In Plain Sight - Sài·gòn·eerhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sightSun, 07 Dec 2025 01:30:14 +0700Joomla! - Open Source Content Managementvi-vnBảo tàng Phụ nữ Việt Nam Hà Nội: Dấu ấn phụ nữ trong dòng chảy lịch sử, văn hóahttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17983-bảo-tàng-phụ-nữ-việt-nam-hà-nội-dấu-ấn-phụ-nữ-trong-dòng-chảy-lịch-sử,-văn-hóahttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17983-bảo-tàng-phụ-nữ-việt-nam-hà-nội-dấu-ấn-phụ-nữ-trong-dòng-chảy-lịch-sử,-văn-hóa

Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam ở Hà Nội mang trong mình một sứ mệnh quan trọng.

Bảo tàng được Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam thành lập vào năm 1987 với mục tiêu “nâng cao kiến thức và hiểu biết cho công chúng về lịch sử, di sản văn hóa của phụ nữ Việt Nam.” Nơi đây lưu giữ khoảng 40.000 tư liệu và hiện vật, thường xuyên tổ chức triển lãm chuyên đề và có hệ thống thuyết minh âm thanh sinh động. Nhờ vậy, bảo tàng đi đúng mục tiêu và trở thành địa chỉ quen thuộc khi tìm hiểu về phụ nữ Việt Nam.

Bảo tàng dẫn người xem đi qua nhiều lớp lang lịch sử và các thực hành truyền thống, đồng thời cho thấy mình không chỉ hướng về quá khứ khi vẫn làm giáo dục cộng đồng, mở rộng hợp tác quốc tế, lên tiếng về bạo lực gia đình, giới thiệu nghệ thuật đương đại và hiện diện tích cực trên truyền thông, mạng xã hội.

Trong những cách mà bảo tàng thực hiện sứ mệnh của mình, thành công cốt lõi nằm ở nghệ thuật kể chuyện. Những câu chuyện ở đây không khép lại sau chuyến tham quan, mà khơi gợi người xem tiếp tục tìm hiểu sâu hơn về những gì vừa thấy.

Khám phá không gian bảo tàng và những hiện vật đáng lưu ý

Từ con phố Lý Thường Kiệt rợp bóng cây, tòa nhà của Bảo tàng Phụ nữ Việt Nam hiện lên với những bậc tam cấp trang nghiêm. Bước qua sảnh chính, người xem bắt gặp ngay tác phẩm ‘Mẹ Việt Nam’ của nghệ sĩ Nguyễn Phú Cường, mang dáng vẻ vừa hiền từ vừa mạnh mẽ. Người mẹ bế đứa con nhỏ trên vai, còn cánh tay kia, như lời thuyết minh mô tả, đang chống đỡ và gánh lấy những nhọc nhằn của đất nước.

Diện mạo công trình hiện tại là kết quả của hai lần trùng tu lớn diễn ra trong giai đoạn 1991–1995 và 2006–2010. Một bài viết từ năm 1995, khi bảo tàng vừa mở cửa trở lại, từng mô tả kiến trúc nơi đây bằng hình ảnh rất đặc biệt: “Trên nền đá cẩm thạch, mái vòm uốn cong gợi hình bầu ngực phụ nữ, với những bóng đèn tròn như giọt sữa.”

Giờ đây, khi ngước nhìn từ sảnh chính, có lẽ khó nhận ra hết những đường nét từng được nhắc đến trong bài viết cũ. Thay vào đó, cảm giác mềm mại và nữ tính ấy được thể hiện qua cách bố trí không gian: những dải nón lá nhiều màu treo ngược từ trần, ánh sáng hắt qua từng lớp nón tạo nên nhịp chuyển động nhẹ, khiến khoảng không phía trên trở nên ấm áp và gần gũi hơn, khiến khoảng không trở nên ấm áp và gần gũi hơn, đồng thời dẫn ánh nhìn về ba không gian trưng bày kế tiếp: phụ nữ trong gia đình, phụ nữ trong lịch sử và thời trang phụ nữ.

Tầng trưng bày phụ nữ trong gia đình giới thiệu các phong tục gắn liền với đời sống của nhiều tộc người Việt Nam: từ thời con gái đến khi lập gia đình, sinh nở và nuôi con. Những câu chuyện xoay quanh tình yêu, hôn nhân và việc chăm sóc con cái được thể hiện qua nhiều hiện vật sinh động.

Bên cạnh những câu chuyện về lễ cưới và tục “bắt chồng” ở cộng đồng mẫu hệ người Chu Ru, một chi tiết gây ấn tượng đặc biệt là gian buồng đôi của đôi vợ chồng trẻ người Thái ở xã Chiềng Khơi, Sơn La.

Gian buồng được may bằng vải đen và đỏ, viền chỉ vàng, bên trong có chăn gối dệt hoa văn và tấm đệm đan khéo léo.

Trong nhà truyền thống của người Thái, không gian riêng được ngăn bằng những tấm vải căng tạm. Gian buồng này do gia đình cô dâu chuẩn bị cho ngày cưới, mất gần một năm để hoàn thành và được sử dụng từ năm 1980 đến 1983, sau đó được giữ lại vài năm như một kỷ vật trước khi trao tặng cho bảo tàng.

Kế tiếp là phần trưng bày về quá trình mang thai và sinh nở, nơi có ống nghe, ảnh siêu âm, sách hướng dẫn làm mẹ, vòng tay bạc giúp kích sữa, bùa hộ mệnh cho thai phụ, cùng ống tre của người M’nông dùng để cất giữ cuống rốn trẻ sơ sinh, đã được sử dụng từ năm 1924.

Cách bảo tàng tái hiện tỉ mỉ các tập tục liên quan đến thai kỳ, sinh nở và chăm sóc trẻ nhỏ khiến người xem cảm nhận rõ: trong cùng một nền nếp văn hóa, đời sống của người phụ nữ có thể là sự chở che của truyền thống, cũng có thể là khuôn khổ chật hẹp của những ràng buộc vô hình.

Một phong tục của người Thái Đen thể hiện rõ điều này được ghi lại trên bảng thuyết minh: “Ngay sau khi sinh, bà đỡ đặt đứa trẻ vào giỏ. Bà nội bên cha giảng cho đứa bé nghe về đạo đức. Bà dùng lực gõ vào chõ đồ xôi rồi cắm một con dao xuống lỗ trên sàn nhà để xua đuổi tà ma.”

Không gian trưng bày tái hiện hành trình làm mẹ một cách đầy chân thực, khắc họa những công việc thầm lặng để đưa một sinh linh bé nhỏ đến với cuộc đời. Khi bước ra khỏi không gian ấy, có lẽ ai cũng sẽ ngoái đầu nhìn lại, nghĩ về người mẹ của mình, về những đôi giày tí hon từng được xỏ vào bàn chân năm nào, và mỉm cười vì những vụng về vừa đáng yêu vừa khiến ta chợt nghẹn ngào. Như một dòng nhận xét từng viết về Bảo tàng Làm mẹ: “Mẹ ơi, con xin lỗi.”

Phụ nữ trong bức tranh kháng chiến

Rời khỏi không gian về gia đình và bước lên tầng hai, người xem tiếp cận một chủ đề khác: vai trò của phụ nữ trong chiến tranh.

Ấn tượng đầu tiên là sự đa dạng của các hiện vật. Bên cạnh gươm, kiếm hay khẩu súng lục của Hà Thị Quế là những vật dụng đời thường như ấm trà, siêu nước, đèn bão, đồ lót, bơm xe đạp hay khăn tay, tất cả đều từng đóng vai trò quan trọng trong kháng chiến.

Nếu chỉ nhìn riêng từng món, thật khó hình dung cách chúng được sử dụng để chống lại kẻ thù. Nhưng qua cách bảo tàng trưng bày và thuyết minh, mỗi đồ vật đều hiện lên với bối cảnh cụ thể và sự linh hoạt trong cách người phụ nữ thời chiến ứng phó với hoàn cảnh.

Trong một tủ kính, một đôi quang gánh mộc mạc được đặt ngay ngắn. Phần thuyết minh cho biết nó từng thuộc về Trương Thị Tám, một nữ chiến sĩ tham gia kháng chiến chống Pháp, và gắn liền với một câu chuyện đặc biệt.

Tám sinh ra trong một gia đình làm nông xã Đông Kết, tỉnh Hưng Yên. Năm 1951, khi mới 18 tuổi, bà gia nhập đội du kích địa phương. Đến năm 1953, bà được giao nhiệm vụ tổ chức một trận tập kích vào đồn lính Pháp ở làng Phương Trù.

Vào một buổi sáng tháng 6, Tám cải trang thành người bán hoa quả, cùng bảy phụ nữ khác lặng lẽ tiến vào đồn. Gánh hai thúng đầy rau và chuối, họ đi qua lính gác mà không bị nghi ngờ.

Khi đến gần chốt canh, Tám bất ngờ rút đòn gánh, đánh ngã một lính canh rồi đoạt lấy khẩu súng. Cú ra đòn mở màn thành công, và hành động táo bạo ấy sau này trở thành cảm hứng cho một bài thơ của Huy Cận.

Nghe kể lại, câu chuyện về chiếc đòn gánh có thể khiến người ta ngỡ như đây là chuyện hư cấu. Nhưng khi đứng trước món đồ thật, nhìn từng vết mòn trên thân gỗ, người xem có thể hình dung được sức nặng từng đè lên vai nữ chiến sĩ.

Không chỉ kể lại những chiến công, phần trưng bày còn khắc họa đời sống của những người phụ nữ bị bắt giữ trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Một vài hiện vật nổi bật gồm hình Chùa Một Cột do Võ Thị Thắng thêu trong thời gian bị giam ở Côn Đảo, cuốn sổ ghi thơ của Lê Thị Ngọc Em và chiếc vòng bạc khắc tên “Kim Dung.”

Chiếc vòng bạc được Nguyễn Thị Kim Dung nhận từ cha mình, một người thợ bạc, sau khi bà tham gia vụ đánh bom rạp Majestic Sài Gòn năm 1948. Trong mẩu giấy gửi kèm, ông viết: “Con đeo để ba tìm xác con.”

Theo lời kể của Dung được ghi lại trong phần thuyết minh tại bảo tàng, bà đã bật khóc khi nhận ra nét chữ quen thuộc của cha. Với bà, món trang sức nhỏ bé ấy như ngọn lửa sưởi ấm trong xà lim lạnh lẽo, tiếp thêm sức mạnh để tiếp tục chiến đấu.

Lúc tham gia vụ đánh bom rạp chiếu phim của người Pháp, được xem là biểu tượng xa hoa của giới thượng lưu Sài Gòn khi đó, Nguyễn Thị Kim Dung mới chỉ 15 tuổi. Bà cùng ba nữ đồng đội thuộc tiểu đội Minh Khai mang theo lựu đạn giấu dưới đáy túi xách, cải trang phù hợp với khung cảnh rạp chiếu và lặng lẽ hòa vào dòng người vào xem phim.

Bốn người chia thành hai nhóm, len về phía trước khán phòng. Khi bộ phim vừa bắt đầu chiếu, Dung ném lựu đạn về phía cuối rạp, gây ra vụ nổ khiến 50 sĩ quan Pháp thiệt mạng.

Trong làn khói và cảnh hỗn loạn sau vụ nổ, họ dùng khăn tay tẩm nước hoa để lau tay, chải tóc, xóa đi dấu vết liên quan đến vụ đánh bom rồi nhanh chóng trà trộn ra ngoài cùng đám đông.

Tuy vậy, cả bốn người đều bị xác định có liên quan và bị bắt giam, tuyên án với mức phạt khác nhau. Sau nhiều lần kháng cáo, Dung được trả tự do và sau này trở thành giảng viên đại học.

Bên cạnh những hiện vật gắn liền với các câu chuyện riêng, bảo tàng còn dành một không gian cho tranh cổ động từ giai đoạn 19541986, cùng những vật phẩm thể hiện tinh thần đoàn kết của phụ nữ trên khắp thế giới với phong trào phản chiến tại Việt Nam.

Khi bước lên tầng cuối cùng, khu vực trưng bày về thời trang, có lẽ người xem đã gần như quá tải với lượng thông tin tiếp nhận suốt hành trình tham quan. Đây là lúc để dõi theo những màu sắc, chất liệu và họa tiết, quan sát cách phụ nữ thể hiện bản thân qua phục trang của 54 dân tộc, qua quy trình làm vải, nhuộm vải, qua những bộ áo dài thêu tay, trang sức bạc và các vật dụng thường ngày. 

Ngẫm lại, nếu có một điểm cần góp ý, thì đó là phạm vi trưng bày thường trực của bảo tàng vẫn chủ yếu xoay quanh những vai trò quen thuộc: phụ nữ trong gia đình, trong chiến tranh, trong các khuôn mẫu “truyền thống.” Vẫn còn vắng bóng những người phụ nữ làm điện ảnh, âm nhạc, văn chương, sân khấu, những người không mang súng ra chiến trường, không sinh con, không sống theo các vai trò giới đã được định sẵn.

Dù chưa thể bao quát hết mọi lát cắt, cách bảo tàng gìn giữ và kể lại những câu chuyện này vẫn cho thấy một sự chăm chút. Và chính sự chăm chút đó khiến mỗi hiện vật, mỗi câu chuyện ở đây có sức lan tỏa, làm hiện rõ vị trí của người phụ nữ trong dòng chảy lịch sử và văn hóa Việt Nam.

]]>
info@saigoneer.com (Govi Snell. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightTue, 28 Oct 2025 17:17:54 +0700
Ở Bảo tàng Chiến thắng B-52, lịch sử thủ đô cô đọng qua kỷ vật chiến tranhhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17209-ở-bảo-tàng-chiến-thắng-b-52,-lịch-sử-thủ-đô-cô-đọng-qua-kỷ-vật-chiến-tranhhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17209-ở-bảo-tàng-chiến-thắng-b-52,-lịch-sử-thủ-đô-cô-đọng-qua-kỷ-vật-chiến-tranh

Một khối kim loại khổng lồ đập ngay vào mắt tôi ngay khi bước chân qua cánh cổng.

Khối kim loại đó từng được mệnh danh là “pháo đài bay,” nhưng giờ đây nó chỉ là đống sắt vụn rỉ sét. Trông nó không khác gì cái xác của một con chim sắt khổng lồ, lớp da bong tróc, bộ xương phô ra. Thay vì được chôn cất tử tế, xác của con chim ấy bị những người đã bắn hạ nó tự hào đem đi trưng bày. Cũng dễ hiểu thôi, "con chim" ấy là một chiếc máy bay Boeing B-52 Stratofortress, và nơi tôi đang đứng là Bảo tàng Chiến thắng B-52.

Ngày còn bé, tôi được nghe người lớn kể những câu chuyện về máy bay B-52 và 12 ngày đêm “Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không” ở Hà Nội. Bố tôi từng là thực tập sinh ở Bệnh viện Xanh-Pôn khi máy bay B-52 ném bom thủ đô. Ông đã chứng kiến cảnh người ta nối đuôi nhau khiêng cáng vào, một khu dành cho người bị thương, khu còn lại cho xác chết.

Xác một chiếc B-52 bị bắn rơi trong "Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không.”

Về phần mình thì tôi không biết quá nhiều về giai đoạn lịch sử này của Hà Nội. Tất nhiên là tôi được dậy về nó ở trường, nhưng vì học vẹt nên mọi thứ bay sạch khỏi bộ não sau khi bài kiểm tra kết thúc. Tôi đã từng đi qua bảo tàng này nhiều lần, và hôm nay, tôi quyết định vào tham quan để ôn lại kiến thức.

Bảo tàng mở cửa lúc 8 giờ sáng, tôi đến lúc 9 giờ. Ở đây không có phòng bán vé như tôi tưởng, tôi cũng chả biết bãi đậu xe ở đâu. Tôi đành để con xe của mình bên cạnh một vài chiếc khác. Ngoài tôi ra, còn có một nhóm ba người nữa mà tôi đoán cũng là khách tham quan giống mình. Bất thình lình, một chiếc SUV màu đen với biển số đỏ lao qua cánh cổng rồi hiên ngang đậu ngay bên cạnh cái xác máy bay; từ trong xe có mấy bác trai mặc quân phục bước ra. "Chắc là đến đây để sống lại những ngày tháng huy hoàng," tôi nghĩ bụng.

Đuôi và động cơ của chiếc B-52.

