm đã được thông qua tập huấn để nhân rộng mô hình nấm rơm sạch tại địa phương.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i44.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/ii2.webp" /></div>
</div>
<p>Canh tác nấm đặc biệt phù hợp với bà con nơi đây vì có thể trồng ngay tại nhà, giúp phụ nữ vừa tham gia sản xuất, vừa chăm sóc con cái và việc gia đình. Dự án nhanh chóng lan tỏa trong cộng đồng, với 18 nông dân mới đăng ký nhận hỗ trợ. Anh Trần Thành Tâm, một hộ đang trồng nấm, chia sẻ với Saigoneer: “Điều hay nhất là mình tận dụng được nguồn rơm để trồng sản phẩm sạch cho bà con. Người tiêu dùng mình có nguồn nấm rơm sạch để dùng, thích hợp cho người ăn chay và cả tiệc tùng này kia nữa. Gà hấp nấm rơm rất là ngon.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i22.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/92.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Anh Trần Thành Tâm theo dõi quá trình phát triển của nấm.</p>
<div class="iframe sixteen-nine-ratio"><iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/nC6ExHlkaAo?si=PbgqTvKhVj5irZrY" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" referrerpolicy="strict-origin-when-cross-origin" allowfullscreen="allowfullscreen"></iframe></div>
<h3>Từ lúa mùa nổi, sen, lục bình đến hành trình thay đổi nhận thức</h3>
<p>Bên cạnh dự án trọng tâm lúa mùa nổi, CRxN Mekong cũng thử nghiệm nhiều hướng đi khác. Chẳng hạn, những hộ không canh tác lúa trong mùa nước có thể tận dụng ruộng để trồng sen. Được hỗ trợ giống, phân hữu cơ và mạng lưới tiêu thụ, người dân có thêm nguồn thu từ hạt và ngó sen dùng làm thực phẩm. So với việc gieo trồng ba vụ lúa thường, thay thế một vụ bằng sen mùa nước giúp giảm đáng kể lượng khí thải carbon. Có thể thấy, mô hình này có tiềm năng tham gia thị trường carbon trong tương lai.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i25.webp" /></p>
<p>Ngay trước khi tính đến chuyện tạo ra tín chỉ carbon, cây sen đã mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng địa phương, nhất là với phụ nữ. Giống như mô hình trồng nấm, trồng sen cho phép họ làm việc gần nhà, vừa chăm sóc gia đình vừa có thêm thu nhập. Chị Trần Thị Kim Mai, hiện làm việc tại cơ sở chế biến sen, chia sẻ: “Trước kia chị làm ở bon chen, xa nhà quá. Giờ có cái xưởng mần ở đây thì rất là gần nhà.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i28.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i27.webp" /></div>
</div>
<p>Một công việc ổn định còn giúp tinh thần thêm vững vàng. Chị Mai kể thêm: “Mối quan hệ chị em ở đây cũng vui vẻ. Người ta cũng hoà đồng, người ta ráng người ta mần, vậy đó.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/337.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i29.webp" /></div>
</div>
<p>Với các chị em gắn bó với nghề đan <a href="https://saigoneer.com/vn/vietnam-environment/17671-wwf-vi%E1%BB%87t-nam-%C4%91%E1%BB%93ng-h%C3%A0nh-c%C3%B9ng-b%C3%A0-con-%C4%91%E1%BB%93ng-b%E1%BA%B1ng-s%C3%B4ng-c%E1%BB%ADu-long-ch%E1%BB%91ng-bi%E1%BA%BFn-%C4%91%E1%BB%95i-kh%C3%AD-h%E1%BA%ADu-v%E1%BB%9Bi-c%C3%A1c-m%C3%B4-h%C3%ACnh-sinh-k%E1%BA%BF-thu%E1%BA%ADn-t%E1%BB%B1-nhi%C3%AAn" target="_blank">lục bình</a>, niềm vui lớn nhất là khi họ tìm được ý nghĩa và chỗ đứng trong công việc của chính mình. Nhờ các lớp tập huấn từ dự án CRxN, họ học cách biến thứ cây dại từng làm tắc nghẽn kênh rạch thành những vật dụng hữu ích trong gia đình. Lục bình từ chỗ là gánh nặng đã trở thành một nguồn sinh kế linh hoạt, giúp phụ nữ tăng thu nhập, xây dựng mái ấm bền chặt, và tự tin hơn trong cuộc sống.</p>
<div class="one-row full-width">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/197.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/161.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/302.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/137.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/292.webp" /></div>
</div>
<p>Không chỉ dừng lại ở nông - ngư nghiệp mùa lũ, các hoạt động tập huấn của dự án CRxN Mekong còn hướng đến những giá trị xã hội và văn hóa sâu hơn, trong đó có bình đẳng giới. Khi tri thức mới đi cùng nguồn thu nhập ổn định, hiệu quả rõ rệt nhất, như lời một người dân, là “nhà cửa yên ấm hơn.”</p>
<div class=""><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i34.webp" /></div>
<p>Trong nhiều chuyến đi thực địa cùng CRxN Mekong, chúng tôi đã được bà con tiếp đãi nồng hậu, mời cơm, hàn huyên chuyện nghề và chia sẻ niềm hy vọng về tương lai của quê hương. Giữa những khoảnh khắc gần gũi ấy, đôi khi khó mà hình dung hết tầm ảnh hưởng của dự án. Song song với đó, các chuyên gia khí hậu ở Đại học Cần Thơ vẫn miệt mài thu thập dữ liệu và thông tin quý giá, đặt nền móng cho việc thử nghiệm và nhân rộng những giải pháp dựa vào thiên nhiên trên khắp đồng bằng.</p>
<div class="one-row full-width">
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i36.webp" /></div>
<div class="a-3-2"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i35.webp" /></div>
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i37.webp" /></div>
</div>
<p>Mỗi lần rời đi, trong ký ức chúng tôi vẫn còn đọng lại khung cảnh thiên nhiên mênh mang: đàn cò trắng khép cánh trên rừng tràm của Khu Bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen, rùa lẩn mình trong dòng nước sẫm màu dưới tán sen, hoa tràm nở trắng giữa trời, và tiếng khướu đuôi đỏ vang lên giữa không gian tĩnh lặng. Giữa vẻ đẹp hoang sơ ấy, con người có thể vắng bóng, nhưng dấu vết tác động vẫn còn hiện hữu: từ phân bón, thuốc hóa học đến những mùa vụ làm đổi nhịp lũ. Chỉ khi tìm được sự cân bằng giữa bảo tồn thiên nhiên và sinh kế bền vững như cách CRxN Mekong đang làm, chúng ta mới có thể giữ cho con người và hệ sinh thái cùng tồn tại và phát triển dài lâu.</p>