Các bác ấy lấy ra một chiếc thước dây rồi bắt đầu bàn luận việc di chuyển chiếc B-52 ra chỗ này chỗ nọ. Tôi nhận ra rằng họ đang lên kế hoạch tu sửa bảo tàng; sắp sửa kỷ niệm 50 năm chiến thắng “Hà Nội – Điện Biên Phủ trên không”: 1972-2022. Nhóm ba người mà tôi thấy trước đó cũng không phải là khách tham quan mà là nhà thầu tiềm năng đến khảo sát địa điểm. Có vẻ như ở bảo tàng hôm đó chỉ có tôi là người quan tâm đến lịch sử.

Ngoài cái xác của chiếc B-52, khoảng sân của bảo tàng còn trưng bày các hiện vật khác, chủ yếu là vũ khí dùng để hạ máy bay Mỹ. Sáu khẩu súng phòng không cỡ nòng từ 14,5mm đến 100mm, một cái radar trinh sát, và hiện vật có vẻ là quý giá nhất: hai quả tên lửa SAM-2 đất đối không. Khác với chiếc B-52, tất cả những hiện vật này đều được bảo quản tốt. Là cánh mày râu, tôi cũng thích xem mấy khẩu súng to tướng này, nhưng chúng không cung cấp cho tôi thêm thông tin gì về các cuộc chiến. Tôi rảo bước tới tòa nhà chính của bảo tàng, lòng hy vọng có thể học hỏi chút gì đó.

(Trái) Một khẩu súng máy phòng không 14,5mm do dân quân nhà máy phân bón Văn Điển sử dụng. (Phải) Bệ phóng tên lửa SAM-2 do Tiểu đoàn 72 thuộc Trung đoàn 285 sử dụng để bắn rơi một chiếc B-52. Máy bay rơi xuống cái hồ ở đường Hoàng Hoa Thám.

Tầng một khiến tôi vô cùng thất vọng. Tôi đoán ý định của người phụ trách triển lãm là giới thiệu tổng quan về lực lượng dân quân Hà Nội, nhưng những hiện vật có vẻ thiếu liên kết và không thú vị. Ngoài một góc trưng bày ra thì không có mấy thông tin về chiến trận B-52. Tôi đi lòng vòng trong vô định cho đến khi nhìn thấy một tấm biển qua cánh cửa kính: “Triển lãm tiếp tục ở hướng này.” Mừng quýnh, tôi chạy ra cửa, có cầu thang lên tầng! Nhưng than ôi, cánh cửa lại bị khóa. Tôi thử tất cả các cửa khác mà mình thấy, nhưng không cái nào mở cả. Xung quanh cũng chẳng có nhân viên bảo tàng nào. “Chắc hôm nay không học được gì rồi,” tôi nghĩ và rời đi trong sự thất vọng.

(Trái) Phạm Thị Viễn của đội tự vệ Hoàn Kiếm. Đội của chị đã bắn rơi một chiếc F111A ngày 22/12/1972. (Phải) Phạm Tuân, phi công MIG 21, người bắn rơi máy bay B-52 ngày 27/12/1972.

Lúc ra sân, tôi tình cờ nghe được nhóm người nhà thầu hỏi một chị nhân viên rằng tầng hai có mở cửa không. Chị ấy khăng khăng là có mở, tôi chen ngang cuộc trò chuyện và xác nhận cửa vẫn còn khóa. “Vậy thì qua văn phòng hỏi cô Mai,” chị nói với chúng tôi rồi ra chỗ mấy bác quân nhân. Có lẽ mấy anh thầu cảm thấy như vậy hơi phiền vì họ đi về. Nhưng tôi thì không bỏ lỡ cơ hội này được. Tôi chạy ra văn phòng của bảo tàng, và mặc dù không tìm thấy cô Mai, nhưng có một nhân viên khác mở khóa cửa cho.

Cảm quan của tôi là tầng hai thú vị hơn rất nhiều. Ở đây có cung cấp kha khá thông tin hữu ích về cuộc chiến. Ngay qua cửa là mô hình ma nơ canh của Sở chỉ huy Phòng không Nhân dân Hà Nội, trước đây nằm ở số 4 phố Yec Xanh. Triển lãm có hiện vật của cả hai phe trong cuộc chiến: thiết bị của phi công Mỹ sau khi rơi máy bay và đồ đạc bị hư hại của người Việt trong trận không kích. Tôi nhìn lướt qua một lượt rồi theo chân chị nhân viên qua phòng kế bên.

(Trái) Ghế máy bay và dù của một chiếc B-52 bị bắn rơi. (Phải) Mô hình Sở chỉ huy Phòng không Nhân dân Hà Nội.

Bước một bước vào căn phòng mới, tôi đã bị choáng ngợp. Căn phòng trông giống như một phòng opera mini với những chiếc ghế dài dành cho khán giả, nhưng đối diện dãy ghế không phải là sân khấu mà là một cái sa bàn khổng lồ trải dài từ sàn đến trần. Sa bàn mô phỏng thành phố Hà Nội và các vùng lân cận trong cuộc chiến. Nào là mô hình súng, tên lửa và máy bay được bày trí rất chi tiết, cùng các đường bay được vẽ chằng chịt trên tường và trần nhà. “Đúng là người Việt mình rất thích sa bàn,” tôi nghĩ.

Những cái sa bàn tôi từng nhìn thấy trước đây đều không lớn như thế này, và hầu hết chúng đều bị hỏng khi tôi đến tham quan. “Cái này có hoạt động không ạ?” Tôi hỏi chị nhân viên ở đó. “Có chứ em,” chị trả lời, “em muốn xem không?”

“Vâng chị ạ!”

Chị ra quầy điều khiển và bật một loạt công tắc lên. Trên đầu tôi, không phải một, không phải hai, mà là ba chiếc máy chiếu bắt đầu khởi động. Giọng người thuyết minh vang lên từ những chiếc loa, nhưng trước khi tôi có thể nghe ông ấy nói gì thì mọi thứ chợt dừng lại.

“Chị xin lỗi nhé,” chị nhân viên nói, “Hình ảnh. giọng nói và mô hình phải khớp nhau cơ. Nó hơi khó chỉnh chút, mà chị không phải là kỹ thuật viên chính ở đây. Để chị thử lại nhé.” Chị mò mẫm thêm vài lần nữa nhưng vẫn không khớp được.

“Không sao đâu ạ,” tôi nói, “chị cứ để nó phát đi, được xem là em vui lắm rồi.” Chị nhân viên nghe thế nên có vẻ nhẹ nhõm và để tôi ở lại xem chương trình.

Một giọng thuyết minh trầm hùng bắt đầu kể lại “Chiến dịch Điện Biên Phủ trên không”. Hồi đó, Bắc Việt Nam có xích mích với chính quyền miền Nam Việt Nam và đế quốc Mỹ. Có một cuộc đàm phán hòa bình ở Paris, nhưng mọi thứ chẳng đi tới đâu. Chính quyền Nixon quyết định cách tốt nhất để đạt được hòa bình là tiếp tục thả bom.

Người thuyết minh kể: “Ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ Nixon chính thức phê chuẩn cuộc không kích chiến lược, chủ yếu sử dụng máy bay B-52, vào Hà Nội và Hải Phòng. Chiến dịch mang tên Linebacker II… Địch điên cuồng tiến hành chiến tranh hủy diệt với vũ khí B-52 hiện đại. Nhưng, với đường lối chiến tranh đúng đắn, và sự lãnh đạo tài tình của Đảng, của Hồ Chủ Tịch, từ lâu ta đã phán đoán âm mưu của địch. Tích cực chuẩn bị mọi mặt, sẵn sàng giáng trả những đòn sấm sét…”

Mặc dù lối diễn đạt mang đậm sắc tuyên truyền — thường thì khiến tôi buồn ngủ chứ không buồn nghe — nhưng người thuyết minh vẫn cung cấp nhiều thông tin quan trọng: “Vào lúc 19 giờ 20 ngày 18/12, hàng trăm chiếc B-52 bay vào vùng trời thủ đô, hàng trăm chiếc B52 bay vào bầu trời thủ đô Hà Nội, đánh vào khu vực các sân bay và một số địa điểm trong thành phố. Cả Hà Nội rực sáng trên không.”

Giữa tiếng máy bay rền vang phát ra từ chiếc loa, cái sa bàn bắt đầu trở nên sống động. Các mô hình lần lượt nhấp nháy đèn màu theo diễn biến cuộc chiến: máy bay Mỹ trên trần nhà có màu xanh, súng và tên lửa Việt Nam trên sàn nhà có màu đỏ, những điểm máy bay rơi được đánh dấu bằng đèn màu vàng. Mặc dù ánh đèn không khớp với lời thuyết minh nhưng màn trình diễn vẫn rất ấn tượng.

Không hiểu sao, độ lệch pha đó lại khiến tôi yêu thích màn trình diễn nhiều hơn, giống như là nét duyên ngầm ẩn sau một khuyết điểm vậy. Tôi say sưa ngắm nhìn ánh đèn nhấp nháy trong khi người thuyết minh dõng dạc liệt kê số máy bay người Việt bắn rơi trong mỗi ngày của chiến dịch. Người Mỹ nghỉ đánh một ngày vào lễ Giáng sinh rồi sau đó lại tiếp tục oanh tạc. Lần này máy bay ném bom đánh vào phố Khâm Thiên, một trong những khu vực đông dân cư nhất của thành phố. Có khoảng 300 người chết, số người bị thương nhiều hơn thế, và 2.000 ngôi nhà bị phá hủy.

(Trái) Một chiếc B-52 bị rơi gần huyện Thanh Oai. (Phải) Phạm Tuân (đỏ) bay qua máy bay Mỹ (xanh) để tấn công một chiếc B-52.

Cuộc không kích dừng lại vào ngày thứ 12, ngày 30/12/1972. Hai phe tiếp tục đàm phán tại Paris và đi đến ký kết hiệp định hòa bình vào cuối tháng 1 năm 1973, tức một tháng sau đó. Quân Mỹ rút khỏi cuộc chiến, chính quyền miền Nam Việt Nam mất đi chỗ dựa. Chiến trận tiếp diễn gần như ngay lập tức sau khi hiệp định hòa bình được ký kết. Rồi người thuyết minh tự hào tuyên bố Việt Nam hoàn toàn thống nhất vào mùa xuân năm 1975.

Rời khỏi phòng sa bàn, tôi bị lóa mắt vì ánh mặt trời. Đến lúc ra sân, tôi bị bất ngờ vì không gian trở nên đông vui khác hẳn lúc trước. Trẻ con chạy khắp nơi, có đứa đạp xe, đứa thì trèo lên xác chiếc B-52. Ông bà của các bé cũng đến nhưng chỉ ngồi nghỉ và trông cháu mình vui chơi. Hóa ra bảo tàng từ lâu đã trở thành không gian công cộng cho người dân sống quanh đây. Lòng tôi dâng trào niềm vui khi nhìn thấy nhịp sống thanh bình và vui tươi ngay tại nơi mà để tưởng niệm chiến tranh.

(Trái) Một bé gái đứng canh xe đạp của mình để bà mình (phải) đẩy em trai đi dạo.

Tôi ngồi xuống bên cạnh động cơ của xác máy bay và suy ngẫm về những gì mình đã thấy. Lúc trước, mấy anh nhà thầu bảo tôi rằng việc tu sửa sẽ chỉ bao gồm trát lại các vết nứt, cọ sạch chỗ rêu phong, và có thể là làm thêm cái mái che cho chiếc B-52. Dù họ làm gì đi nữa thì tôi chỉ mong không gian này vẫn sẽ là nơi để trẻ em đạp xe và người lớn đi dạo. Họ cũng nên gắn thêm biển chỉ tới phòng sa bàn; một chuyến tham quan ở đây sẽ thú vị hơn gấp bội so với những tiết học lịch sử trên lớp.

Bất chợt, trong tôi nổi lên một ý nghĩ. Trong cuộc không kích, bệnh viện Bạch Mai là một trong những nơi bị máy bay ném bom. Nếu bố tôi mà làm việc ở đó thay vì Xanh-Pôn, có lẽ tôi đã không có mặt ở đây ngày hôm nay. Tôi cảm thấy biết ơn sâu sắc khi được sống trong thời bình, và hi vọng rằng sẽ có một ngày, tất cả những vũ khí chiến tranh mà chúng ta đang có rồi sẽ, như cái máy bay kia, trở thành tàn tích của một quá khứ xa xôi.

Bảo tàng Chiến thắng B-52 tọa lạc tại số 157 đường Đội Cấn, Ngọc Hồ, quận Ba Đình.

Bài viết đăng tải lần vào năm 2022.

]]>
info@saigoneer.com (Linh Phạm. Ảnh: Linh Phạm.)In Plain SightTue, 26 Aug 2025 16:36:00 +0700
Chương ký ức đang lặng lẽ khép lại trên những trang báo cũhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17891-chương-ký-ức-đang-lặng-lẽ-khép-lại-trên-những-trang-báo-cũhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17891-chương-ký-ức-đang-lặng-lẽ-khép-lại-trên-những-trang-báo-cũ

Báo giấy đã là một phần quan trọng của tuổi thơ tôi, là người bạn mở ra ô cửa cho tôi phóng tầm mắt ra một thế giới đầy màu sắc, vốn lạ lẫm trong mắt trẻ thơ. Nhưng lúc này đây, khi bước ra phố, những người bán báo năm xưa dường như đã biến mất, những tờ báo cũng cuốn gói đi đâu trong phố xá ồn ào. Tôi ngỡ như một cuộc từ giã và chuyển mình trong thầm lặng đã và đang bắt đầu.

Đứng trước cơn lốc thời cuộc, báo chí bản giấy ngày càng vắng bóng trong đời sống chúng ta: biến mất khỏi những chiếc cặp táp của học sinh, sinh viên và người đi làm, rời khỏi những chiếc bàn cà phê sáng sớm trong nhà ngoài phố; co lại trong một vài sạp báo nhỏ còn bám trụ lại trên đường phố, tiếp tục đời sống âm thầm của mình với những vị khách quen ít ỏi.

Lược sử báo chí Việt Nam

Báo chí Việt Nam đã trải qua một hành trình dài với nhiều biến động. Trước năm 1975, báo chí chủ yếu phục vụ cho công tác thông tin, tuyên truyền và lan tỏa kiến thức đến cộng đồng, cũng như phần nào xây dựng những diễn đàn thảo luận về nhiều chủ đề khác nhau. Báo chí thời kỳ này còn nhiều hạn chế về số lượng phát hành. Sau năm 1975, báo giấy tiếp tục trở thành một trong những kênh thông tin chính yếu kết nối mọi miền đất nước. Những tờ như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, Phụ Nữ, Công An Nhân Dân không chỉ là nguồn tin tức, mà còn là diễn đàn văn hóa và xã hội sôi nổi.

Một quầy báo góc Tự Do-Nguyễn Văn Thinh năm 1969. Ảnh: Brian Wickham/Hội Nhà văn Việt Nam.

Báo chí len lỏi vào từng góc phố, theo chân những người bán báo dạo đi khắp hang cùng ngõ hẻm. Mỗi sáng, người ta đậu xe trước các sạp báo, hoặc ngồi vắt chéo chân trong quán, tay cầm ly cà phê, mắt chăm chú lật từng trang giấy còn thơm mùi mực.

Thế nhưng, bước sang thập niên 2010, với sự bùng nổ của Internet, báo giấy bắt đầu mất dần chỗ đứng, chỉ còn lại một vài sạp báo cũ kỹ và những người bán báo bám trụ với nghề.

Báo chí giấy, tuổi thơ tôi

Tôi lớn lên vào những năm 2000, khi báo giấy vẫn còn là nguồn thông tin chủ đạo, đặc biệt ở những tỉnh xa như Bạc Liêu quê tôi. Ở nơi đời sống diễn ra còn chậm rãi, các phương tiện truyền thông như TV, radio, báo chí và internet cùng tồn tại, nhưng báo giấy vẫn chiếm một vị trí quan trọng trong việc giúp người cập nhật tin tức hàng ngày.

Những tờ báo mà tôi mua khi ấy sẽ phải băng một hành trình dài gần ba trăm cây số từ Sài Gòn về Bạc Liêu bằng xe đò mỗi sáng sớm. Báo được chở về đại lý, sau đó ruột báo được lồng với trang bìa, trừ các ấn phẩm được đóng cuốn sẵn, rồi mới được phân phối cho những nhân viên phân phát của đại lý hoặc người bán dạo để đi khắp nơi trong thành phố và các huyện lân cận. Vì vậy, có khi đến quá trưa hoặc đầu giờ chiều, báo mới đến được tay người đọc.

Việc phân phối báo chí truyền thống bắt đầu từ trước khi mặt trời mọc, người đưa báo thường phải lồng từng tờ bằng tay. Nguồn ảnh: Báo Lao Động.

Thuở ấy, anh hai tôi thường mua tờ Mực Tím từ một ông cụ. Ông vốn là giáo chức trước năm 1975, sau giải phóng thì chuyển sang làm hành chính cho một hợp tác xã. Khi hợp tác xã giải thể, ông bắt đầu mưu sinh bằng nghề giao báo kiêm bán vé số dạo. Mỗi ngày, ông đeo trước ngực một chiếc túi to, đạp xe gần ba chục cây số để đưa báo và bán vé số cho khách quen.

Lần nọ, khi ông ghé nhà giao báo, tôi vô tình thấy tờ Nhi Đồng nằm lọt thỏm trong túi nhưng nổi bật giữa chồng báo nhờ màu sắc sặc sỡ. Từ hôm đó, trưa thứ Hai nào tôi cũng ngồi ở ngạch cửa, đợi tiếng cụ dừng xe trước nhà, dáng ông chầm chậm bước vào, lục tìm hai tờ báo dành cho anh em tôi.

Những số báo teen được trình bày cách điệu. Nguồn ảnh: Báo Phụ nữ Việt Nam.

Khỏi phải nói tôi đã luôn hồ hởi thế nào, khi đập vào mắt là những người mẫu ảnh nhí trên trang bìa và những tít bài được trình bày cách điệu xung quanh. Phải lật cuốn báo ra, lia nhanh từng trang một để xem tuần này có gì hay, bài gì mới, truyện ngắn nào được đăng, hay đáp án những câu đố của kỳ trước. Cảm giác ấy giống như một bí mật vừa được hé lộ, cảm giác của sự chờ đợi được đền đáp. Và đôi khi, phải len lén úp mặt vào trang báo mà hít một hơi thật sâu cái mùi giấy báo và mực in thơm khó tả, dù má luôn cấm tôi làm điều đó vì sợ bao nhiêu vi khuẩn từ nhà in trú ngụ trên giấy.

Sau này, tôi còn hứng chí xin ba má đặt thêm một loạt tờ, như Tuổi Trẻ nhật báo, Thanh Niên nhật báo, Tuổi Trẻ Cuối Tuần, Tuổi Trẻ Cười, Nhi Đồng đặc biệt, Mực Tím đặc biệt, v.v. Những tạp chí hay ấn phẩm phát hành hằng tuần, hằng tháng thường đi sâu vào một số chủ đề riêng, chủ yếu là tóm tắt hoặc phân tích lại các sự kiện đã qua. Còn với những tờ nhật báo, tin tức trong đó nhiều khi đến tay tôi đã trễ, vì buổi sáng tôi đã nghe hết cả qua chương trình thời sự trên TV. 

Vậy mà tôi vẫn thích mua và đọc. Những buổi chiều rảnh rỗi ở nhà, tôi thường ngồi vào bàn, mở tờ Tuổi Trẻ ra, rồi nhìn vào khoảng không trước mặt mà đọc thành tiếng từng bài một, bắt chước giọng của các phát thanh viên, như thể mình đang dẫn chương trình thời sự vậy.

Một thời gian sau, mối gắn kết giữa tôi và báo giấy bị đứt đoạn khi ông cụ phải ngừng bán báo vì sức khỏe suy yếu. Những người con của ông cũng đi bôn ba tứ tán lo kế sinh nhai. Không ai trong gia đình muốn tiếp nối nghề bán báo này.

Tái ngộ cùng cố nhân

Lên đại học, tôi gần như mất hẳn thói quen tìm mua báo giấy, dù chúng vẫn luôn lẩn khuất đâu đó quanh tôi — trốn trong tay bác bảo vệ trường đại học, hoặc hiện diện công khai trên kệ gỗ ngay cửa thư viện. Lúc nào chúng cũng kéo tôi dừng lại, lưỡng lự vài ba phút, để rồi cúi xuống lấy một tờ lên đọc, ngắm nghía từng bức ảnh, nghiền ngẫm những dòng chữ được sắp đặt cẩn thận trong lòng trang in.

Khi bắt đầu đi làm, tôi tậu được chiếc Wave và có thêm nhiều dịp để tự mình khám phá Sài Gòn. Những lần rong ruổi qua các hẻm hút ở thành phố, tôi tình cờ bắt gặp lại những sạp báo ven đường, nơi những tờ báo vẫn được bày ra đầy mời gọi, vẫn toát lên sức hút quen thuộc với tôi thuở trước. Một hôm, trên đường tan ca, tôi dừng xe trước một sạp báo nhỏ nằm trên đường Phạm Ngọc Thạch, ngay trước cổng trường Đại học Kinh tế TP. HCM. Đó là sạp của chú Hùng.

Sạp báo của chú Hùng trên đường Phạm Ngọc Thạch. Nguồn ảnh: Báo Phụ Nữ.

Sạp của chú Hùng tương đối nhỏ, chỉ gồm vài kệ báo dựng sát nhau kệ để giới thiệu với công chúng. Tuy vậy, sự hiện diện của nó — với màu sắc nổi bật của chồng báo và tác phong chậm rãi, từ tốn của người chủ — lại dễ dàng thu hút ánh nhìn của khách qua lại. Dường như nó tạo ra một sự tương phản rõ rệt với không gian quanh mình: một con phố ồn ào, vội vã, được lấp đầy bởi những cửa hàng hiện đại.

Chú Hùng kể với tôi rằng, trên con đường Phạm Ngọc Thạch này đã từng một thời sầm uất với hàng chục sạp báo khác nhau, nườm nượp khách đến mua. Dần dần, sau 25 năm hành nghề, giờ chỉ còn chú. Doanh thu cũng giảm nhiều vì số lượng khách ngày một ít đi. Dù vậy, chú vẫn bám trụ với công việc vì thích sự tự do, linh động của nó. Hơn nữa, dù tình hình của báo giấy có nhiều bi quan, chú vẫn có một lượng khách nhất định ở nhiều độ tuổi khác nhau. Những bác lớn tuổi hằng ngày vẫn đến sớm để mua những tờ báo quen thuộc. Một số bạn trẻ, học sinh sinh viên của các trường đại học gần đó, như Đại học Kiến trúc, thường tìm mua các ấn phẩm chuyên về thời trang, thiết kế, hoặc nghệ thuật thị giác để làm tư liệu tham khảo. Một số vị khác thì chọn những tạp chí chuyên ngành từ chú Hùng.

Sau buổi trò chuyện với chú Hùng, tôi rút ví mua mấy tờ để ủng hộ chú — toàn những cái tên quen thuộc mà tôi đã lâu không được cầm bản giấy: một số tờ thiếu nhi, một tờ biếm họa, và một tờ mà lần đầu tiên tôi thấy — một chuyên san dành riêng cho phụ nữ, phát hành vào Chủ nhật.

Dù thị trường báo giấy không còn sôi động như trước nhưng chú Hùng vẫn bám trụ với nghề. Nguồn ảnh: Báo Thanh Niên.

Những người bạn của tuổi thơ tôi vẫn đang khoác chiếc áo quen thuộc, khiến tôi dễ dàng nhận ra họ. Họ vẫn giữ logo quen thuộc sau bao nhiêu năm, vẫn ra mắt bạn đọc với khổ báo ấy và những màu sắc đặc trưng ấy. Nhưng bên trong tờ báo, mọi thứ đã thay đổi đáng kể. Những tờ thiếu nhi trước đây chỉ in màu một phần các trang, giờ đã in màu toàn bộ. Báo biếm họa ngày xưa in bằng giấy rất mỏng, giờ đã chuyển sang dùng giấy bóng. Những bài viết mới vẫn được trình bày một cách kỹ càng để thu hút sự chú ý của người đọc, nhưng nội dung của chúng dường như quá xa lạ với tôi.

Tờ cuối cùng trong chồng báo mà tôi mua về hôm ấy là một chuyên san phát hành vào Chủ nhật, dành riêng cho phụ nữ. Đọc qua từng bài, tôi cảm nhận được tinh thần năng động và đổi mới của các tác giả, cũng như mong muốn của họ trong việc xây dựng những nội dung có chiều sâu và ý nghĩa. Nếu ta hình dung mỗi tờ báo có một giọng nói riêng, thì chuyên san này mang một giọng nói mạnh mẽ, cấp tiến, thách thức những rào cản, khuôn mẫu, kêu gọi đấu tranh cho hạnh phúc và công bình của mỗi cá nhân trong xã hội.

Tôi đã hạnh phúc biết bao vì tìm ra được một tờ báo thật hay, có dấu ấn riêng, hứa hẹn sẽ làm tôi phải tìm mua mỗi tuần — như thể vừa kết được một tri kỷ mới cho hành trình bầu bạn tri thức sắp tới. Cho đến khi tôi lật đến bìa 3 và đọc được một dòng lạnh ngắt: Ấn phẩm ngừng xuất bản từ tháng 1/2025. Không có một lời giải thích nào thêm được đưa ra về sự kết thúc của ấn phẩm đã có mặt 28 năm, phát hành khắp cả nước gần 50.000 bản mỗi kỳ. 

Rất nhiều ấn phẩm in lâu đời đã phải nói lời tạm biết độc giả. Nguồn ảnh: Báo Phụ Nữ Chủ Nhật.

Trong khoảnh khắc ấy, tôi nhận ra rằng, cuộc gặp gỡ này đã diễn ra quá trễ. Niềm vui mà tôi chưa kịp nắm lấy đã trôi khỏi tầm tay.

Còn chút gì để nhớ

Hai tuần sau, tôi ra lại sạp chú Hùng để mua tờ cuối cùng của chuyên san ấy. Chú bảo báo đã ngừng in nên không lấy nữa. Tôi đánh bạo gọi về Phòng Phát hành và được hướng dẫn lên tòa soạn ở đường Điện Biên Phủ. May thay, nơi ấy vẫn còn dư một vài bản. Ban biên tập dành trọn vẹn trang 3 của số cuối cùng để đăng lời chia tay bạn đọc. Câu từ được viết với tất cả tình cảm, cẩn trọng và đầy sự dứt khoát.

“Cũng là tất yếu, vạn sự làm sao có thể thoát khỏi quy luật thiên địa tuần hoàn? Nếu có thể đốt mình để trở về với một phiên bản khác mới mẻ hơn, đẹp đẽ hơn cũng là điều đáng làm. Điều khó khăn nhất của chúng ta, nhất là phụ nữ, không phải là từ bỏ những thói quen và vượt qua những giới hạn đó sao? [...] xin chào tạm biệt với lời cảm ơn chân thành gửi đến những độc giả thân thương, những cộng sự cần mẫn đã đem đến rất nhiều bài viết chỉn chu, thú vị, bổ ích. Nhất định chúng ta sẽ gặp lại, nhận ra và thương yêu nhau như đã từng.”

Một khi được in ra, báo giấy không thể tự động thay đổi nội dung,
nhưng cũng vì vậy mà nó đóng vai trò như một chứng nhân lịch sử. Nguồn ảnh: Báo Lao Động.

Những lời từ biệt ấy lại làm tôi hồi tưởng về những ngày gặp gỡ đầu tiên của tôi và báo giấy. Là một đứa trẻ lớn lên ở tỉnh lẻ, lọt thỏm giữa một vùng quê nhỏ đầy khó khăn, một trong những nguồn thông tin quý giá nhất mà tôi có được chính là từng tờ báo giấy, từng tờ tạp chí tôi có được. Những tờ báo ấy đã làm công việc của những chiếc cửa sổ — hé mở cho tôi thấy những điều xảy ra trong thế giới rộng lớn ngoài kia, những điều mà tôi đọc chưa chắc đã hiểu, nhưng phần nào giúp tôi mường tượng được về sự phức tạp mà cũng đầy thú vị của xã hội. Những trang giấy mỏng ấy đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi, và chắc hẳn đã phần nào truyền cảm hứng cho tôi trên hành trình viết văn sau này.

Một khi được in ra, báo giấy không thể tự động thay đổi nội dung theo dòng sự kiện, như cách mà báo mạng liên tục cập nhật. Nhưng cũng vì vậy mà tôi vẫn thương báo giấy, bởi nó đóng vai trò như một chứng nhân lịch sử cho những điều đã diễn ra ở thời điểm nó xuất hiện.

Chú Hùng nói với tôi, chú nghĩ báo giấy sẽ không biến mất ngay lập tức, nhưng sẽ ít đi dần dần. Dòng sông sẽ không cạn trơ đáy trong chớp mắt; nước dù yếu đi sẽ vẫn chảy, vẫn tìm cách luồn qua những rạch ngòi nhỏ hẹp. Báo giấy lúc này và sắp tới chắc cũng giống mạch nước ấy. Chúng sẽ vẫn tiếp tục hành trình kể chuyện với những vị khách quen, và biết đâu, may mắn hơn, là có thêm những người bạn mới, tuy không nhiều mong đợi.

Chú tài xế đọc báo sáng trên chiếc xích lô ở TP. Mỹ Tho. Nguồn ảnh: Báo Ấp Bắc.

Trong khi những người bán báo đang trở nên bi quan về tình hình phát hành và dần chấp nhận thực tại, một vài chùm sáng cuối đường hầm đang lóe lên khi có những chỉ báo về sự trở lại và chuyển mình của một số tạp chí. Tôi không biết mình có thể làm gì hơn vì ngày mai khó mà đoán định được. Nhưng tôi chắc rằng, mỗi lần đi ngang sạp chú Hùng hay bất kỳ sạp báo giấy nào trên đất nước này, tôi sẽ cố gắng dừng lại và mua một tờ nếu có thể.

]]>
info@saigoneer.com (Minh Phát. Ảnh bìa: Dương Trương.)In Plain SightSun, 15 Jun 2025 15:50:00 +0700
Bài tụng ca cho chò nâu Sài Gònhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17508-bài-tụng-ca-cho-chò-nâu-sài-gònhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17508-bài-tụng-ca-cho-chò-nâu-sài-gòn

Nơi tôi từng sống thời tiết quá lạnh, chò nâu không thể mọc, tuy vậy nó vẫn có tên tiếng Anh: dipterocarp.

Nơi tôi từng sống thời tiết quá lạnh, chò nâu không thể mọc, tuy vậy nó vẫn có tên tiếng Anh: dipterocarpDipterocarp. Xướng nó lên đi. Xướng to lên. Dipterocarp. Làm vậy sẽ khiến cho những chuyển động của môi, lưỡi trở nên mềm mại hơn, và hàng nghìn cơ, dây chằng, tế bào trở nên uyển chuyển hơn chăng? Việc này đơn giản hơn nhiều so với những nỗ lực mà các cây đại thụ phải làm để hút nước vào rễ rồi đưa lên tận tán lá.

Khi tản bộ trên những đường phố Sài Gòn, người ta chỉ thấy thân cây chò nâu tẻ nhạt và một tán lá sum suê cao 30 mét nếu ngước cổ lên nhìn. Nhưng vòi vọi trên cao là những cành nhánh thanh mảnh lúc lỉu hoa trắng có phơn phớt tí hồng mềm mại như tiếng thì thầm của những cánh bướm. Bạn chưa hề nhìn thấy những thứ như vậy. Cây chò nâu như thể đang nói với chúng ta: những cánh hoa mỏng manh của ta không dành cho các người; cách thưởng thức phàm phu sẽ làm hỏng chúng đi.

Nhưng thân cây chò nâu đâu có tẻ nhạt. Rãnh, vảy, vỏ cây vằn vện và đa sắc: một lớp vỏ phức tạp không khác chi một vùng châu thổ giàu trầm tích, đất bùn và các chủng loài. Khi thật lòng nhìn ngắm bạn sẽ thấy thân chò nâu đẹp như một cây tảo nở hoa hay quá trình sinh sản của loài tôm tép, sao bạn lại không thể nhận ra vẻ đẹp của nó chứ?

Jean-Baptiste Louis-Pierre chào đời ở đảo Reunion nằm ngoài khơi xa của Madagascar, con trai của một gia đình làm giàu từ đường mía. Nhưng rồi công việc làm ăn thất bát khi chính quyền bắt đầu trả tự do cho các nô lệ làm công tại các đồn điền. Louis-Pierre vì vậy đành phải bỏ học, trôi nổi qua nhiều vùng thuộc địa rồi cuối cùng trụ lại ở Sài Gòn, nơi ông thể hiện gu thẩm mỹ Châu Âu bằng cách viền các con đường bằng hai hàng cây chò nâu mà ông tích cóp được từ vùng cao nguyên nhằm mục đích bảo vệ làn da nhạy cảm của người Pháp, đồng thời thưởng lãm thiên nhiên của vùng đất thuộc địa.