<div id="gtx-trans" style="position: absolute; left: 245px; top: 23739.6px;">
<div class="gtx-trans-icon"> </div>
</div></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i1.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p>Cục diện Đồng bằng sông Cửu Long đang đổi thay nhanh đến mức Google Maps cũng khó lòng bắt kịp. Con đường nhỏ trước kia chỉ vừa đủ cho xe máy nay đã được mở rộng, bụi công trình còn vương khắp nơi khi chúng tôi quay lại vào tháng Tám. Chiếc xe bảy chỗ chở chúng tôi phải khéo léo len qua dàn máy thi công mới vào được đến nhà chị Nguyễn Thị Thu Thủy, người làm nghề khô cá.</p>
<div class=""><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i3.webp" /></div>
<p class="image-caption">Chị Nguyễn Thị Thu Thủy bên cơ sở phơi cá quy mô nhỏ tại gia.</p>
<p>Chị Thủy cho biết, khi đường xá thông thoáng hơn, việc buôn bán của chị cũng dễ dàng hơn. Chị có thể đóng gói nhiều cá hơn và tiếp cận nhiều khách hàng mới hơn. Với chị, niềm vui của nghề không chỉ là được làm đều tay quanh năm mà còn là thấy công việc của mình ngày một phát triển. Giờ đây, sản lượng khô cá chốt mỗi vụ của gia đình đã tăng gấp nhiều lần so với thời cha mẹ chị.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/ii1.webp" /></p>
<p>Mùa nước nổi, chị lại nhờ chồng và hàng xóm thu mua thêm cá từ các cánh đồng ngập nước mang về chế biến. Chị nói, nếu có thêm chiếc máy đánh vảy cá, chị sẽ nhận cả cá lóc để làm thêm. Đặc biệt, chiếc tủ sấy do WWF–Việt Nam hỗ trợ thông qua quỹ xoay vòng dành cho phụ nữ cũng giúp chị có thể làm việc ngay cả trong những ngày âm u hay mưa gió, tăng thêm thu nhập cho gia đình.</p>
<p>Việc gia tăng sản lượng trong nông nghiệp và nuôi trồng thủy sản là một phần trong nỗ lực tổng thể nhằm nâng cao sinh kế cho người dân, đồng thời bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái tự nhiên ở Đồng bằng sông Cửu Long. Một trong những sáng kiến tiêu biểu là dự án Giải pháp thuận thiên thích ứng với biến đổi khí hậu Đồng bằng sông Cửu Long (CRxN), hướng đến giảm thiểu tác động tiêu cực từ sản xuất lên môi trường mà vẫn phù hợp với đời sống truyền thống của bà con nơi đây.</p>
<p>Tại các xã Tân Hưng, Vĩnh Châu và Vĩnh Thạnh thuộc tỉnh Tây Ninh (trước đây là các xã Vĩnh Châu A, Vĩnh Đại, Vĩnh Lợi và Thạnh Hưng), sáu mô hình sinh kế đang được triển khai song song với các chương trình mang tính vi mô và giáo dục cộng đồng. Những hoạt động này được triển khai dựa trên tập quán lâu đời của người dân, kết hợp với sự hỗ trợ từ chính quyền và tổ chức địa phương, nhằm xây dựng các mô hình có thể nhân rộng, vừa giúp cải thiện thu nhập trong vùng, vừa gìn giữ môi trường thiên nhiên.</p>
<div class="biggest"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i4.webp" /></div>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i8.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i5.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Các tuyến kênh rạch và lớp đất phù sa màu mỡ đã nuôi dưỡng những phiên chợ sầm uất ở ĐBSCL.</p>
<h3>Hy vọng mở ra từ những mùa nước nổi</h3>
<p>“Cái giống lúa nổi này ngày xưa ông bà mình làm [....] Bây giờ mình tái tạo lại nó. Mình có cái ký ức xưa một chút xíu,” ông Nguyễn Ngọc Điền, Chủ tịch Hội đồng quản trị hợp tác xã lúa mùa nổi, chia sẻ với Saigoneer. Hơn cả một ký ức về nguồn cội, giống lúa cổ này đang mở ra những tiềm năng kinh tế mới, đồng thời góp phần bảo vệ và hồi phục nguồn nước cũng như đất đai.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i7.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i6.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Ông Nguyễn Ngọc Điền bên cánh đồng lúa mùa nổi.</p>
<p>Khác với cách làm phổ biến hiện nay là đắp đê để canh tác lúa thường trong mùa nước, mô hình trồng lúa mùa nổi không cần can thiệp vào dòng chảy tự nhiên. Giống lúa này không làm gián đoạn dòng nước, cũng không cần dùng đến hóa chất hay phân bón. Nhờ đó, đất có thời gian và điều kiện để tự phục hồi. Tác động tích cực ấy chính là lý do WWF-Việt Nam hỗ trợ cung cấp giống lúa mùa nổi và máy bay nông nghiệp cho bà con.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i11.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i12.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Bà Nguyễn Thị Bé canh tác cả lúa thường lẫn lúa mùa nổi.</p>
<p>Hẳn nhiên, bài toán kinh tế và thói quen canh tác vẫn là yếu tố quyết định ở một trong những vùng còn nhiều khó khăn của Việt Nam. Bà Nguyễn Thị Bé, nông dân và cũng là thành viên hợp tác xã, chia sẻ với Saigoneer: “Nó phải có lợi ích chứ. Ở đây bà con mình ăn quen gạo dẻo rồi thì ăn hỏng có nổi. Chứ nấu đúng cách thì nó cũng ngon lắm.”</p>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/387.webp" alt="" /></div>
<p>Để giúp người dân dần thích nghi, WWF-Việt Nam không chỉ hướng dẫn thêm các cách chế biến như nấu cháo cho hợp khẩu vị địa phương, mà còn kết nối hợp tác xã với các đối tác tiêu thụ ở nước ngoài, những thị trường dễ đón nhận giá trị dinh dưỡng và đặc tính riêng của giống lúa này hơn. Các doanh nghiệp bắt đầu thử nghiệm chế biến lúa mùa nổi thành bún, bánh tráng hay sản phẩm từ sữa trước khi xuất khẩu. Công ty Khải Nam, chẳng hạn, đang làm thủ tục chứng nhận Halal để đưa sản phẩm sang Malaysia và các nước châu Á khác, cũng như sang Anh và Đức.</p>