Những con số được xịt bằng sơn trắng trên mỗi thân cây chò nâu trong thành phố giúp nhà nước nhận ra cây nào cần tỉa nhánh để lớn mạnh hoặc cây nào cần đốn bỏ để rễ của chúng không làm hỏng cấu trúc lề đường hay phá vỡ ống nước ngầm.

Cây #11: Chò nâu ở Sài Gòn có tuổi đời cao hơn dây cáp điện thoại, hơn cả máy cưa xích, hơn cả ny-lông, nhựa tổng hợp và thuốc kháng sinh penicillin. Cao tuổi hơn cả xe gắn máy, trà sữa trân châu, bánh tráng nướng, hơn cả chụp ảnh “tự sướng,” hơn cả phi cơ và thuốc khai hoang được rải từ máy bay.

Cây #152: Khi có xảy ra nổ súng ở các khu vực, thân cây chò nâu là bia chắn đạn cho các chiến sĩ. Bóng mát từ cây chò nâu xoa dịu nỗi đau nơi những tòa cao ốc bị tàn phá, những con đường bị bom đạn, những cơ thể be bét. Chúng hiện diện ở đấy làm nền cho những đoạn phim tài liệu. Ấy vậy mà chẳng ai thèm để mắt đến chúng.

Cây # 78: Chò nâu Sài Gòn non tuổi hơn chuông gió, hơn pháo hoa, diều, xích lô và thịt nướng xiên que. Nó cũng trẻ tuổi hơn áo dài, rượu nếp và cồng chiêng, trẻ hơn cả việc tản bộ một mình lúc nửa đêm, đang cảm thấy thương thân tủi phận thì ngước nhìn lên chợt thấy lòng thanh thản trong cái mênh mông của thiên nhiên.

Cây #187: Trong những vùng có mùa màng ổn định, chò nâu đơm hoa kết trái đúng mùa, nhưng với khí hậu vô chừng của Sài Gòn, chu kỳ này rất lộn xộn, có lẽ không hơn một lần mỗi mười năm, cành nhánh bung ra những hạt có hai cánh xòe bay lượn xuống như những bông tuyết siêu thực.

Cây #45: Ngày mồng một Tết, hoa giấy vướng trong những cái rễ nằm phơi trên mặt đất như nhạc trôi bềnh bồng trên một vịnh nước. Concerto của một rạn san hô là gì? Tết đối với chò nâu có ý nghĩa ra sao?

Cây #123: Hãy tưởng tượng những vòng gỗ bên trong thân cây. Chúng không giống chút nào với những vòng vàng mà người bán chả cá trên đường Tôn Thất Đạm đeo trên tay chỉ vì tin rằng giữ của trên tay mình an toàn hơn gửi tiền ở các ngân hàng; chẳng hề giống với những vòng khói thuốc lào rít trong giờ rảnh rang ở bến xe đò trước khi lái đường trường về lại miền cao nguyên; cũng không giống các vòng xoay giao thông nơi Đức thánh Trần Hưng Đạo đắc thắng chỉ tay về phía bờ biển được linh hồn Ngài phù hộ.

Cây #7: Nước có lẫn các dung dịch hữu cơ: ure, bã thải từ thận, axit uric, tinh bột, nội tiết tố, axit béo, sắc tố, chất nhầy, các phân tử vô cơ bao gồm natri, kiềm, muối, magie, chất vôi, amoniac, sulfat và phosphat... — sau 7 lon bia với một đoạn đường dài phải cuốc bộ, tôi lấy làm biết ơn quan điểm của thành phố về việc tiểu tiện nơi công cộng và cảm thấy vinh dự vì một số chất trong cơ thể của mình sẽ ngấm qua đất, thấm vào rễ cây, chuyển lên các gân lá và cung cấp dinh dưỡng cho một tí đầu lá.

Cây #61: Phụ nữ ngày nay không còn nhuộm răng đen, người ta không còn chèo đò qua sông. Những chiếc cầu không nối được hai bờ um tùm cây cối. Những lõi cây trưng bày vòng tuổi ở đường Tôn Thất Đạm trông giống như vân ngón tay bị tước mất xúc giác. Tôi đứng cạnh một lõi cây như một nhành ma và cảm thấy nhói đau như cái đau của một bóng mát đã bị lãng quên.

Cây #154: Để trồng một cây chò nâu, phải bỏ đi phần cánh hoa chò rồi ngâm hạt trong nước khoảng một-hai giờ; ươm hạt dưới một lớp đất mỏng đã được bón phân; trong vòng ba-bốn ngày hạt sẽ nẩy mầm; một năm sau cây sẽ mọc cao 1 mét; trong ba-bốn năm đầu chò nâu thích bóng râm sau đó thì hợp với nắng ở phần đời còn lại; trong suốt quá trình này cây chò nâu có thể cao lên đến 40 mét; nó có thể sống lâu hơn bạn và những người thân yêu của bạn.

Cây #36: Để lấy nhựa chò nâu, người ta phải khoan một lỗ nhỏ rồi để nhựa tiết ra dần, giống như nắm tay của một đứa trẻ hé mở từ từ trong giấc ngủ.

Cây #42: Chò nâu được dùng làm nước sơn, dầu bóng, keo dán, giỏ xách, thùng/hộp, ván ốp tường, mồi nhen lửa, mực in, thuốc đuổi côn trùng, thuốc nhuận trường, thuốc lợi tiểu, chất kích thích, thuốc sát trùng, than đốt, chất giữ mùi thơm, thuốc nhuộm răng đen và cao để trét tàu bè ngăn thấm nước.

Cây #167: Thực vật biểu sinh bám vào thân cây chò nâu bằng cách len vào các kẽ ngách trên thân cây. Loại thực vật chỉ hút không khí và ăn sương mà sống này chẳng làm hại cũng chẳng mang lợi gì cho cây chò nâu, giống như những con hà bám trên thân cá voi hay một người trung bình sinh sống trong xã hội.

Cây #99: Tuyên ngôn của chò nâu là quang hợp và hô hấp, rễ và rễ giả, nhựa và phấn. Kẻ phát ngôn này mạnh mẽ kinh khiếp và không hề biết thế nào là nản chí.

Cây #58: Do thôi thúc từ khao khát phi lý muốn sở hữu một con khủng long thời thơ ấu, gần đây tôi đã mua một con chim. Đó là một con vành khuyên Nhật Bản. Bộ lông xanh lục đầy sinh lực của nó sẽ làm bẽ mặt nỗi thèm khát quang hợp của chò nâu. Sau sáu ngày phẫn nộ vùng vẫy gieo mình vào các thanh chắn của chiếc lồng, nó thoát. Tôi quan sát với tất cả niềm vui sướng. Mong cho nó tìm được đường vào sở thú: hi vọng duy nhất của nó là gặp một cây chò nâu để bình an sà xuống đậu.

Cây #211: Họ làm như vậy khi cả thành phố đã ngủ say để không ai để ý, nếu không họ sẽ bị phân tâm trong việc họ đang làm. Ôm cây là một hình thức giao cảm giữa con người và thực vật, chứ không phải để bày tỏ. Nhà nước để ý, chờ lúc cần can thiệp, nhưng mà, làm như vậy thì có gì sai chứ?

Cây #103: Tựa lưng vào thân cây chò nâu, một ông trần trùng trục đang ngủ giữa ban ngày, cạnh cánh tay có một ống kim tiêm. Chò nâu thì biết gì về nghiện ngập? Chúng ta có thể tìm thấy điều tương tự nơi loài cây này chăng, trong cái cách nó khát nước từ lòng đất, trong cái cách lá cây đói thán khí, trong cái cách chò nâu thèm thụ phấn?

Cây #121: Nhà nước đã chọn một số cây chò nâu để dẹp bỏ đi vì lợi ích của hạ tầng cơ sở. Không biết số cây còn lại là bao nhiêu. Bứng rễ một con người có dễ dàng hơn chăng? Như Quế Mai, bạn của tôi, đã nói: “Hãy hớp lấy từng cơn gió nhẹ… hãy học cách ươm cây… hãy rùng mình để nở… hãy đơm quả từ những nhành rễ đang rớm máu của ta.” Là một người được sinh ra và lớn lên ở một vùng đất không có chò nâu, tôi tin rằng điều này khả dĩ.

Cây #6: Trong khi tản bộ xuống đường Lê Duẩn, tôi chợt thấy một thác hoa chò đổ tuôn sau một trận gió hè. Những quả hạch bay vòng vèo xuống rồi đáp trên nền bê-tông. Vô phương bám rễ, những cánh hoa xuội lơ, giống như vây cá voi sát thủ yếu quặt vì bị giam cầm. Có một thứ gì đó trong tôi cũng tả tơi như thế.

Bài viết được đăng tải lần đầu vào năm 2021 và chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi Trần Thị NgH cho tạp chí Da Màu.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Vẽ minh họa: Hannah Hoàng. Ảnh: Kevin Lee. Chuyển ngữ: Trần Thị NgH.)In Plain SightSun, 04 May 2025 15:00:00 +0700
Thủy cung lớn nhất Hà Nội và kho tàng kiến thức ‘có nhưng không đáng kể’https://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17674-thủy-cung-lớn-nhất-hà-nội-và-kho-tàng-kiến-thức-‘có-nhưng-không-đáng-kể’https://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17674-thủy-cung-lớn-nhất-hà-nội-và-kho-tàng-kiến-thức-‘có-nhưng-không-đáng-kể’

Tôi là một fan cứng của các công trình thủy cung công cộng. Với nhiều người, thủy cung có lẽ là nơi duy nhất để chiêm ngưỡng sự đa dạng của hệ sinh thái đại dương (ngoài chợ cá và nhà hàng hải sản).

Một số nghiên cứu cho thấy việc ngắm nhìn cá bơi lội có thể giúp giảm căng thẳng và hạ huyết áp. Hình ảnh sinh vật biển được tự do tung tăng trong làn nước — môi trường sống (tuy chỉ là mô phỏng) của chúng — cũng góp phần truyền cảm hứng cho công chúng quan tâm hơn đến công cuộc bảo tồn chúng trong tự nhiên. Thủy cung giúp các nhà sinh học quan sát hành vi của các loài động vật mà trong tự nhiên rất khó để theo dõi. Việt Nam cũng có vài thủy cung công cộng: Viện Hải Dương Học và Thủy cung Trí Nguyên ở Nha Trang, bên cạnh các thủy cung thuộc hệ thống Vinpearland tại Hà Nội, Phú Quốc và Nha Trang, v.v. Khi thủy cung mới nhất của Việt Nam mở cửa vào cuối hè năm ngoái, đương nhiên tôi phải khăn gói đến chơi rồi!

Tọa lạc tại tầng hầm của Trung tâm Thương mại Lotte World cạnh bờ Hồ Tây, thủy cung Lotte World có quy mô vô cùng ấn tượng: đây là thủy cung trong nhà lớn nhất Hà Nội (vượt xa thủy cung ở Times City), thủy cung có touch tank (bể tiếp xúc) lớn nhất Việt Nam (thể tích 90 tấn), và hồ cá cong lớn nhất ở Đông Nam Á (18m x 5,8m). Thủy cung có tổng diện tích hơn 9.000m vuông và bao gồm 67 hồ, với sức chứa tổng cộng 3.400 tấn nước. Thủy cung là nhà của 31.000 cá thể thuộc khoảng 400 loài từ môi trường nước ngọt và mặn trên khắp thế giới. Rồi, số liệu khô khan đã kể xong, giờ chúng ta nhảy tùm vào những thứ hay ho hơn nhé.

Bạn sẽ mất chút thời gian để tìm đến cửa thủy cung vì phải đi qua khu vực mua sắm chính. Có nhiều mức giá riêng biệt cho trẻ em và người lớn, cho các ngày trong tuần và cuối tuần, và cho người Việt Nam và người nước ngoài. Giá thấp nhất (trẻ em Việt Nam vào ngày thường) là 190.000 đồng và cao nhất (người nước ngoài vào cuối tuần) là 500.000 đồng. Số tiền mà bạn phải trả sẽ rơi vào giữa khoảng đó. Tôi là người Mỹ, nhưng vì biết nói chút tiếng Việt nên đã được bạn nhân viên tốt bụng bán cho giá vé của người Việt Nam, hoan hỉ vô cùng. Hồ cá mở cửa mỗi ngày từ 9:30 sáng đến tận 10:00 tối, nên ngay cả các “cú đêm” cũng có thể ra khỏi nhà vào tối muộn để thăm thú đại dương thu nhỏ nhé.

Thủy cung Lotte World được chia thành bốn khu vực tham quan theo chủ đề: Làng quê yên bình, Dạo bước trên biển, Thám hiểm biển xanh và Quảng trường đại dương. Các hạng mục trưng bày của thủy cung được sắp xếp theo thứ tự tuyến tính; tức khách tham quan sẽ đi từ điểm đầu là A đến điểm cuối là B, bắt đầu từ bể nước đầu tiên và kết thúc ở cửa hàng quà tặng. Chủ đề của thủy cung là một hành trình “từ núi xuống biển.” Khách tham quan bắt đầu tại một ngôi làng miền cao và xuôi theo sông ra biển, qua rạn san hô và hòa vào đại dương, điểm hẹn cuối hành trình là một quán cà phê và cửa hàng lưu niệm. Ngay từ cổng vào có vẻ đậm âm hưởng văn hóa Việt Nam: huyền thoại về Cá Ông được kể bằng đoạn hoạt hình ngắn về một ngư dân, con gái ông, chiếc nón, và chú cá voi.

Là một nhà sử học nghiên cứu về lịch sử đại dương học và ngư nghiệp Việt Nam, khía cạnh tôi quan tâm nhất về một thủy cung chính là khả năng giáo dục khách tham quan về môi trường thủy sinh và mối quan hệ của người Việt với nó. Nhưng tôi đã thất vọng vì những gì mình thấy. Các bể cá có quy mô cực kỳ ấn tượng, nhưng chỉ giới thiệu chung chung chứ thực không thể hiện được những yếu tố đặc trưng của môi trường Việt Nam. Ngoại trừ một đền cá ông ở khu “Dạo bước trên biển,” nhân vật cá ông hầu như bị bỏ quên.

Khu vực đầu tiên là Làng quê yên bình, nơi trưng bày các loài thủy sinh nước ngọt từ khắp nơi trên thế giới. Từ một ngôi làng miền cao, có nhà sàn gỗ xây trên mặt hồ bên rừng tre, khách tham quan sẽ đi theo một “con suối” từ núi xuống biển. Bên dưới mặt hồ là các loài cá nước ngọt từ khắp nơi trên thế giới: một số loài cá rô phi Nam Mỹ, cá tai tượng trưởng thành, cá hổ, và cá trê đuôi đỏ. Một căn phòng mô phỏng rừng nhiệt đới được tô điểm bởi các hồ cá nhỏ màu xanh lá cây xây chìm vào bê tông, trưng bày các loài cá mà bạn có thể dễ dàng mua ở cửa hàng thú cưng: cá tetra, cá tai tượng mini, cá thần tiên, cá đĩa và cá vàng. Liên quan đến môi trường Việt Nam chỉ có duy nhất “đường hầm” sông Mê Kông, cũng là bể cá lớn nhất trong khu vực trưng bày. Trong đó, khách tham quan có thể thấy một số loài cá nước ngọt của vùng Đông Nam Á: cá trê khổng lồ sông Mê Kông, cá bông đậu, cá trê basa, và cá hải tượng long — một loài ngoại lai được nhập vào Việt Nam để phục vụ bộ môn câu cá giải trí. Bể cá chính là hạng mục nổi bật nhất ở Làng quê yên bình. Gây ấn tượng về mặt thẩm mỹ, được thiết kế khoa học, và giới thiệu kỹ lượng tính đa dạng sinh học của vùng Mê Kông.

Sau khu trưng bày Làng quê yên bình, khách tham quan sẽ đến khu Dạo bước trên biển; theo tôi, đây là phần thú vị nhất của toàn bộ thủy cung. Các hạng mục trưng bày ở đây bao gồm một mô hình rừng ngập mặn, một “bãi biển” và một touch tank lớn nơi khách tham quan có thể trực tiếp chạm vào nhiều loài sinh vật biển khác nhau. Các bờ biển của Việt Nam trước đây đã có rừng ngập mặn lớn, bảo vệ bờ biển khỏi thiệt hại từ bão và là môi trường của nhiều loài sinh vật biển quan trọng của Việt Nam. Ngày nay, những khu sinh học quan trọng nhưng dễ bị tổn thương này đang bị hủy hại dưới tác động của ngành bất động sản và chăn nuôi tôm.

Tôi đánh giá cao việc thủy cung ít nhất cũng có một khu trưng bày và biển thông tin để nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của rừng ngập mặn, đặc biệt vì ở đây cũng có loài vật mà tôi thích nhất: loài sam biển hết sức ngoan xinh yêu. Tại touch tank, nhân viên của thủy cung sẽ giám sát khách tham quan khi tiếp xúc với các cá thể cua cạn và sao biển. Còn ở bãi biển, khách tham quan có thể thấy cá vược, cá hồng vàng, cá hòa bình, và các em cá mập mèo — vốn vẫn hay lượn lờ cạnh khách du lịch ở các bãi biển trên khắp Việt Nam. Phía trên bãi biển là một mô hình đền cá ông, để nhắc nhở khách tham quan rằng khu vực này đại diện cho một lát cắt của hệ sinh thái Việt Nam.

Sau bãi biển là khu vực tham quan ảo diệu nhất: một rạn san hô được chiếu sáng bởi đèn huỳnh quang và ánh sáng đen. Các bể nước được xây theo kiểu âm tường, mỗi một bể lại sở hữu một rạn san hô nhiệt đới thu nhỏ. Cá mặt hề, cá sư tử, cá nóc hòm, cua trang trí, cá dao cạo, và những loài cá sặc sỡ khác được trưng bày trong những hộp châu báu. Gần như tất cả các loài sinh vật biển trong các bể cá này đều đến từ vùng biển Ấn Độ Dương-Tây Thái Bình Dương nhiệt đới. Do đó, dù không có biển hiệu nào ghi rõ nhưng ta có thể ngầm hiểu rằng phần lớn khu vực Thám hiểm biển xanh đại diện cho hệ sinh thái san hô của Việt Nam. Sự đa dạng của hệ sinh thái san hô Việt Nam đang dần biến mất trước ảnh hưởng của việc khai thác du lịch và ô nhiễm môi trường, vì vậy cơ hội được chiêm ngưỡng loài vật này là rất quý giá. Ai là fan của phim Đi tìm Nemo vào đây chắc chắn sẽ thích mê.

Ẩn sau lối đi ở đây, khách tham quan có thể nhìn vào một số phòng nghiên cứu/chăm sóc động vật của thủy cung, cũng như một không gian giáo dục gọi là Lớp Hải Dương Học. Khi đi ngang qua, tôi thấy lớp học hoàn toàn trống trơn, nhưng lòng tôi vẫn nhóm lên hy vọng rằng các đoàn tham quan từ trường học, hoặc các lớp học hè, nếu có cơ hội, có thể ghé thăm đây để hiểu thêm một chút về môi trường biển và cách chăm sóc động vật thủy sinh trong điều kiện nuôi nhốt. Mặc dù tôi chẳng bao giờ thấy nó được sử dụng, sự hiện diện của một không gian giáo dục khiến tôi đánh giá Thủy cung Lotte World cao hơn bất kỳ thủy cung nào ở các khu phức hợp nghỉ dưỡng. Một vài phòng trưng bày đã khiến tôi phải tò mò: một phòng có dàn loa phát ra âm thanh của các loài động vật biển để các vị khách biết rằng đại dương không hề im lặng, một phòng khác lại cung cấp các thông tin về tình hình ô nhiễm nhựa ở đại dương. Tôi dành một chút thời gian tại mỗi phòng này, lắng nghe tiếng hát của cá voi, một số khách tham quan khác xung quanh tôi cũng đứng lại một lúc như thế.

Khu vực Thám hiển biển xanh là nhà của bể cá lớn nhất tại Việt Nam. Tiêu điểm của khu vực này là mô hình của một con tàu buồm kiểu Tây chìm dưới đáy biển, được bao quanh bởi cát và đá. Ngập lặn trong bể là cá đuối, cá vược và cá hồng, với một số cá vược Napoleon lớn, cá mú, cá đuối và cá mập. Các cá thể cá mập đều là các cư dân quen thuộc của các thủy cung nhiệt đới — cá mập ngựa vằn, cá mập vây trắng, và cá mập vây đen. Các loài sống trong bể cá đến từ Thái Bình Dương Nam, và các con tàu buồm phương Tây đã buôn bán trong Biển Đông trong hàng thế kỷ, vì vậy khu trưng bày này có thể đại diện cho một vụ tàu đắm ngoài khơi bờ biển Việt Nam. Một hầm nước đi qua đó, và một cửa sổ bên trong vụ đắm nhìn ra mênh mông của biển xanh. Cá mập là điểm thu hút chính ở đây, nhưng chỉ cảnh quan bể cá để lại ấn tượng thú vị.

Khu vực này cũng có một gian phòng tối chứa ba bể cá kriesel lớn, một loại bể cá chuyên dụng được thiết kế dành cho những sinh vật thân mềm, trôi tự do như sứa mặt trăng. Các bể cá kriesel được lặp đặt riêng biệt để khách tham quan có thể đi dạo quanh từng bể, ngắm nhìn cận cảnh từng con sứa, hoặc nhìn tổng thể cả khu vực từ xa. Thủy cung thường che chắn các bộ lọc, máy bơm và các thiết bị hỗ trợ khác, nhưng đây không phải là tiêu chuẩn chung: các thủy cung công cộng hiện đại đầu tiên ở Anh và Pháp được xây dựng với lối kiến trúc mở — các ống dẫn nước, máy bơm, v.v. đều “lộ thiên” để thể hiện sự kỳ công của kỹ thuật xây dựng. Tuy những khu vực còn lại của thủy cung đều che chắn kín mít, công nghệ bể cá kriesel là đã đủ khiến người đam mê công nghệ phải phát cuồng. Thật sự phải nói, thiết kế của phòng trưng bày này quá đẹp, đến mức có nguy cơ trở thành một địa điểm check-in sống ảo cho dân tình dùng TikTok hoặc Instgram, khiến mục đích thực sự của nó bị bỏ quên: là một nơi dừng chân để chào hỏi người họ hàng xa xôi và lâu đời nhất của chúng ta, một nơi để suy ngẫm về quãng đường mà con người đã đi được từ khi còn là những sinh vật đơn bào trôi lênh đênh trong làn nước biển thời tiền sử.

Quảng trường đại dương, khu vực tham quan cuối cùng, rộng hơn so với ba khu vực trước đó. Nơi đây được trang bị một cửa sổ quan sát với ghế ngồi dạng sân vận động, cùng một quán cà phê để khách tham quan nán lại một chút, ngắm nhìn các loài cá và suy ngẫm về đại dương. Quảng trường đại dương cũng là nơi các vị khách được được xem các em sư tử biển vẫy vùng và các em chim cánh cụt vô tri qua lại quanh mấy tảng đá. Các nhân viên sẽ thuyết minh về công việc chăm sóc động vật tại đây cho những vị khách muốn tìm hiểu, lịch trình các “buổi học” và các buổi cho cá ăn sẽ được đăng tại cửa thủy cung.

Sau Quảng trường đại dương, khách tham quan sẽ đến cửa hàng lưu niệm. “Lưu niệm” ở đây là đồ chơi của MyKingdom, không khác biệt gì so với những cửa hàng đồ chơi khác rải rác khắp Việt Nam của thương hiệu này, trừ việc cửa hàng ở đây được sơn màu xanh dương và bán nhiều cá mập bông hơn các chi nhánh khác. Không có quà tặng dành cho người lớn, và tuyệt nhiên không có sách gì về đại dương học, một lần nữa nhắc nhở chúng ta rằng: Thủy cung Lotte World chủ yếu là nơi để trẻ em đến để xem cá, nếu có học thêm được kiến thức hữu ích gì thì cũng chỉ là sự vô tình mà thôi.

Nhiều thủy cung khác trên thế giới đã làm rất tốt trong việc giới thiệu môi trường sinh học bản địa: Thủy cung Monterey Bay (Mỹ) là một điển hình, cũng như nhiều thủy cung ở Nhật Bản. Đông Nam Á cũng có những đại diện như Viện Hải Dương Học ở Nha Trang, Thủy cung Angkor ở Siem Reap, Campuchia, Thủy cung Indonesia tại Taman Mini Indonesia, Jakarta, và Thủy cung S.E.A ở Singapore, v.v. thành công trong việc giáo dục về vùng biển Đông Nam Á. Thủy cung Lotte World không làm được điều đó. Ngoài đường hầm sông Mê Kông và đền cá ông, tệp khách đặc biệt tham quan tâm đến hệ sinh thái biển đa dạng và phong phú của Việt Nam, hoặc truyền thống ngư nghiệp lầu đời của người Việt, sẽ thấy vé ở đây không đáng đồng tiền bát gạo mấy. Đây là một điều đáng tiếc, vì ngoài Viện Hải Dương Học, có vẻ như không có thủy cung nào khác ở Việt Nam đang nỗ lực giúp người Việt hiểu hơn về môi trường và lịch sử Việt Nam cả. Nhưng tôi hiểu rằng hầu hết khách tham quan không quan tâm đến khía cạnh giáo dục như tôi. Tôi tin thủy cung Lotte World cần chú tâm nhiều hơn nữa vào các loài động vật đặc hữu. Dẫu vậy, tôi vẫn thích chuyến thăm quan của mình — đủ nhiều để quay lại thêm vài lần nữa (haha).

So sánh với các thủy cung khác ở Việt Nam, phải nói rằng Lotte World có không gian dành cho khách tham quan chỉn chu nhất. Tuy nhiên, so với các thủy cung và cơ sở nghiên cứu đại dương học trên toàn thế giới, Lotte World không có gì mới lạ, không có gì nổi bật, và thật sự thì cũng không “có cửa.” Tất nhiên, xét theo tiêu chuẩn của một thủy cung trong tâm thương mại, thì Lotte World vẫn là một điều kỳ diệu, một kỳ công kỹ thuật, dễ dàng vượt mặt tất cả các đối thủ cạnh tranh như ở các Vinpearland rải rác khắp đất nước. Vì ở Lotte World, cá ít nhất cũng còn thở. Nơi đây tuy không có lịch sử thú vị như Viện Hải Dương Học (là thủy cung yêu thích nhất của tôi ở Việt Nam) cũng không có nét hoài cổ của Thủy cung Trí Nguyên. Nhưng với các gia đình muốn dắt con em đi chơi cuối tuần, hoặc các cặp đôi muốn có một buổi hẹn ngọt ngào, thì Thủy cung Lotte World là điểm dừng chân hoàn hảo. Bạn có thể tự thưởng cho mình vài lát sashimi ở nhà hàng trên lầu, sau khi dành vài tiếng đồng hồ để ngắm nhìn đồng loại của chúng ở dưới lầu. Xem phim Đi tìm Nemo hoặc, nếu bạn không quá nhát gan, phim Hàm cá mập, vào đêm trước khi bạn đến thăm thủy cung để “lấy mood.” Nhưng cái gì quan trọng phải nhắc lại 3 lần, nhớ đi vào ngày trong tuần cho thong thả, kẻo lại bị chật chội như cá mòi đóng hộp đấy.

]]>
info@saigoneer.com (David J. McCaskey. Ảnh: David J. McCaskey.)In Plain SightMon, 22 Apr 2024 11:00:00 +0700
Em đi chơi thuyền, từ Thảo Cầm Viên, trên kênh Nhiêu Lộchttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17660-em-đi-chơi-thuyền,-từ-thảo-cầm-viên,-trên-kênh-nhiêu-lộchttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17660-em-đi-chơi-thuyền,-từ-thảo-cầm-viên,-trên-kênh-nhiêu-lộc

Sẽ thế nào nếu vào một chiều Sài Gòn, cuộc đời bạn biến thành thước phim indie?

Bạn có dành cả chiều để lang thang phố phường cùng chúng bạn? Chụp hình chiếc bánh ngọt trong ánh chiều tà; thướt tha dưới bóng mát của hàng cây xanh cạnh dòng xe cộ, đầu đeo tai nghe văng vẳng bài hát của một ban nhạc với lời ca sâu như đáy vực và giọng mỏng tang như giấy thấm dầu? Bạn có ấp úng một cách đáng yêu không? Những ký ức của bạn có phủ filter màu nâu ấm áp như quyển nhật ký của Muji không? Bạn có gặp phải các vấn đề của tầng lớp trung lưu và những “thách thức” cuộc sống có thể được giải quyết trong vòng 90 phút không? Nếu có, cuộc sống của bạn có lẽ sẽ là kịch bản tiềm năng cho một bộ phim indie với kinh phí nhỏ xinh. Và nếu bộ phim này được thực hiện, thì chắc chắn nên có một phân cảnh diễn ra trên một con thuyền nhỏ giữa kênh Nhiêu Lộc–Thị Nghè.

Kênh Thị Nghè là một dải lụa kết nối các quận của thành phố lại với nhau, do đó, con kênh cũng không hẳn là một phần của địa phận thành phố. Ai lại không mong muốn được tồn tại trong một không gian lưng chừng, được thưởng thức sự thi vị và vô định của vùng biên giới? Nếu bạn như tôi, có lẽ bạn cũng đã từng ước mong được đặt chân lên ranh giới len lỏi này. Nhưng làm thế nào? Việc mua một chiếc thuyền, học cách lái, tìm hiểu giấy tờ và chuẩn bị các thể loại “phụ phí” sẽ mệt mỏi biết bao.

Giải pháp tối ưu là nhờ ai đó làm hết những việc này cho bạn. Vậy là trong chuyến thăm bờ kè gần đây của Saigoneer, chúng tôi đã nhờ đến Công ty Thuyền Nhiêu Lộc (NLB), đơn vị lữ hành duy nhất khai thác các chuyến tàu, thuyền thương mại trên kênh Thị Nghè từ năm 2014. Mỗi khi qua cầu Thị Nghè hướng về phía đường Nguyễn Thị Minh Khai quận 1, bạn chắc chắn sẽ đi qua một trong hai bến thuyền của NLB. Công trình có vị trí đắc địa nhưng gần như ai cũng không biết đến sự hiện diện của nó. Hiển nhiên, Saigoneer cảm thấy phải “xuất xưởng” một bài viết In Plain Sight để dân tình có thể trài nghiệm chuyến Nhiêu Lộc phiêu lưu ký như chúng tôi.

Cũng phải nói trước, trải nghiệm Nhiêu Lộc phiêu lưu ký được NLB tổ chức đơn thuần vì mục đích giải trí. Dịch vụ này khác biệt hoàn toàn với hệ thống Waterbus của thành phố. Waterbus hoạt động trên sông Sài Gòn, mục tiêu ban đầu khi ra mắt là để cung cấp một loại phương tiện giao thông công cộng tiện lợi cho người dân. Trong khi đó, đội tàu của NLB tồn tại chỉ để mang lại niềm vui cho hành khách, và nó làm rất tốt chức năng khiêm tốn này. Tốt đến mức tôi nghĩ có thể xếp hoạt động này vào top 5 thú vui mọi người cần trải nghiệm ở Sài Gòn.

NLB có một hạm đội đủ kích cỡ và sức chứa, từ Thuyền Phượng cho 5 khách đến các du thuyền cho 35 khách; mang đến một loạt các dịch vụ, bao gồm các chuyến tham quan ngắm cảnh, có phục vụ đồ ăn và tiết mục giải trí như biểu diễn âm nhạc và thả đèn lồng giấy, cũng như dịch vụ cho thuê thuyền kèm người lái theo giờ. Tùy chọn cuối cùng phù hợp với nhu cầu của đội ngũ Saigoneer, và một chiếc Thuyền Qui đã chờ chúng tôi khi chúng tôi đến bến theo lịch trình (mà bạn phải đặt trước) khởi hành lúc 4:30 chiều. Từ 4:30 chiều đến 5:30 chiều là thời gian tốt nhất để thực hiện chuyến hành trình 1 giờ giữa hai bến của NLB — một bến ở gần đoạn giáp giữa Quận 1 và 3, một bên ở đối diện Thảo Cầm Viên. Bầu trời mát dịu tạo nên một bầu không khí lý tưởng để “chiu chiu” lúc chiều tà, và cảm giác “chiu chiu” thư thả trên dòng nước ấy cũng chính là điểm nhấn của hành trình.