<p>Nhu cầu từ thị trường quốc tế đã dẫn đến đề xuất mở rộng diện tích trồng lúa mùa nổi lên 200 ha, so với chỉ 10 ha của năm 2024. Ông Điền cho biết: “Bà con hợp tác xã cũng mạnh dạn hơn một chút, tự tin vì mình làm ra sản phẩm được bán ra ngoài thế giới.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i13.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/371.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Ở nhiều nơi, việc thu hoạch lúa thường vẫn gắn liền với cảnh đốt rơm rạ, gây hại cho môi trường.</p>
<h3>Lúa mùa nổi mở đường cho cá và nấm</h3>
<p>Thành công của mô hình lúa mùa nổi là đầu tàu kéo theo những mô hình khác như nuôi cá. Các loài cá như cá rô, cá lóc có thể sinh trưởng trong cánh đồng ngập nước cùng với lúa mùa nổi. Không có thuốc trừ sâu hay hóa chất, cá lớn lên tự nhiên và có thể thu hoạch để phơi khô, chế biến, giống như công việc mà chị Thủy đang làm. Hoạt động này được hỗ trợ thông qua quỹ xoay vòng, với tổng số vốn ban đầu 840 triệu đồng (32.000 USD) đã giúp 82 phụ nữ tiếp cận kỹ thuật và nguồn vốn để sản xuất.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i15.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i16.webp" /></div>
</div>
<div class="one-row biggest">
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/313.webp" /></div>
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/315.webp" /></div>
<div class="a-3-2"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/311.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Công nghệ mới giúp người dân chủ động phơi cá trong mọi điều kiện thời tiết, ngay cả trong những ngày mưa.</p>
<p>Không chỉ cá, lúa mùa nổi còn đem lại lượng phụ phẩm hữu cơ dồi dào sau thu hoạch. Thay vì bị đốt bỏ ngoài đồng, rơm rạ này được tận dụng để trồng nấm. Chỉ sau 45 ngày, nấm có thể thu hoạch và mang lại nguồn thu khoảng 10 triệu đồng (384 USD). Tiếp nối mô hình trồng nấm rơm từ rơm của lúa thường, từ đầu năm 2026, chương trình CRxN sẽ cung cấp rơm sạch từ lúa mùa nổi cho các hộ dân, cùng với kỹ thuật trồng nấm đã được thông qua tập huấn để nhân rộng mô hình nấm rơm sạch tại địa phương.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i44.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/ii2.webp" /></div>
</div>
<p>Canh tác nấm đặc biệt phù hợp với bà con nơi đây vì có thể trồng ngay tại nhà, giúp phụ nữ vừa tham gia sản xuất, vừa chăm sóc con cái và việc gia đình. Dự án nhanh chóng lan tỏa trong cộng đồng, với 18 nông dân mới đăng ký nhận hỗ trợ. Anh Trần Thành Tâm, một hộ đang trồng nấm, chia sẻ với Saigoneer: “Điều hay nhất là mình tận dụng được nguồn rơm để trồng sản phẩm sạch cho bà con. Người tiêu dùng mình có nguồn nấm rơm sạch để dùng, thích hợp cho người ăn chay và cả tiệc tùng này kia nữa. Gà hấp nấm rơm rất là ngon.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i22.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/92.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Anh Trần Thành Tâm theo dõi quá trình phát triển của nấm.</p>
<div class="iframe sixteen-nine-ratio"><iframe width="560" height="315" src="https://www.youtube.com/embed/nC6ExHlkaAo?si=PbgqTvKhVj5irZrY" title="YouTube video player" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture; web-share" referrerpolicy="strict-origin-when-cross-origin" allowfullscreen="allowfullscreen"></iframe></div>
<h3>Từ lúa mùa nổi, sen, lục bình đến hành trình thay đổi nhận thức</h3>
<p>Bên cạnh dự án trọng tâm lúa mùa nổi, CRxN Mekong cũng thử nghiệm nhiều hướng đi khác. Chẳng hạn, những hộ không canh tác lúa trong mùa nước có thể tận dụng ruộng để trồng sen. Được hỗ trợ giống, phân hữu cơ và mạng lưới tiêu thụ, người dân có thêm nguồn thu từ hạt và ngó sen dùng làm thực phẩm. So với việc gieo trồng ba vụ lúa thường, thay thế một vụ bằng sen mùa nước giúp giảm đáng kể lượng khí thải carbon. Có thể thấy, mô hình này có tiềm năng tham gia thị trường carbon trong tương lai.</p>
<p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i25.webp" /></p>
<p>Ngay trước khi tính đến chuyện tạo ra tín chỉ carbon, cây sen đã mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng địa phương, nhất là với phụ nữ. Giống như mô hình trồng nấm, trồng sen cho phép họ làm việc gần nhà, vừa chăm sóc gia đình vừa có thêm thu nhập. Chị Trần Thị Kim Mai, hiện làm việc tại cơ sở chế biến sen, chia sẻ: “Trước kia chị làm ở bon chen, xa nhà quá. Giờ có cái xưởng mần ở đây thì rất là gần nhà.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i28.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i27.webp" /></div>
</div>
<p>Một công việc ổn định còn giúp tinh thần thêm vững vàng. Chị Mai kể thêm: “Mối quan hệ chị em ở đây cũng vui vẻ. Người ta cũng hoà đồng, người ta ráng người ta mần, vậy đó.”</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/337.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i29.webp" /></div>
</div>
<p>Với các chị em gắn bó với nghề đan <a href="https://saigoneer.com/vn/vietnam-environment/17671-wwf-vi%E1%BB%87t-nam-%C4%91%E1%BB%93ng-h%C3%A0nh-c%C3%B9ng-b%C3%A0-con-%C4%91%E1%BB%93ng-b%E1%BA%B1ng-s%C3%B4ng-c%E1%BB%ADu-long-ch%E1%BB%91ng-bi%E1%BA%BFn-%C4%91%E1%BB%95i-kh%C3%AD-h%E1%BA%ADu-v%E1%BB%9Bi-c%C3%A1c-m%C3%B4-h%C3%ACnh-sinh-k%E1%BA%BF-thu%E1%BA%ADn-t%E1%BB%B1-nhi%C3%AAn" target="_blank">lục bình</a>, niềm vui lớn nhất là khi họ tìm được ý nghĩa và chỗ đứng trong công việc của chính mình. Nhờ các lớp tập huấn từ dự án CRxN, họ học cách biến thứ cây dại từng làm tắc nghẽn kênh rạch thành những vật dụng hữu ích trong gia đình. Lục bình từ chỗ là gánh nặng đã trở thành một nguồn sinh kế linh hoạt, giúp phụ nữ tăng thu nhập, xây dựng mái ấm bền chặt, và tự tin hơn trong cuộc sống.</p>