Hoàng hôn tô vẽ lên bầu trời màu hồng, cam và vàng nghệ. Một thứ ánh sáng mềm mại quét qua những vết nứt và khe hở của các tòa nhà sát bên hai bên đường Hoàng Sa và Trường Sa. Giữa mặt đường và mặt nước, những bãi cỏ rộng rãi cùng cây cối che bóng mát cho hàng băng ghế, thiết bị tập thể dục và lối đi vỉa hè. Hương thơm đặc trưng của hoa sứ trắng nở lan tỏa xung quanh những cung đường cong đâu đó. Lúc này, dân công sở cùng cư dân xung quanh đang trở về nhà, các cô cậu thanh niên đang tụ tập để trò chuyện và vui đùa, mấy nhà hàng ven đường đang chuẩn bị để mở cửa buổi tối. Các khu phố ven kênh như đã hoàn thành công việc trong ngày, dần rũ bỏ tấm áo mệt nhoài sau những giờ lao động, nghỉ ngơi đôi chút, trước khi lại lao vào sự hối hả của màn đêm Sài Gòn. Từ lâu, tôi đã biết khu phố xung quanh bờ kè là nơi thi vị nhất của Sài Gòn, và điều này có thể được thấy rõ nhất qua một chuyến đi trên thuyền vào lúc hoàng hôn.

Con thuyền là góc nhìn độc đáo để ngắm nhìn loạt công trình tiêu biểu của thành phố cũng như những nơi chốn có ý nghĩa đặc biệt với từng khách đi thuyền. Tòa nhà Landmark 81 sừng sững như bó đũa. Chùa Vạn Thọ, được bao bọc bởi cây cối sum suê, nằm ngay phía dưới Chùa Pháp Hoa, một cảnh tượng trang trí hoành tráng và đầy đèn lồng gần nơi chuyến đi của chúng tôi bắt đầu. Tháp nước Sawaco màu xanh sáng cao vùi vào đất Bình Thạnh chắc chắn sẽ gợi trí tò mò của nhiều người.

Có những địa điểm thoạt nhìn không có gì nổi bật, nhưng mang ý nghĩa đặc biệt với những người đã sống hoặc dành thời gian bên dòng kênh. Đối với tôi, đó là quán cà phê yêu thích — Lão Hạc Cafe; nhà hàng Hy Lạp chân cầu Kiệu — ông chủ vẫn thi thoảng nhắn bâng quơ cho tôi qua Facebook và mang ra những món ăn không có trên thực đơn mỗi lần tôi ghé thăm; một băng ghế gần căn hộ cũ của tôi nơi tôi thường dành thời gian đọc sách vào buổi tối; chiếc ban công nơi tôi dành những tháng trời Sài Gòn bị giãn cách để ngắm hươu cao cổ ở vườn thú. Có lẽ chúng ta chỉ có thể yêu một thành phố khi chúng ta học được cách gắn kết với những điều nhỏ nhặt của nó.

Ảnh: Paul Christiansen.

À mà, có thể bạn đang tự hỏi ngoài chuyện “chiu chiu” dưới ánh chiều tà và hoài niệm chỗ này chỗ kia thì chúng ta có thể làm gì khác trên suốt chuyến đi không? Học theo Saigoneer làm vài pô ngay nhé. Chụp ảnh nhóm, ảnh cá nhân, ảnh sống deep, ảnh sống ảo — cứ gọi là vô tư. Phông nền và góc chụp hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội khiến quan cảnh trên chuyến đi vô cùng đắt giá để lên hình. Tôi nghĩ những ai cần chụp ảnh chuyên nghiệp (đám cưới, ra mắt sản phẩm, video âm nhạc, v.v.) cũng nên cân nhắc lựa chọn này.

Thuyền hơi rung một chút nên nếu có chụp ảnh hẹn giờ thì phải cài cho chắc nhé. Ảnh: Khôi Phạm.

Bây giờ sẽ đến chuyên mục gợi ý từ nhà Saigoneer. Hãy mang theo thức ăn và đồ uống. Một số hành trình của NLB đã bao gồm bữa tối, nhưng nếu bạn chọn lộ trình như chúng tôi, chỉ thuê thuyền và thuyền trưởng, bạn có thể mang bất cứ thứ gì bạn muốn lên tàu. Pizza? Bia lạnh? Snack? Không hề bị giới hạn. Nhạc nhẽo cũng tương tự, chắc chắn nên mang theo một số loa Bluetooth và chuẩn bị một playlist nhẹ nhàng để làm soundtrack cho chuyến đi. Bạn không cần mang theo bộ bài hoặc board game vì bạn hoàn toàn có thể  tận dụng không gian xung quanh. Ví dụ, xếp hạng tên gọi và phong cách kiến ​​trúc của các cây cầu mà bạn sẽ lướt qua trong chuyến hành. Thực sự, không chỉ những người đam mê kiến trúc, ngay cả “dân ngoại đạo” cũng có thể tranh luận về ưu và nhược điểm của các trường phái thẩm mỹ khác nhau. Phía dưới của nhiều cây cầu có các tác phẩm nghệ thuật, một số là do chính quyền cho thực hiện, một số khác là tự phát. Mỗi bức tranh là một kho báu bí mật mà thành phố đã ẩn giấu cho bạn và các hành khách trên con kênh, bởi sẽ rất khó để người đi đường bình thường để ý đến chúng. 

Tôi không đề xuất mang theo ống nhòm. Không cần thiết đâu nhé. Tôi đã mang theo của ống nhòm vì nghĩ rằng có bắt gặp điều gì thú vị dọc đường cần quan sát kỹ hơn, nhưng cuối cùng chỉ săm soi được đúng một con cá chết trôi lềnh bềnh. Ống nhòm vừa nặng muốn gãy cổ mà lại còn ít sử dụng. Bạn chỉ cần dùng mắt trần của mình là đã thấy hết được các vật thể và rác nổi trên kênh (nhiều nhưng không gây khó chịu như trước kia). Lượng rác cũng tương đương các không gian công cộng khác ở Sài Gòn, không phải là một vấn đề mà hành khách phải quan ngại. Người đời cũng đồn đại là kênh có mùi hôi thối. Tôi xin khẳng định là không hôi nha. Thật ra, nhờ phần nào tách biệt với tiếng ồn và đường xá chật hẹp mà không gian trên con kênh còn trong lành và đỡ ngộp thở hơn bất kỳ nơi nào khác ở trung tâm thành phố.

Như những địa điểm và hoạt động khác bị công chúng bỏ quên ở Sài Gòn, hành trình trên kênh Nhiêu Lộc–Thị Nghè ngập tràn những sự vật vi diệu. Dễ thấy nhất là những chiếc thuyền kỳ lạ, được bao phủ bởi nhựa tái chế, neo đậu trên kênh. Một chiếc thuyền trong số đó có các chai nhựa được sơn sửa và chế tạo thành các cối xay gió tí hon, và một chiếc thuyền khác được tạo hình thành ngôi nhà, mỗi viên gạch là một chai nhựa trong suốt. Như những sự vật lạ lùng khác, tôi không rõ mục đích của chúng là gì. Một bất ngờ khác đang chờ đợi ở cuối chuyến hành trình, ít nhất là nếu bạn xuống thuyền tại bến ở cạnh vườn thú. Khi chúng tôi gần cặp bến, một hệ thống đài phun nước lớn bắt đầu hoạt động. Sau 6 giờ tối, các cột nước sẽ được phun lên kèm theo ánh đèn màu sắc, nhưng vào giờ chiều, chúng tôi chỉ thấy nước trong kênh bạy vụt lên trời rồi rơi xuống vô thưởng vô phạt. Bản nhạc vang lên khi chúng tôi cặp bến nghe ỉu xìu chứ không long trọng mấy, giống như tiếng ba người tự vỗ tay “bộp bộp” chúc mừng nhau sau khi họp. Nghĩ cũng hợp, vi diệu đến mấy cũng tan thành mây.

Vị diệu cũng không có nghĩa là an toàn 100%. Một trong những kỷ niệm đáng nhớ nhất của tôi với kênh Nhiêu Lộc–Thị Nghè là khi tôi suýt phải đi “chầu ông bà.” Tôi và bạn bè từng tham gia một chuyến hành trình tương tự vào năm 2018. Đến giữa đường, động cơ bỗng bốc cháy dữ dội. Nhân viên trên thuyền vật lộn dưới mái hiên gỗ ở đằng sau, trong khi chúng tôi nhào ra phía trước, mỗi đứa tự túm lấy một chiếc áo phao. Chúng tôi đang tính xem có nên nhảy xuống bơi không và nếu có thì nên bơi sang hướng nào thì may mắn thay, thuyền trưởng đã dập tắt đám cháy bằng áo ngâm ướt trong nước kênh. Động cơ không còn hoạt động nhưng chúng tôi vẫn dạt về bến mà không gặp bất kỳ vấn đề nào. Một đêm đáng nhớ thật phải không.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Cao Nhân.)In Plain SightThu, 21 Mar 2024 17:00:00 +0700
Cửa tiệm núp hẻm ở Quận 3 bán sách cũ và những điều tử tếhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17604-cửa-tiệm-núp-hẻm-ở-quận-3-bán-sách-cũ-và-những-điều-tử-tếhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17604-cửa-tiệm-núp-hẻm-ở-quận-3-bán-sách-cũ-và-những-điều-tử-tế

Lần đầu tiên tôi biết đến tiệm sách Bá Tân là nhờ một người bạn giới thiệu.

Một cửa tiệm đầy ắp những đầu sách hay, có hai chú mèo và phục vụ trà, cà phê miễn phí, Bá Tân như bước ra từ tưởng tượng thuở bé của tôi về một chốn trú ẩn yên bình. Cái cảm giác sướng rơn và hân hoan khi được nằm lăn lóc trên sàn nhà, đọc những cuốn sách mới thuê từ tiệm sách cũ gần trường cho đến khi mẹ mắng mới thôi là thứ mà sau này khi tự kiếm ra được tiền để mua sách đọc thỏa thích, tôi cũng khó lòng tìm lại được.

Cuộc đời mới cho sách cũ

Trong suy nghĩ của của nhiều người, những tiệm sách cũ ở Sài Gòn có lẽ là những sạp hàng nhỏ được trải và bày biện như của nhân vật Trúc trong Bỗng Dưng Muốn Khóc, hay những tiệm sách được chất theo từng chồng cao ngất với một ông bác trung niên biết tuốt.

Tiệm sách Bá Tân thổi làn gió mới hơn vào mô hình kinh doanh sách cũ. Sách được phân loại theo hai gian nhà. Gian thứ nhất, gần đầu hẻm, sẽ bán những cuốn sách theo ký. Giá thành dao động từ 40.000 đến 60.000VND một kg tùy vào thể loại. Gian thứ hai cách gian thứ nhất vài căn, rộng hơn và thường được ghé thăm nhiều hơn. Sách được bán lẻ và được định giá theo thời điểm hiện tại. Về hình thức, đa số sách ở gian nhà thứ hai có độ mới khoảng 90–99%, số ít còn lại là sách cũ quý hiếm và sách dành cho dân sưu tầm.

Bên trong không gian tiệm sách, ánh đèn vàng bao trùm khắp nơi tạo cảm giác dễ chịu, ấm cúng, giúp khách vãng lai có thể đọc sách tham khảo mà không bị đau mắt. Sách được xếp gọn gàng và logic, theo từng thể loại văn học, từ Đông sang Tây và theo khổ tiểu, trung, đại. Ngoài ra, ở tiệm có những bộ sưu tập rất ngẫu nhiên được tuyển chọn, từ bộ truyện trinh thám của Higashino Keigo, đến các bộ manga tuổi thơ như ConanDragon Ball. Ngoại hình như mới nhưng giá “yêu thương” hơn rất nhiều.

Khi lần giở những trang sách cũ, nghe mùi sách đã nhuốm màu thời gian và nhìn thấy bức tranh của thi sĩ Bùi Giáng được treo giữa tiệm, tôi đã cảm thấy có cái gì đó rưng rưng và chực trào về những tháng ngày cũ của mình. Tôi đã mua hai cuốn sách về triết học ở tiệm, và vẫn luôn duy trì thói quen hít lấy hít để mỗi khi mở ra đọc. Đặc biệt, khách hàng có nhu cầu “xông sách” có thể mua một combo 20g hoa hồi và 30g quế với giá 35.000VND để khử mùi hôi và tránh ẩm mốc, mối mọt cho kệ sách của mình.

Đa số thành viên làm việc ở hiệu sách đều là những người trẻ. Tôi đã nán lại đủ lâu để nhận thấy có một tệp khách hàng riêng vô cùng đặc biệt. Cứ độ 10–15 phút sẽ có người chạy ngang qua tiệm và la lên “Anh/chị ơi, còn cuốn… này không?”, thậm chí chưa kịp gạt chân chống xe. Nếu câu trả lời là không, họ sẽ phóng xe đi ngay. Ngược lại, nếu có, nhân viên sẽ mang ra và tính tiền khá nhanh chóng: họ thuộc làu thông tin của khách quen và trả lời ngay tắp lự mà không cần suy nghĩ, dù rằng sách ở đây đã lên đến con số hàng chục tấn. Tôi phải nghiêng mình nể phục trước những vị “thủ thư” không sổ sách, không máy tính ở đây.

Tôi có dịp trò chuyện với anh Lê Bá Tân, chủ cửa hàng, và biết được rằng giá trị một cuốn sách cũ sẽ được tạm xét theo hai yếu tố: giá trị vật chất và giá trị kiến thức, lịch sử. Giá trị vật chất thường áp dụng cho những tựa sách vừa phát hành và vẫn còn hình thức mới, được bán từ 40 đến 60% giá bìa. Còn đối với những cuốn sách hiếm, lâu đời, chứa đựng giá trị kiến thức, lịch sử cao thì không thể tính theo giá trị trên bìa hay vẻ ngoài. Chẳng hạn như cuốn Sợi Tóc của Thạch Lam, bản in đầu của Đời Nay, xuất bản năm 1942 nay đã có giá 30 triệu VND vì độ quý hiếm.

Anh Lê Bá Tân.

Với khẩu hiệu “chuyên kinh doanh những điều tử tế,” tiệm sách Bá Tân không chỉ là nơi để mua bán, trao đổi sách. Tiệm còn có một tủ sách miễn phí và thường xuyên tổ chức các cuộc thi và trò chơi có thưởng là sách, để khuyến khích văn hóa đọc và viết. Vì với anh Tân “đọc mà không thực hành, ứng dụng là một điều rất đáng tiếc.” Nhờ đó, tiệm sách của anh Tân dường như đã trở thành một ngôi nhà thân thuộc cho các bạn trẻ, nhiều bạn đọc thậm chí còn tỉ mỉ viết thư tay cho tiệm để tri ân và bày tỏ cảm xúc yêu mến của mình.

Khi được hỏi về định nghĩa “như thế nào là sách cũ?”, anh nói: “Mình luôn định nghĩa sách cũ rất đơn giản, chữ cũ trong “sách cũ” chỉ đơn giản là việc người này dùng xong rồi sang tay người khác, nhưng mà cũng chỉ là dùng để phân biệt giữa cái cũ và cái mới, chứ không thể định được hoàn toàn đúng nghĩa của chữ. Có những kiến thức đã có cách đây cả 2.000–3.000 năm, thậm chí 4.000 năm ở bên Hy Lạp, La Mã mà giờ mình mới đọc, mình nghĩ nó mới, nhưng thật ra nó lại cũ và bình thường ở ngoài kia. Vậy nên mình vẫn luôn nghĩ rằng trong cũ có mới, và trong mới có cũ, luôn luôn là thế trong cuộc đời này.”

“Mình muốn đi với sách đến cuối đời”

Một trong những điều khiến anh Tân khởi nghiệp với sách cũ là... được bạn tặng rất nhiều sách. Trước đây anh vốn là giáo viên dạy Sử, song vì một vài lý do anh quyết định tạm thời ngừng đi dạy.

"Lúc bấy giờ mình chỉ biết chút ít sách vở, kiến thức rồi mối quan hệ toàn là với giáo viên, học trò nên không biết làm gì tiếp theo. Tình cờ hồi xưa bạn thân tặng mình rất nhiều sách, tận 2–3 tủ. Mình hay đăng mấy cuốn mình thích lên mạng. Rồi mọi người cứ vào hỏi mua dù lúc đó mình chẳng bán gì. Tự nhiên mình nghĩ là, chắc nghề này đã chọn mình rồi nên mình quyết định kinh doanh sách,” anh Tân chia sẻ.

Nhìn cửa hàng ở quận 3 hiện tại, hiếm ai biết được nó đã từng trải qua rất nhiều thăng trầm cùng anh Tân. Từ kinh doanh trực tuyến đến cửa hàng đầu tiên tại quận 2, sau đó anh quyết định mở quán cà phê sách mang tên “Sài Gòn năm xưa” trên đường Nguyễn Khắc Nhu, quận 1 vào năm 2019. Tuy nhiên, việc vận hành quán cà phê sách gặp rất nhiều vấn đề, trong đó có cả dịch COVID-19 dẫn đến việc anh Tân buộc phải đóng lại mô hình cà phê và tạm nghỉ một thời gian trước khi khởi động lại với “Bá Tân - Sách cũ thư viện.”

Tuy nhiên, khi nhắc đến câu chuyện lời-lỗ, anh đều cười xuề xòa cho qua và bảo: “Thực ra mình không nghĩ rằng mình sẽ chỉ đi đến bây giờ hoặc trong tương lai gần rồi một ngày nào đó thì nghỉ, mà mình muốn đi với sách đến cuối đời. Lòng tham thì ai cũng có. Nhưng sách vở đã luôn là cái tử tế rồi, mình lại không làm cho nó tử tế nữa thì rõ ràng mình là người không tốt.”

Dù có nhiều thay đổi về địa điểm và mô hình kinh doanh, song những đứa con tinh thần của anh Bá Tân vẫn luôn được các vị khách quen yêu mến. Có lẽ vì nó đều xuất phát từ tinh thần yêu sách và mong muốn lan tỏa văn hóa đọc. Có những vị khách dù không nhớ anh Tân là ai cũng như không biết anh đã chuyển đi đâu trong ngần ấy năm, nhưng chỉ cần có nhu cầu mua bán sách cũ, họ lại vô tình tìm thấy anh Tân ở đâu đó giữa chốn Sài Gòn này.

“Nhờ những vị khách như vậy, mình lại cảm thấy có duyên với nghề này hơn. Mình chưa bao giờ nghĩ mình sẽ dừng lại với nghề sách kể cả khi gặp khủng hoảng nhất. Mình muốn đi dài hơn và xa hơn nữa. Nếu có thể thì mình muốn đi với sách đến cuối cuộc đời.”

Bá Tân - Sách cũ thư viện tọa lạc tại số 451/22 Hai Bà Trưng, Phường 8, Quận 3, TP. Hồ Chí Minh.

]]>
info@saigoneer.com (Như Quỳnh. Ảnh: Alberto Prieto và Cao Nhân.)In Plain SightMon, 06 Nov 2023 17:00:00 +0700
Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam, điểm đến mê hoặc cho những tâm hồn thích tìm tòihttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17522-bảo-tàng-thiên-nhiên-việt-nam,-điểm-đến-mê-hoặc-cho-những-tâm-hồn-thích-tìm-tòihttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17522-bảo-tàng-thiên-nhiên-việt-nam,-điểm-đến-mê-hoặc-cho-những-tâm-hồn-thích-tìm-tòi

Nếu có dịp đi sâu vào khuôn viên của Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Hà Nội, khách thập phương sẽ bất ngờ khi bất thình lình bắt gặp một mô hình khủng long khổng lồ. Chú khủng long T-Rex ấy đang trông coi lối vào Bảo tàng Thiên nhiên Việt Nam. Khi đến đây tham quan, tôi thấy tâm trí mình như bỗng chốc trẻ lại, sẵn sàng để khám phá những chân trời kiến thức mới. Tôi đã nghĩ rằng mình sẽ được nghiêm túc tìm hiểu về lịch sử tự nhiên của Việt Nam, nhưng hỡi ôi, tôi đã nhầm.

Sự yên bình và sâu lắng mà hầu hết các bảo tàng mang lại hoàn toàn không tồn tại ở đây. Thay vào đó, tiếng cười nói hào hứng của trẻ em xen tiếng rít còi xe máy của bố mẹ lấp đầy không gian nơi đây. Sự náo nhiệt đó tiếp tục lan vào bên trong không gian triển lãm, nơi các em chạy nhảy, la hét không ngừng nghỉ. Tôi tặc lưỡi nhận ra rằng đây không chỉ là một bảo tàng thiên nhiên mà còn kiêm nhà trẻ nữa.

Tuy vậy, nơi đây vẫn sở hữu không ít những hiện vật thú vị. Tọa lạc tại trung tâm của gian phòng đầu tiên là một tượng cột mô tả chi tiết quá trình tiến hóa của năm vương quốc sinh học.

Xung quanh tượng cột là một bức tường gỗ được khắc những họa tiết tinh xảo miêu tả các giai đoạn khác nhau của quá trình tự nhiên này.

Phòng thứ hai là nơi trưng bày hơn 40.000 mẫu vật. Tôi không khỏi bất ngờ trước sự đa dạng của thế giới động-thực vật, từ bò sát đến động vật có vú, từ côn trùng đến chim. Các mẫu vật được sắp xếp cẩn thận theo từng loại, với cây cỏ, nấm và các mẫu địa chất xen kẽ.

Khi dạo quanh các gian phòng, tôi lại càng bị ấn tượng bởi sự đa dạng vô ngần của sự sống trên hành tinh chúng ta. Nhưng tôi không chỉ ấn tướng trước các hiện vật trưng bày, mà còn bởi cách các em nhỏ tại đây tương tác với chúng.

Các em thích thú khi ngắm nhìn bản sao của những loài động vật đã từng lang thang trên trái đất. Đôi mắt của các em ánh lên sự tò mò, đôi chân chạy nhảy liên tục từ mẫu vật này sang mẫu vật khác, miệng la lên khoái chí khi gặp một sinh vật mới.

Tôi không thể không cười khi nhìn thấy các em nhăn mày cau mặt, cố gắng chạm vào mắt của các loài lưỡng cư trên bảng trưng bày. Niềm vui của tôi cũng trộn lẫn đôi chút lo lắng khi thấy một con cá bị dán băng dính phía sau màn che phần trưng bày của loài lưỡng cư — có lẽ là nạn nhân của một em bé tinh nghịch nào đó.

Ra khỏi không gian hỗn loạn trong bảo tàng, tôi trở về với khuôn viên trường đại học yên tĩnh và thanh bình. Nhưng trộm nghĩ, có một địa chỉ như thế này cho trẻ em ở thành phố được thỏa sức khám phá thế giới tự nhiên cũng đã là một điều quý.

Dù có quy mô khiêm tốn, Bảo tàng Thiên nhiên Quốc gia Việt Nam vẫn sở hữu cho mình những bộ sưu tập hiện vật thú vị, khơi gợi tinh thần học hỏi không chỉ ở trẻ em mà còn ở người lớn, khiến nơi đây trở thành một điểm đến không thể bỏ lỡ với những gia đình tìm kiếm một trải nghiệm bổ ích.

]]>
info@saigoneer.com (Léo-Paul Guyot. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightFri, 02 Jun 2023 10:39:07 +0700
Những ký ức đóng băng ở trại phong Quy Hoàhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/16938-những-ký-ức-đóng-băng-ở-trại-phong-quy-hoàhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/16938-những-ký-ức-đóng-băng-ở-trại-phong-quy-hoà

Trong tâm trí của nhiều người, bệnh phong vẫn là một thứ gì đó đáng sợ. Nhưng vượt qua những định kiến, đâu đó vẫn có những cộng đồng nơi tình thương và sự cảm thông kết nối con người với con người. Làng phong Quy Hoà ở Quy Nhơn là một nơi đặc biệt như thế.

Trong bộ phim Dấu Ấn Của Quỷ của đạo diễn Việt Linh, nhân vật Lão cùi là một người mắc bệnh phong. Ông sống tách biệt ở rìa làng cùng với chú chó, cũng là người bạn duy nhất. Hằng ngày, ông đeo trên cổ một chiếc chuông để báo cho dân làng biết mà chạy đi. Tuy chỉ là phim, nhưng hình tượng Lão cùi đã phần nào thể hiện được nỗi đau, nỗi mất mát của người bệnh khi bị tước đi mối liên hệ với xã hội.

Trong một chuyến đi tới Quy Nhơn cách đây vài tháng, nhớ đến hình ảnh nhân vật này, chúng tôi đã đến thăm trại phong Quy Hòa. Khi tiến gần về phía ngôi làng, cảnh vật thiên nhiên xinh đẹp với ánh nắng chan hoà và tiếng sóng dịu êm hôm ấy hoàn toàn đối nghịch với hình ảnh u tối gắn liền với căn bệnh phong. Chúng tôi dành một buổi chiều để tham quan làng phong, gặp gỡ các cư dân, tìm hiểu lịch sử của ngôi làng cũng như cộng đồng nơi đây; để rồi hiểu thêm về bệnh phong và những điều tích cực của cuộc sống xung quanh nó.

Lịch sử bệnh phong ở Bình Định

Bệnh phong, còn được gọi là bệnh Hansen, là một trong những căn bệnh lâu đời nhất trên thế giới. Bệnh được gây ra bởi một loại vi khuẩn. Khi nhiễm bệnh lâu ngày, da và dây thần kinh của bệnh nhân sẽ bị tổn thương, khiến cơ thể họ dễ bị dị tật, kém nhạy cảm với nhiệt độ và vết đau. Bệnh không dễ lây, nhưng vì đến năm 1940 mới có thuốc chữa, người bệnh của những thập kỷ trước đó gần như phải sống trong cực hình. Bệnh hay bùng phát trong môi trường ô nhiễm và thiếu vệ sinh, khiến những khu dân cư nghèo bị ảnh hưởng nặng nề nhất.

Do thiếu kiến thức khoa học, nhiều người Việt lúc bấy giờ có quan điểm sai lệch về bệnh phong. Họ cho rằng đây là căn bệnh dễ lây lan, khiến người bệnh phải chịu sự kỳ thị từ xã hội. Người bệnh và gia đình thường bị cô lập và đối xử tàn nhẫn; thậm chí bị chôn sống, dìm nước hoặc đẩy vào chốn rừng núi hoang vu.

Vào những năm 1920, Bình Định được xác định có 360 người mắc bệnh phong. Tuy nhiên, nếu tính cả những ca chưa được chẩn đoán, sống rải rác ở vùng nông thôn, số ca thực tế có thể lên tới 1200, một con số khá đáng kể khi so với tổng số 70.000 dân của tỉnh. Trước tình cảnh hết sức cấp thiết, Paul Maheu, một linh mục người Pháp, cùng bác sĩ Lemoine của Bệnh viện Bình Định, đã thành lập Bệnh viện Laproserie de Quy Hoa vào năm 1929. Bệnh viện toạ lạc trên một dải đất ven biển, cách Quy Nhơn 8km về phía Nam.

Làng Quy Hòa năm 1970 chụp từ trên cao. Ảnh: Trang Flickr của người dùng manhhai.

Năm đầu tiên hoạt động, bệnh viện mở cửa đón 52 bệnh nhân. Phòng bệnh lúc này là những ngôi nhà tranh vách đất. Năm 1932, để chăm sóc cho số lượng bệnh nhân ngày càng lớn, sáu nữ tu người Pháp đã lên đường tới Quy Nhơn từ Marseille trên một chuyến hành trình khó nhọc. Khi đến nơi, họ liền bắt tay vào làm việc, vừa củng cố cơ sở vật chất, vừa chăm sóc, tắm rửa cho 180 bệnh nhân mỗi ngày. Những ngôi nhà tranh được xây thêm để phục vụ các bệnh nhân và người nhà đến ở cùng.

Đáng tiếc, bệnh viện chưa hoạt động được bao lâu thì đã bị một cơn bão năm 1933 tàn phá. Nhưng từ những tàn tích, một cơ sở mới rộng rãi, khang trang hơn đã được xây dựng. Khuôn viên bệnh viện giờ đây có thêm nhà thờ, tu viện cùng 200 ngôi nhà cho bệnh nhân lưu trú.

Làng phong Quy Hoà ngày ấy không có nhiều sự khác biệt với ngày nay. Ảnh: Trang Flickr của người dùng manhhai.

Kiến trúc độc đáo của Quy Hoà bắt nguồn từ đâu?

Khác với sự ảm đạm thường thấy ở các cơ sở y tế, vẻ ngoài của Quy Hoà có phần sống động và màu sắc hơn hẳn. Dạo mắt xung quanh, chúng tôi thấy những bãi biển đẹp như tranh vẽ, những chùm hoa giấy nở rộ, những cây cọ xum xuê và những bãi cỏ trên cát — tất cả đều góp phần vào sự tươi sáng của Quy Hòa. Nhưng điều làm chúng tôi ấn tượng nhất chính là lối kiến trúc độc đáo.

Sau cơn bão năm 1933, Sơ Ozithe là người giám sát việc quy hoạch của trại Quy Hoà. Vốn là một kiến trúc sư, sơ đã cân nhắc nhu cầu của các bệnh nhân và gia đình, cũng như lối kiến trúc nhiệt đới của Việt Nam khi xây dựng công trình. Mỗi bệnh nhân khi đến đây sẽ đưa ra ý tưởng cho ngôi nhà của mình. Một số người còn tự tay vẽ họa tiết cho gạch, nên nhiều viên gạch ốp ở đây có thiết kế độc nhất vô nhị. Được tự do sáng tạo, các cư dân ở đây đã để lại nhiều dấu ấn cá nhân, tạo nên một tổng thể màu sắc, độc đáo từ họa tiết, mặt tiền đến mái nhà.

Nhu cầu y tế của của bệnh nhân cũng ảnh hưởng không nhỏ đến kiến trúc của bệnh viện Quy Hòa. Ở đây, sàn được lát gạch, thang có ít bậc, lối đi rộng rãi và không có hàng rào. Tất cả đều để hỗ trợ những bệnh nhân nặng với nhiều dị tật cơ thể. Ở ngoài, những hàng ghế, bóng cây và công viên nhỏ được lắp đặt, vì người sống trong viện chẳng mấy khi đặt chân khỏi đây.

“Trại phong ngày càng ra dáng một cư xá đô thị. Mỗi con đường đều mang tên riêng, các biệt thự thấp thoáng dưới bóng cây dừa, xứng đáng với tên gọi 'Hòa bình phủ quốc,’” một nữ tu viết trong thư gửi đến bề trên vào những năm 1940.

Tuy chịu nhiều hạn chế về thể chất, nhưng các bệnh nhân vẫn chủ động trong việc xây dựng ngôi nhà của mình. Qua năm tháng, nhiều xu hướng và phong cách mới từ Nhật Bản, Hàn Quốc cũng xuất hiện trong các thiết kế nhà. Nhưng kiến trúc ở viện Quy Hoà không hề mất đi sự độc đáo, một phần vì chính những cư dân sinh sống ở đây. Có người nói rằng, có lẽ nỗi đau của gia chủ đã tô điểm thêm cho cơ ngơi họ tạo dựng.

Ở Quy Hoà, bệnh nhân không cần phải theo tôn giáo nào để được điều trị. Thế nhưng trong khuôn viên, ta vẫn bắt gặp những bức tượng thờ: Chúa Giêsu, Đức Mẹ Maria, các vị thánh và các y sĩ danh tiếng lúc bấy giờ. Sự có mặt của những bức tượng này như một lời nhắc nhở về sứ mệnh của ngôi làng: để xoa dịu và truyền động lực cho những mảnh đời bất hạnh. Những dáng hình ấy giờ đây vẫn còn tồn tại, kế bên ngôi nhà của cư dân danh tiếng nhất Quy Hoà: nhà thơ Hàn Mặc Tử.

Đến Quy Hoà vào những năm cuối đời, nhà thơ “bán trăng” lìa trần vào năm 1940, khi ông mới 28 tuổi. Mái ấm giản dị của ông ghi dấu đoạn kết của một cuộc đời bi thương, một sự nghiệp vì nghệ thuật. Trong căn phòng, những cuốn sách, đồ dùng cá nhân, thư từ, ảnh của những vị khách quý và tranh chân dung do người anh vẽ tặng được treo ngăn nắp trên tường, bên cạnh chiếc giường gỗ nơi ông qua đời.

Những khó khăn hàng ngày

Dù ban quản lý viện luôn nỗ lực để xây dựng một môi trường sống thoải mái, lành mạnh nhưng cuộc sống ở Quy Hòa cũng có lúc khó khăn. Có thời điểm, chỉ có 10 nữ tu làm việc, chăm sóc cho hơn 1.000 bệnh nhân. Đến năm 1974, một năm trước khi chính phủ tiếp quản hoạt động của viện, đã có hơn 5.422 bệnh nhân và người nhà của họ cùng ở đây, khiến khuôn viên càng trở nên đông đúc. Những ngôi nhà càng ngày càng nhỏ lại còn nguồn lực thì càng khan hiếm, nhưng các bệnh nhân từ ngoài Bình Định vẫn được tiếp nhận, bất kể giàu nghèo.