<div class="one-row full-width">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/197.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/161.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/302.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/137.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/292.webp" /></div>
</div>
<p>Không chỉ dừng lại ở nông - ngư nghiệp mùa lũ, các hoạt động tập huấn của dự án CRxN Mekong còn hướng đến những giá trị xã hội và văn hóa sâu hơn, trong đó có bình đẳng giới. Khi tri thức mới đi cùng nguồn thu nhập ổn định, hiệu quả rõ rệt nhất, như lời một người dân, là “nhà cửa yên ấm hơn.”</p>
<div class=""><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i34.webp" /></div>
<p>Trong nhiều chuyến đi thực địa cùng CRxN Mekong, chúng tôi đã được bà con tiếp đãi nồng hậu, mời cơm, hàn huyên chuyện nghề và chia sẻ niềm hy vọng về tương lai của quê hương. Giữa những khoảnh khắc gần gũi ấy, đôi khi khó mà hình dung hết tầm ảnh hưởng của dự án. Song song với đó, các chuyên gia khí hậu ở Đại học Cần Thơ vẫn miệt mài thu thập dữ liệu và thông tin quý giá, đặt nền móng cho việc thử nghiệm và nhân rộng những giải pháp dựa vào thiên nhiên trên khắp đồng bằng.</p>
<div class="one-row full-width">
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i36.webp" /></div>
<div class="a-3-2"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i35.webp" /></div>
<div class="a-2-3"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/xplr-images/premium-content/2025-09-wwf-impact/i37.webp" /></div>
</div>
<p>Mỗi lần rời đi, trong ký ức chúng tôi vẫn còn đọng lại khung cảnh thiên nhiên mênh mang: đàn cò trắng khép cánh trên rừng tràm của Khu Bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen, rùa lẩn mình trong dòng nước sẫm màu dưới tán sen, hoa tràm nở trắng giữa trời, và tiếng khướu đuôi đỏ vang lên giữa không gian tĩnh lặng. Giữa vẻ đẹp hoang sơ ấy, con người có thể vắng bóng, nhưng dấu vết tác động vẫn còn hiện hữu: từ phân bón, thuốc hóa học đến những mùa vụ làm đổi nhịp lũ. Chỉ khi tìm được sự cân bằng giữa bảo tồn thiên nhiên và sinh kế bền vững như cách CRxN Mekong đang làm, chúng ta mới có thể giữ cho con người và hệ sinh thái cùng tồn tại và phát triển dài lâu.</p>
<div id="gtx-trans" style="position: absolute; left: 245px; top: 23739.6px;">
<div class="gtx-trans-icon"> </div>
</div></div>Gốm sứ từ các con tàu đắm kể lại lịch sử hàng hải Việt Nam qua các thế kỷ2025-10-07T14:31:16+07:002025-10-07T14:31:16+07:00https://saigoneer.com/vn/vietnam-music-art/17965-gốm-sứ-từ-các-con-tàu-đắm-kể-lại-lịch-sử-hàng-hải-việt-nam-qua-các-thế-kỷAn Trần.info@saigoneer.com<div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/01.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/01.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p dir="ltr"><em>Sâu thẳm dưới lòng biển, những mảnh gốm màu sắc nằm rải rác, chồng chất lẫn nhau suốt hàng thế kỷ. Có mảnh còn nguyên vẹn, có mảnh đã vỡ vụn, nhiều mảnh khác phủ đầy san hô và bụi của đại dương. Từng là những món hàng hóa quý giá, nay chúng đã trở thành những “hộp ký ức,” được đưa đến vùng biển Việt Nam bởi những con tàu chẳng bao giờ cập bến. Những hiện vật này có thể cho ta biết điều gì về mối quan hệ giữa Việt Nam và các vương quốc cổ lân cận ngày xưa?</em></p>
<div class="centered third-width"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/04.webp" />
<p class="image-caption">Bản đồ sáu con tàu đắm được phát hiện tại lãnh hải Việt Nam. Nguồn ảnh: <a href="https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3099/68732/tong-quan-ve-nhung-con-tau-co-dja-khai-quat-va-khao-sat-o-vung-bien-kien-giang.html" target="_blank">Bảo tàng Lịch sử Quốc gia</a>.</p>
</div>
<p dir="ltr">Giai đoạn thập niên 1990, ít nhất sáu con tàu đắm cổ đã được phát hiện và khai quật trong lãnh hải Việt Nam, bao gồm Vịnh Thái Lan và Biển Đông, nhờ nỗ lực hợp tác của các nhà khảo cổ học và chính phủ Việt Nam và quốc tế. Hàng trăm nghìn hiện vật từ các con tàu đã được khám phá, nghiên cứu, bảo tồn, và hiện đang được lưu trữ trong các bộ sưu tập lớn của những bảo tàng tại Việt Nam và nước ngoài.</p>
<p>Ngày nay, các hiện vật được khai quật từ các con tàu bị đắm, trải dài từ thế kỷ thứ 9 đến thứ 18, đang được trưng bày trong bộ sưu tập “<a href="https://www.baotanglichsutphcm.com.vn/phong-13--gom-mot-so-nuoc-chau-a-1" target="_blank">Gốm một số nước châu Á</a>” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/02.webp" />
<p class="image-caption">Bộ sưu tập ”<a href="https://www.baotanglichsutphcm.com.vn/phong-13--gom-mot-so-nuoc-chau-a-1" target="_blank">Gốm một số nước châu Á</a>” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
</div>
<p dir="ltr">Một trong những yếu tố đầu tiên nắm bắt sự chú ý của người xem với một món đồ gốm là màu sắc và họa tiết của nó. Ta bắt đầu lần theo từng chi tiết: điều gì và những ai đang được khắc họa, nó đến từ đâu và được sử dụng cho mục đích gì. Những câu hỏi ấy dẫn dắt trí tượng của ta cuộc đời của những người từng sở hữu những món đồ đắt giá này, có lẽ là tầng lớp quyền quý trong xã hội xưa.</p>
<p>Nhưng vượt ra khỏi giá trị thẩm mỹ hay khảo cổ, những món gốm trục vớt từ các con tàu đắm còn kể một câu chuyện lớn hơn: câu chuyện về hoạt động giao thương hàng hải của Việt Nam suốt nhiều thế kỷ. Từ đó, ta nhận thấy mối liên kết giữa Việt Nam và các vương quốc lân cận, cũng như vai trò của đất nước trong mạng lưới thương mại Đông Á, Đông Nam Á và xa hơn nữa. Nhìn ở góc độ ấy, gốm không chỉ là di vật, mà là bằng chứng về vị thế của Việt Nam trong dòng chảy lịch sử nghệ thuật và thương mại toàn cầu.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/03.webp" />
</div>
<p class="image-caption">Bộ sưu tập ”Gốm một số nước châu Á” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p dir="ltr">Bắt đầu từ những hiện vật có nguồn gốc trong nước, bộ sưu tập gốm Chu Đậu chất lượng cao được phát hiện từ con tàu đắm ở vùng biển Cù Lao Chàm (Quảng Nam), có niên đại vào thế kỷ thứ 15. Khoảng 240.000 hiện vật, trong đó có cả đồ gốm xuất xứ nước ngoài, đã được khai quật trong ba năm, từ 1997 đến 2000. Cù Lao Chàm, thuộc Hội An, từng giữ vị trí trọng yếu trên tuyến giao thương hàng hải Đông Nam Á thời bấy giờ.</p>
<p>Gốm Chu Đậu, sản xuất tại Hải Dương và phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 15, nổi tiếng với đường nét tinh xảo và họa tiết hoa lá, động vật, phong cảnh hay đề tài dân gian. Những hiện vật tìm thấy gồm gốm men lam trắng và gốm men màu: đồ gia dụng, hộp đựng, vật dụng ăn uống, và cả đồ dùng trong nghi lễ tôn giáo. Được tạo tác cho thị trường xuất khẩu, dòng gốm này phản ánh sự phát triển của nghề gốm Việt Nam và vai trò của đất nước trong mạng lưới hàng hải quốc tế.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/05.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/06.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/07.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Đĩa. Gốm men nhiều màu. Gốm Chu Đậu. Việt Nam, thế kỷ thứ 15.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/08.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/09.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Chi tiết Gốm Chu Đậu. Việt Nam, thế kỷ thứ 15.</p>
<p dir="ltr">Một bộ sưu tập quan trọng khác được tìm thấy là “Gốm Champa,” theo tư liệu bảo tàng, là “đồ gốm tráng men (đồ sành) do người Chăm sản xuất và được đặt tên theo vương quốc Champa (khu vực miền Trung ngày nay), trong khoảng thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 17. So với những tượng tôn giáo nổi bật thường thấy trong các bảo tàng, những hiện vật này dường như ít được chú ý hơn trong lịch sử Chăm. Các hiện vật trưng bày bao gồm đĩa, bát và bình gốm sành men nâu, men xanh lục. Nổi bật trong số đó là chiếc đĩa lớn được trang trí bằng chữ Chăm dọc theo viền, cùng những chiếc bình lớn có họa tiết hoa văn tinh tế.</p>
<div class="one-row bigger">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/10.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/11.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Đĩa. “Gốm Champa.” Việt Nam, thế kỷ thứ 15.</p>
<div class="bigger"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/13.webp" />
</div>
<p class="image-caption">“Gốm Champa” trong bộ sưu tập “Gốm một số nước châu Á” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p dir="ltr">Nghề sản xuất gốm và hoạt động giao thương hàng hải của vương quốc Champa đã phát triển rực rỡ từ thế kỷ thứ 10, duy trì mạng lưới liên kết với Philippines và các vương quốc Đông Nam Á khác. Dù hoạt động sản xuất gốm suy giảm sau sự sụp đổ của vương quốc Champa sau khi vương quốc Đại Việt xâm chiếm vào năm 1471 (dưới triều Lê sơ), vương quốc Champa vẫn giữ vai trò quan trọng như điểm đến và trạm trung chuyển của các thuyền buôn trong khu vực và xa hơn, đặc biệt là mạng lưới thương mại với các vương quốc Hồi giáo, và kết nối Đại Việt với vương quốc Mã Lai.</p>
<div class="one-row bigger">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/15.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/16.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/14.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">
Chi tiết gốm Champa trong bộ sưu tập “Gốm một số nước châu Á” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p>Dưới khu vực tây nam, hướng về phía Vịnh Thái Lan, hoạt động giao thương hàng hải với vương quốc Ayutthaya (Thái Lan ngày nay) được khám phá qua con tàu đắm đảo Hòn Dầm (Kiên Giang) vào thế kỷ thứ 15. Từ con tàu này, người ta phát hiện một lượng lớn đồ gốm Thái Lan, bao gồm gốm men ngọc (celadon) và gốm men trắng vẽ nâu được sản xuất tại các lò gốm Sawankhalok và Sukhothai. Các hiện vật trưng bày bao gồm đĩa gốm men ngọc có hoa văn, chân đèn hình voi, cùng một tượng voi binh sĩ vẫn còn sót lại dấu vết của san hô bám trên bề mặt. Nhóm hiện vật gốm men nâu trắng và men nâu sắt còn có các bình hình Kinnari và ấm hình voi, bình có nắp trang trí hoa văn, cùng bát gốm khắc họa cánh sen và cúc nở trên bề mặt.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/18.webp" />
<p class="image-caption">Tô. Gốm men trắng vẽ nâu. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/19.webp" />
<p class="image-caption"> Bình đóng nắp. Gốm men trắng vẽ nâu. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
</div>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/17.webp" />
<p class="image-caption"> Bình hình Kinnari (trái) & ấm hình voi (phải). Gốm men trắng vẽ nâu. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/20.webp" />
<p class="image-caption">
Chân đèn hình voi (trái) & tượng voi chiến (phải). Gốm men ngọc. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/21.webp" />
<p class="image-caption">Chi tiết đĩa chân cao. Gốm men ngọc. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
</div>
<p dir="ltr">Tiếp nối dòng thời gian, số lượng đồ sứ Trung Hoa thế kỷ thứ 18 lớn nhất được tìm thấy từ con tàu đắm Cà Mau, có niên đại vào thời Ung Chính (1723-1735) thuộc nhà Thanh, được khai quật trong giai đoạn 1998-1999. Phần lớn hiện vật là gốm sứ men trắng vẽ lam và men nhiều màu, được sản xuất tại các lò gốm Cảnh Đức Trấn (Giang Tây) và vài lò từ Quảng Đông. Các họa tiết trang trí thường mô tả phong cảnh, con người và sinh hoạt tại Trung Quốc. Bộ sưu tập bao gồm đĩa, bát, ấm trà, tách trà, bình kendi và lọ đựng thuốc hít, v.v.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/22.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/23.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Sứ men xanh trắng. Đời nhà Thanh, thời Ung Chính (1723–1735).</p>
<p>Ngoài ra, nhiều hiện vật còn mang họa tiết châu Âu. Một ví dụ đáng chú ý là chiếc đĩa có viền trang trí họa tiết sóng biển, ở giữa khắc họa hình hai người đàn ông và một người khác đang dắt một con bò. Theo bài viết “<a href="https://thuvienkhxh-vass.contentdm.oclc.org/digital/collection/p20065coll33/id/9737/">Đồ gốm sứ trong các con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam</a>” của TS. Nguyễn Đình Chiến, chiếc đĩa mô tả khung cảnh một làng chài tại đảo nhân tạo Deshima – thương điếm của người Hà Lan ở Nagasaki, Nhật Bản vào giữa thế kỷ thứ 17. Đằng sau là khung cảnh đồi cát, ngọn hải đăng, nhà thờ và những ngôi nhà bên bến thuyền đánh cá phía sau. Hiện vật này cho thấy những sản phẩm tương tự, bao gồm bình sữa có quai và bình rượu, đã được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường châu Âu đương thời.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/24.webp" />
</div>
<p class="image-caption">Đĩa. Sứ men xanh trắng. Đời nhà Thanh, thời Ung Chính (1723–1735).</p>
<p dir="ltr">Một hiện vật nổi bật từ con tàu đắm này là những tách trà sứ men xanh trắng xếp chồng lên nhau, được bảo tàng gọi là “Chồng chén đĩa kết dính” từ thế kỷ thứ 18. “Tác phẩm” này, dù có kích cỡ nhỏ, gợi nên cảm giác vừa mong manh vừa bền bỉ, đã tồn tại qua sức ép của biển sâu và lớp lang thời gian. Khối gốm cũng những mảnh vụn khác được gắn kết lại thành một hình khối đặc biệt, phần nào hé lộ cách những chiếc tách từng được xếp chặt trong các thùng hàng trên hành trình vượt biển. Dù tuyến đường và điểm đến của con tàu vẫn chưa được xác định, vị trí đắm tàu tại vùng biển Cà Mau cho thấy con tàu có thể đã rời Trung Quốc, hướng về phía nam qua quần đảo Mã Lai trước khi tiếp tục hải trình đến những lục địa khác.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/25.webp" />
<p class="image-caption">“Chồng chén đĩa kết dính.” Đĩa. Sứ men xanh trắng. Đời nhà Thanh, thời Ung Chính (1723–1735).</p>
</div>
<p dir="ltr">Dù những con tàu và hàng hóa của chúng đều phải chịu số phận bi thương, những gì còn sót lại sau những cuộc đắm tàu là bằng chứng quan trọng cho các nhà khảo cổ học và nhà sử học nghiên cứu về hoạt động giao thương hàng hải của Việt Nam thời phong kiến, một lĩnh vực dễ bị lãng quên trong bức tranh lịch sử tổng thể.</p>
<p dir="ltr">Những hiện vật gốm, từng là mặt hàng đắt giá trong thương mại toàn cầu, không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn lưu giữ dấu vết của đời sống và giao lưu giữa các châu lục. Gốm từ các con tàu đắm mở ra một góc nhìn khác về sự kết nối giữa nghệ thuật với các yếu tố chính trị, xã hội và lịch sử thương mại. Chúng vượt ra ngoài những câu chuyện lịch sử vốn được kể từ đất liền, làm nổi bật vị thế chiến lược của Việt Nam là điểm giao thoa giữa Đông Á và Đông Nam Á trong mạng lưới thương mại toàn cầu, ngay cả giữa những biến động và sự thăng trầm của các vương quốc.</p>
<p dir="ltr"><strong>Bộ sưu tập “Gốm một số nước châu Á” hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trên trang <strong><a href="https://www.baotanglichsutphcm.com.vn/en-US/exhibition/permanent-exhibition/cultures-in-southern-vietnam-and-some-asian-countries/room-14-ceramics-of-some-asian-countries">website</a></strong> chính thức tại đây.</strong></p></div><div class="feed-description"><p><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/01.webp" data-og-image="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/01.webp" data-position="50% 50%" /></p>
<p dir="ltr"><em>Sâu thẳm dưới lòng biển, những mảnh gốm màu sắc nằm rải rác, chồng chất lẫn nhau suốt hàng thế kỷ. Có mảnh còn nguyên vẹn, có mảnh đã vỡ vụn, nhiều mảnh khác phủ đầy san hô và bụi của đại dương. Từng là những món hàng hóa quý giá, nay chúng đã trở thành những “hộp ký ức,” được đưa đến vùng biển Việt Nam bởi những con tàu chẳng bao giờ cập bến. Những hiện vật này có thể cho ta biết điều gì về mối quan hệ giữa Việt Nam và các vương quốc cổ lân cận ngày xưa?</em></p>
<div class="centered third-width"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/04.webp" />
<p class="image-caption">Bản đồ sáu con tàu đắm được phát hiện tại lãnh hải Việt Nam. Nguồn ảnh: <a href="https://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3099/68732/tong-quan-ve-nhung-con-tau-co-dja-khai-quat-va-khao-sat-o-vung-bien-kien-giang.html" target="_blank">Bảo tàng Lịch sử Quốc gia</a>.</p>
</div>
<p dir="ltr">Giai đoạn thập niên 1990, ít nhất sáu con tàu đắm cổ đã được phát hiện và khai quật trong lãnh hải Việt Nam, bao gồm Vịnh Thái Lan và Biển Đông, nhờ nỗ lực hợp tác của các nhà khảo cổ học và chính phủ Việt Nam và quốc tế. Hàng trăm nghìn hiện vật từ các con tàu đã được khám phá, nghiên cứu, bảo tồn, và hiện đang được lưu trữ trong các bộ sưu tập lớn của những bảo tàng tại Việt Nam và nước ngoài.</p>
<p>Ngày nay, các hiện vật được khai quật từ các con tàu bị đắm, trải dài từ thế kỷ thứ 9 đến thứ 18, đang được trưng bày trong bộ sưu tập “<a href="https://www.baotanglichsutphcm.com.vn/phong-13--gom-mot-so-nuoc-chau-a-1" target="_blank">Gốm một số nước châu Á</a>” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/02.webp" />
<p class="image-caption">Bộ sưu tập ”<a href="https://www.baotanglichsutphcm.com.vn/phong-13--gom-mot-so-nuoc-chau-a-1" target="_blank">Gốm một số nước châu Á</a>” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
</div>
<p dir="ltr">Một trong những yếu tố đầu tiên nắm bắt sự chú ý của người xem với một món đồ gốm là màu sắc và họa tiết của nó. Ta bắt đầu lần theo từng chi tiết: điều gì và những ai đang được khắc họa, nó đến từ đâu và được sử dụng cho mục đích gì. Những câu hỏi ấy dẫn dắt trí tượng của ta cuộc đời của những người từng sở hữu những món đồ đắt giá này, có lẽ là tầng lớp quyền quý trong xã hội xưa.</p>
<p>Nhưng vượt ra khỏi giá trị thẩm mỹ hay khảo cổ, những món gốm trục vớt từ các con tàu đắm còn kể một câu chuyện lớn hơn: câu chuyện về hoạt động giao thương hàng hải của Việt Nam suốt nhiều thế kỷ. Từ đó, ta nhận thấy mối liên kết giữa Việt Nam và các vương quốc lân cận, cũng như vai trò của đất nước trong mạng lưới thương mại Đông Á, Đông Nam Á và xa hơn nữa. Nhìn ở góc độ ấy, gốm không chỉ là di vật, mà là bằng chứng về vị thế của Việt Nam trong dòng chảy lịch sử nghệ thuật và thương mại toàn cầu.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/03.webp" />
</div>
<p class="image-caption">Bộ sưu tập ”Gốm một số nước châu Á” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p dir="ltr">Bắt đầu từ những hiện vật có nguồn gốc trong nước, bộ sưu tập gốm Chu Đậu chất lượng cao được phát hiện từ con tàu đắm ở vùng biển Cù Lao Chàm (Quảng Nam), có niên đại vào thế kỷ thứ 15. Khoảng 240.000 hiện vật, trong đó có cả đồ gốm xuất xứ nước ngoài, đã được khai quật trong ba năm, từ 1997 đến 2000. Cù Lao Chàm, thuộc Hội An, từng giữ vị trí trọng yếu trên tuyến giao thương hàng hải Đông Nam Á thời bấy giờ.</p>
<p>Gốm Chu Đậu, sản xuất tại Hải Dương và phát triển mạnh vào thế kỷ thứ 15, nổi tiếng với đường nét tinh xảo và họa tiết hoa lá, động vật, phong cảnh hay đề tài dân gian. Những hiện vật tìm thấy gồm gốm men lam trắng và gốm men màu: đồ gia dụng, hộp đựng, vật dụng ăn uống, và cả đồ dùng trong nghi lễ tôn giáo. Được tạo tác cho thị trường xuất khẩu, dòng gốm này phản ánh sự phát triển của nghề gốm Việt Nam và vai trò của đất nước trong mạng lưới hàng hải quốc tế.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/05.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/06.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/07.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Đĩa. Gốm men nhiều màu. Gốm Chu Đậu. Việt Nam, thế kỷ thứ 15.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/08.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/09.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Chi tiết Gốm Chu Đậu. Việt Nam, thế kỷ thứ 15.</p>
<p dir="ltr">Một bộ sưu tập quan trọng khác được tìm thấy là “Gốm Champa,” theo tư liệu bảo tàng, là “đồ gốm tráng men (đồ sành) do người Chăm sản xuất và được đặt tên theo vương quốc Champa (khu vực miền Trung ngày nay), trong khoảng thế kỷ thứ 2 đến thế kỷ thứ 17. So với những tượng tôn giáo nổi bật thường thấy trong các bảo tàng, những hiện vật này dường như ít được chú ý hơn trong lịch sử Chăm. Các hiện vật trưng bày bao gồm đĩa, bát và bình gốm sành men nâu, men xanh lục. Nổi bật trong số đó là chiếc đĩa lớn được trang trí bằng chữ Chăm dọc theo viền, cùng những chiếc bình lớn có họa tiết hoa văn tinh tế.</p>
<div class="one-row bigger">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/10.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/11.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Đĩa. “Gốm Champa.” Việt Nam, thế kỷ thứ 15.</p>
<div class="bigger"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/13.webp" />
</div>
<p class="image-caption">“Gốm Champa” trong bộ sưu tập “Gốm một số nước châu Á” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p dir="ltr">Nghề sản xuất gốm và hoạt động giao thương hàng hải của vương quốc Champa đã phát triển rực rỡ từ thế kỷ thứ 10, duy trì mạng lưới liên kết với Philippines và các vương quốc Đông Nam Á khác. Dù hoạt động sản xuất gốm suy giảm sau sự sụp đổ của vương quốc Champa sau khi vương quốc Đại Việt xâm chiếm vào năm 1471 (dưới triều Lê sơ), vương quốc Champa vẫn giữ vai trò quan trọng như điểm đến và trạm trung chuyển của các thuyền buôn trong khu vực và xa hơn, đặc biệt là mạng lưới thương mại với các vương quốc Hồi giáo, và kết nối Đại Việt với vương quốc Mã Lai.</p>
<div class="one-row bigger">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/15.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/16.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/14.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">
Chi tiết gốm Champa trong bộ sưu tập “Gốm một số nước châu Á” tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh.</p>
<p>Dưới khu vực tây nam, hướng về phía Vịnh Thái Lan, hoạt động giao thương hàng hải với vương quốc Ayutthaya (Thái Lan ngày nay) được khám phá qua con tàu đắm đảo Hòn Dầm (Kiên Giang) vào thế kỷ thứ 15. Từ con tàu này, người ta phát hiện một lượng lớn đồ gốm Thái Lan, bao gồm gốm men ngọc (celadon) và gốm men trắng vẽ nâu được sản xuất tại các lò gốm Sawankhalok và Sukhothai. Các hiện vật trưng bày bao gồm đĩa gốm men ngọc có hoa văn, chân đèn hình voi, cùng một tượng voi binh sĩ vẫn còn sót lại dấu vết của san hô bám trên bề mặt. Nhóm hiện vật gốm men nâu trắng và men nâu sắt còn có các bình hình Kinnari và ấm hình voi, bình có nắp trang trí hoa văn, cùng bát gốm khắc họa cánh sen và cúc nở trên bề mặt.</p>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/18.webp" />
<p class="image-caption">Tô. Gốm men trắng vẽ nâu. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/19.webp" />
<p class="image-caption"> Bình đóng nắp. Gốm men trắng vẽ nâu. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
</div>
<div class="one-row biggest">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/17.webp" />
<p class="image-caption"> Bình hình Kinnari (trái) & ấm hình voi (phải). Gốm men trắng vẽ nâu. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/20.webp" />
<p class="image-caption">
Chân đèn hình voi (trái) & tượng voi chiến (phải). Gốm men ngọc. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/21.webp" />
<p class="image-caption">Chi tiết đĩa chân cao. Gốm men ngọc. Thái Lan, thế kỷ thứ 15.</p>
</div>
</div>
<p dir="ltr">Tiếp nối dòng thời gian, số lượng đồ sứ Trung Hoa thế kỷ thứ 18 lớn nhất được tìm thấy từ con tàu đắm Cà Mau, có niên đại vào thời Ung Chính (1723-1735) thuộc nhà Thanh, được khai quật trong giai đoạn 1998-1999. Phần lớn hiện vật là gốm sứ men trắng vẽ lam và men nhiều màu, được sản xuất tại các lò gốm Cảnh Đức Trấn (Giang Tây) và vài lò từ Quảng Đông. Các họa tiết trang trí thường mô tả phong cảnh, con người và sinh hoạt tại Trung Quốc. Bộ sưu tập bao gồm đĩa, bát, ấm trà, tách trà, bình kendi và lọ đựng thuốc hít, v.v.</p>
<div class="one-row">
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/22.webp" /></div>
<div><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/23.webp" /></div>
</div>
<p class="image-caption">Sứ men xanh trắng. Đời nhà Thanh, thời Ung Chính (1723–1735).</p>
<p>Ngoài ra, nhiều hiện vật còn mang họa tiết châu Âu. Một ví dụ đáng chú ý là chiếc đĩa có viền trang trí họa tiết sóng biển, ở giữa khắc họa hình hai người đàn ông và một người khác đang dắt một con bò. Theo bài viết “<a href="https://thuvienkhxh-vass.contentdm.oclc.org/digital/collection/p20065coll33/id/9737/">Đồ gốm sứ trong các con tàu đắm ở vùng biển Việt Nam</a>” của TS. Nguyễn Đình Chiến, chiếc đĩa mô tả khung cảnh một làng chài tại đảo nhân tạo Deshima – thương điếm của người Hà Lan ở Nagasaki, Nhật Bản vào giữa thế kỷ thứ 17. Đằng sau là khung cảnh đồi cát, ngọn hải đăng, nhà thờ và những ngôi nhà bên bến thuyền đánh cá phía sau. Hiện vật này cho thấy những sản phẩm tương tự, bao gồm bình sữa có quai và bình rượu, đã được sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường châu Âu đương thời.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/24.webp" />
</div>
<p class="image-caption">Đĩa. Sứ men xanh trắng. Đời nhà Thanh, thời Ung Chính (1723–1735).</p>
<p dir="ltr">Một hiện vật nổi bật từ con tàu đắm này là những tách trà sứ men xanh trắng xếp chồng lên nhau, được bảo tàng gọi là “Chồng chén đĩa kết dính” từ thế kỷ thứ 18. “Tác phẩm” này, dù có kích cỡ nhỏ, gợi nên cảm giác vừa mong manh vừa bền bỉ, đã tồn tại qua sức ép của biển sâu và lớp lang thời gian. Khối gốm cũng những mảnh vụn khác được gắn kết lại thành một hình khối đặc biệt, phần nào hé lộ cách những chiếc tách từng được xếp chặt trong các thùng hàng trên hành trình vượt biển. Dù tuyến đường và điểm đến của con tàu vẫn chưa được xác định, vị trí đắm tàu tại vùng biển Cà Mau cho thấy con tàu có thể đã rời Trung Quốc, hướng về phía nam qua quần đảo Mã Lai trước khi tiếp tục hải trình đến những lục địa khác.</p>
<div class="centered"><img src="//media.urbanistnetwork.com/saigoneer/article-images/2025/10/05/ceramic/25.webp" />
<p class="image-caption">“Chồng chén đĩa kết dính.” Đĩa. Sứ men xanh trắng. Đời nhà Thanh, thời Ung Chính (1723–1735).</p>
</div>
<p dir="ltr">Dù những con tàu và hàng hóa của chúng đều phải chịu số phận bi thương, những gì còn sót lại sau những cuộc đắm tàu là bằng chứng quan trọng cho các nhà khảo cổ học và nhà sử học nghiên cứu về hoạt động giao thương hàng hải của Việt Nam thời phong kiến, một lĩnh vực dễ bị lãng quên trong bức tranh lịch sử tổng thể.</p>
<p dir="ltr">Những hiện vật gốm, từng là mặt hàng đắt giá trong thương mại toàn cầu, không chỉ mang giá trị thẩm mỹ mà còn lưu giữ dấu vết của đời sống và giao lưu giữa các châu lục. Gốm từ các con tàu đắm mở ra một góc nhìn khác về sự kết nối giữa nghệ thuật với các yếu tố chính trị, xã hội và lịch sử thương mại. Chúng vượt ra ngoài những câu chuyện lịch sử vốn được kể từ đất liền, làm nổi bật vị thế chiến lược của Việt Nam là điểm giao thoa giữa Đông Á và Đông Nam Á trong mạng lưới thương mại toàn cầu, ngay cả giữa những biến động và sự thăng trầm của các vương quốc.</p>
<p dir="ltr"><strong>Bộ sưu tập “Gốm một số nước châu Á” hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh. Thông tin chi tiết có thể được tìm thấy trên trang <strong><a href="https://www.baotanglichsutphcm.com.vn/en-US/exhibition/permanent-exhibition/cultures-in-southern-vietnam-and-some-asian-countries/room-14-ceramics-of-some-asian-countries">website</a></strong> chính thức tại đây.</strong></p></div>