Ngày nay, con đường di chuyển từ Quy Nhơn đến Quy Hòa vô cùng thuận tiện. Nhưng trước đó, hành trình để tới được đây xa xôi hơn rất nhiều. Các nhu yếu phẩm phải được đưa đến bằng thuyền, đôi khi năm tháng mới có một chuyến. Vì điều kiện kinh tế khó khăn, người dân ở viện đã trồng dừa để ăn, làm dầu, làm xà phòng, thuốc và chổi. Bên cạnh đó họ phải xin quyên góp thức ăn và tiền từ các khu dân cư xung quanh. Đến tận năm 1994, không có trẻ em nào trong làng phong được học cấp hai.

Dẫu vậy, các cư dân Quy Hoà vẫn kiên cường vượt qua các thử thách, ngay cả trong chuyện giày dép. Bệnh phong thường khiến chân tay người bệnh biến dạng. Họ phải đi những đôi giày có hình dạng hoặc kích cỡ khác nhau, được thiết kế riêng biệt để giúp việc đi lại dễ dàng hơn. Đáp ứng nhu cầu này, vào năm 1997, một cơ sở đóng giày đặc biệt đã được thành lập trong viện. Công việc làm giày được các cư dân truyền qua nhiều thế hệ. Một người thợ mà Saigoneer có duyên gặp gỡ vẫn tiếp tục sống trong làng ngay cả khi đã nghỉ hưu.

Ngày nay, đa phần các cơ sở ở Quy Hoà đều được chăm lo ổn thỏa. Nhưng khi dạo quanh làng, chúng tôi vẫn thấy một số khu vực bị bỏ hoang, tràn ngập các dụng cụ y tế, đồ đạc và bảng hiệu đổ nát. Các thứ tiếng trên những biển hiệu ấy là minh chứng một giai đoạn lịch sử của ngôi làng, khi nhiều tổ chức trên thế giới cùng góp sức vào hoạt động ở đây. Ngày chúng tôi đến, khung cảnh ở đó rất đẹp, có tiếng chim hót líu lo từ xa. Nhưng nếu đặt vào bối cảnh khác, hình ảnh chiếc ghế phẫu thuật rỉ sét với những thiết bị cũ kỹ có lẽ đã khiến chúng tôi rợn tóc gáy.

Cuộc sống sau khi hết bệnh

Việc sử dụng vắc-xin, cải thiện mức sống và xây dựng những cộng đồng biệt lập như Quy Hoà đã giúp đẩy lùi triệt để bệnh phong ở Đông Á và Đông Nam Á. Tuy nhiên, ở Việt Nam căn bệnh này vẫn còn tồn tại. Số người vẫn đang phải sinh sống với căn bệnh quái gở này lên đến hàng trăm. Nhiều người đã được chữa khỏi, nhưng vẫn cần được chăm sóc lâu dài do những khuyết tật về thể chất mà căn bệnh gây ra. Tính đến năm 2019, Quy Hoà là nơi ở của 421 bệnh nhân nội trú và khoảng 40–50 bệnh nhân ngoại trú.

Kinh phí cũng là một vấn đề lớn đối với Quy Hòa, ngay cả trước khi có thêm những áp lực từ đại dịch COVID-19. Thức ăn và khoản trợ cấp 300.000 VND hàng tháng được nhà nước và các nhà hảo tâm viện trợ. Song song với đó, các nữ tu tiếp tục đóng một vai trò quan trọng trong việc chăm sóc và kêu gọi hỗ trợ cho các cư dân Quy Hoà và hơn 20 cộng đồng, bệnh viện cho người mắc bệnh phong khác trên cả nước.

Nhờ sự phổ cập kiến thức thức về y tế, số người bệnh đã được giảm thiểu, căn bệnh cũng không còn bị dị nghị như trước. Nhưng những bệnh nhân mắc dị tật vẫn còn bị xã hội hắt hủi. Vì vậy, họ chọn sống trong những cộng đồng tách biệt, cùng những người đồng cảnh ngộ, những người hiểu được tình cảnh của họ. Bị cô lập và gặp khó khăn kinh tế, nhịp sống ở Quy Hoà cũng đôi khi chậm lại. Khi dạo quanh nơi đây, chúng tôi thấy nhiều người đang ngủ trưa, xem tivi và một nhóm vui vẻ tụ tập đánh bài. Một vài trẻ em háo hức chào đón chúng tôi, và một người đàn ông đang chăm sóc một đàn gà chọi. Tương tự như những ngôi làng nhỏ khác, cuộc sống ở đây có lẽ không có nhiều thay đổi.

Không ai biết chính xác tương lai của Quy Hoà sẽ đi về đâu. Với số bệnh nhân trong nước ngày càng thuyên giảm, các cơ sở y tế chuyên biệt như Quy Hòa có lẽ không cần tồn tại nữa, mà sẽ tái cơ cấu thành một khu dân cư bình thường, một ngôi làng nhỏ cho gia đình của những bệnh nhân cũ sinh sống. Gần đó, thành phố Quy Nhơn vấn tiếp tục phát triển; ngôi làng nhỏ cũng khó tách biệt hoàn toàn với thế giới bên ngoài như ngày trước. Vị trí của Quy Hòa cũng khá thuận tiện, nằm ngay trên hành trình của du khách muốn hám phá cung đường trekking ngắm bình minh đẹp nhất Quy Nhơn. Cũng cách đó chỉ vài ki-lô-mét, một tổ hợp không gian khoa học với trang thiết bị hiện đại hàng đầu đã được xây dựng, hằng năm đón tiếp nhiều chuyên gia hàng đầu trong nhiều lĩnh vực trên toàn thế giới về làm việc. 

Với khung cảnh thơ mộng, kiến trúc độc đáo và giàu giá trị lịch sử, Quy Hòa là điểm đến ngày càng có sức hút đối với khách du lịch. Từng là một nơi chốn đơn côi, hiu quạnh, Quy Hòa giờ được xem là một thiên đường chụp hình cho bạn trẻ. Nhiều người có thể xem đây là một sự thay đổi kỳ quặc, nhưng có lẽ, đây là bước ngoặt cần thiết để Quy Hoà kết thúc một chương lịch sử cũ. 

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen và Phương Phạm. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightSun, 23 Apr 2023 11:27:00 +0700
Hóng gió biển trên cung đường trekking ngắm bình minh đẹp nhất Quy Nhơnhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/16817-khám-phá-cung-đường-trekking-ngắm-bình-minh-đẹp-nhất-quy-nhơnhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/16817-khám-phá-cung-đường-trekking-ngắm-bình-minh-đẹp-nhất-quy-nhơn

Bạn thích đi biển hay leo núi hơn?

Đây là câu bắt chuyện quen thuộc và thường xuất hiện trên các ứng dụng hẹn hò. Nó khiến người được hỏi nghĩ rằng họ chỉ có thể chọn một trong hai. Tuy nhiên, vẫn có những địa danh mà du khách vừa có thể ngắm biển vừa có thể leo núi như thành phố Quy Nhơn thuộc tỉnh Bình Định.

Đỉnh Xuân Vân nằm ở phía Nam thành phố được bao phủ bởi cây cối tươi tốt, rậm rạp và nằm ngay sát vùng biển xanh ngắt. Ngọn núi không chỉ tạo nên hậu cảnh ấn tượng cho bức tranh đô thị đang trên đà phát triển mà còn có một cung đường trekking dẫn lên địa điểm ngắm bình minh đẹp nhất Quy Nhơn. Từ trên đỉnh núi, du khách sẽ được chiêm ngưỡng toàn cảnh thành phố tuyệt đẹp và đường bờ biển hình móng ngựa vô cùng nổi bật của nơi đây.

Quy Nhơn luôn mang đến cho du khách những trải nghiệm hấp dẫn, từ hải sản tươi ngon và đặc sản địa phương, đến di sản kiến ​​trúc đặc sắc của người Chăm, bảo tàng Tây Sơn hay những bãi biển hoang sơ trải dài hút tầm mắt. Nếu du khách muốn tận hưởng không khí trong lành và rèn luyện sức khỏe thì đi bộ leo núi Xuân Vân chắc chắn là một hoạt động không thể thiếu trong chuyến du lịch khám phá thành phố biển này.

Không lâu sau khi chuyển đến Quy Nhơn vào năm 2015, tôi biết tới câu lạc bộ trekking địa phương. Chúng tôi thường bắt đầu hành trình của mình đúng 5 giờ sáng, khi trời vẫn còn tối đen và tiếng chó sủa là âm thanh duy nhất phá vỡ không gian tĩnh lặng vào lúc này. Xuân Vân luôn là cung đường đi bộ leo núi yêu thích của tôi vì có vị trí thuận lợi, mất sức nhưng không quá khó, và đặc biệt là giây phút đứng trên đỉnh núi và chiêm ngưỡng một vùng “non xanh nước biếc như tranh họa đồ."

Để đến Xuân Vân, du khách nên đi theo con đường dẫn ra mộ của nhà thơ Hàn Mặc Tử ở Ghềnh Ráng. Con đường dẫn qua phần mộ của thi sĩ, một quán cà phê có view biển, rồi đi vào rừng. Du khách có thể đi xe máy hoặc đi bộ tới khu vực này; khi đến gần Quy Hòa, lối vào nằm ở phía bên tay phải. Thị trấn này là nơi Hàn Mặc Tử qua đời và được chôn cất, đồng thời cũng là nơi có trại phong lớn nhất miền Nam.

Từ đường cái rẽ vào, đường lên đỉnh Xuân Vân hiện ra với những bậc thang bằng đá tương đối dốc. Vậy nên không nên đi quá nhanh và cũng không nên đi vào giữa trưa khi mà cái nóng gay gắt lên đến đỉnh điểm. Thời điểm tốt nhất cho hoạt động leo núi là lúc bình minh hay hoàng hôn, và cũng đừng quên tự chuẩn bị bình nước cá nhân vì sẽ không có quán giải khát dọc đường. 

Sau khi mất khoảng 40 phút để leo lên đến đỉnh núi, ta sẽ thấy những chiếc võng được mắc sẵn. Có lẽ bà con địa phương đã hào phóng chuẩn bị để du khách có được những giây phút thư giãn. Ngoài ra, bạn còn được chiêm ngưỡng bức tượng Đức Mẹ đồng trinh với kích thước và trọng lượng dễ khiến người ta choáng váng khi nghĩ đến công sức để vận chuyển tượng lên tận đấy. Không gian quang đãng này sẽ mang lại những góc máy “đắt giá,” đồng thời cũng là một nơi tuyệt vời để tổ chức dã ngoại, bạn chỉ cần chuẩn bị sẵn một ít bia lạnh, trứng cút và vài miếng khô mực làm mồi nhâm nhi.

Việt Nam không có nhiều cung đường đi bộ leo núi, nhất là ở gần các thành phố lớn. Vì thế, tuyến đường Xuân Vân là một nơi lý tưởng mà bạn nên dành vài giờ để khám phá khi có dịp đến Quy Nhơn. Nếu chọn đúng thời điểm, bạn có thể leo lên đỉnh núi để ngắm mặt trời mọc và xuống núi kịp lúc để thưởng thức bữa sáng với món bánh khọt với nước sốt đậu phộng thơm ngon.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightThu, 20 Apr 2023 11:00:00 +0700
Từ Hán tự đến Quốc ngữ, soi lại văn đàn Việt tại Bảo tàng Văn học bị lãng quên ở Hà Nộihttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17400-từ-hán-tự-đến-quốc-ngữ,-soi-lại-văn-đàn-việt-tại-bảo-tàng-văn-học-bị-lãng-quên-ở-hà-nộihttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17400-từ-hán-tự-đến-quốc-ngữ,-soi-lại-văn-đàn-việt-tại-bảo-tàng-văn-học-bị-lãng-quên-ở-hà-nội

Tôi từ từ bẻ lái, rẽ vào con ngõ 275 đường Âu Cơ.

Ở cuối ngõ chính là một tòa nhà mà tôi đang tìm. Tôi có để ý xem đầu ngõ có biển báo gì không, nhưng chẳng thấy tên địa điểm của mình đâu cả. Ngay cả con ngõ cũng bị khuất dưới vai đường đê. Có vẻ những người xây tòa nhà này cũng chả tha thiết người khác có biết đến nó hay không.

Cổng chính của tòa nhà thì đóng, và tôi vẫn không thấy cái biển tên nào. Vào gửi xe rồi tôi mới nhận ra rằng tòa nhà có hai nơi gắn biển “Bảo tàng Văn học Việt Nam” — cái thì bị khuất sau cổng phụ, cái thì nhìn thẳng vào lưng dãy nhà hàng xóm. Cơ hội để người đi đường bắt gặp nơi đây gần như là không. Tôi chỉ biết về cái bảo tàng này vì có một người bạn ngoại quốc ngày xưa từng sống gần đây và từng nhìn thấy chỗ này qua cửa sổ.

Cả bảo tàng có ba tầng. Bước qua cửa chính vào tầng một, tôi thấy một tảng đá to đùng giữa phòng. Tảng đá, chắc cũng giống tôi, không biết nó đang làm gì ở đây. Xung quanh nó không có chú thích gì cả. Dường như tảng đá chỉ có một nhiệm vụ là che khuất ba dòng chữ trên tường.

“Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài!” — Ba dòng đọc chỉ một câu thơ Kiều. Ý nghĩa của trưng bày này thì tôi hiểu. Một bạn nhân viên giải thích rằng ba dòng này thể hiện lịch sử chữ viết Việt Nam, từ chữ Hán, đến Nôm, rồi Quốc ngữ. 

Phải đứng chênh chếch thì mới đọc được câu thơ.

Tầng một là nơi tái hiện khung cảnh văn học Việt Nam thời Cổ-Trung đại. Ở đây trưng bày di vật của những văn nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương — những cái tên từ thiên niên kỷ trước mà vẫn đang sống mãi qua các con phố và trong lòng người. 

Thời các vị múa bút làm chấn động nền thi văn nước Việt đang lệ thuộc vào Đường luật, tính đến nay, ngót nghét đã qua bao cải cách. Ấy mà bảo tàng đã phần nào tái hiện bối cảnh xã hội phong kiến để hiểu thêm về hành trình của một văn sĩ đương thời.

Gian trưng bày về Nguyễn Trãi.

Ở tầng này, cả chặng đường học hành và thi cử ngày xưa như được trải ra trước mắt. Trong buổi thi, mỗi thí sinh trước khi làm bài lại phải tự dựng lều chõng. Các vị giám khảo thì ngồi trên những chiếc ghế như cứu hộ bể bơi, đăm chiêu trông nom bọn sĩ tử ở dưới. Những người đỗ đạt cao thì được dự yến tiệc ở cung đình rồi vinh quy bái tổ. Thế mới biết cái nỗi trọng thi cử ở Việt Nam đã là truyền thống cả ngàn năm rồi.

Trái: Ảnh chụp hội đồng giám khảo coi thi năm 1897 được trưng bày. Phải: Mô hình tái hiện cảnh sĩ tử đi thi.

Tầng hai là nơi trưng bày về các nhà văn đã đoạt giải thưởng Hồ Chí Minh. Ở đây cũng đầy ắp các cái tên quen thuộc như Văn Cao, Xuân Diệu, Vũ Trọng Phụng, v.v. Bên cạnh tiểu sử của mỗi người là những bức tượng bán thân cùng các hiện vật như chiếc xe đạp của Tú Mỡ, cây batoong của Nguyễn Tuân, hay bộ ấm chén của Xuân Diệu.

Không gian trưng bày tầng hai.

Không chỉ giới thiệu về tác giả, tầng hai cũng trưng bày một số nhân vật của những câu chuyện bất hủ. Người xem có thể nhận ra chú dế mèn của Tô Hoài, lão thầy bói trong Số Đỏ của Vũ Trọng Phụng, rồi cả bát cháo hành mà Thị Nở nấu cho Chí Phèo. Những mô hình ấy cũng giúp khách tham quan hiểu hơn về đề tài và cảm hứng của các tác giả, nhất là khi họ đã sống trong thời điểm có sự khác biệt to lớn giữa hai miền Nam, Bắc.

Trái: Tú Mỡ có tiêu chuẩn đi ô tô khi làm đại biểu Quốc hội, nhưng hàng ngày ông vẫn đi xe đạp đi họp.
Phải: Dàn máy đánh chữ của các tác giả hiến tặng bảo tàng

Lên đến tầng ba, nơi trưng bày các nhà văn đoạt giải thưởng Nhà nước, tôi nhận ra hai điều. Thứ nhất, từ tầng một đi lên là đi theo tiến trình của thời gian, từ lúc chữ Quốc ngữ hình thành, qua giai đoạn chiến tranh, rồi đến các tác giả hiện đại. Điều thứ hai, càng lên tầng cao thì số lượng các cái tên quen thuộc càng ít đi. Trong số mấy chục người viết ở tầng ba, tôi nhận ra chỉ có một: Trần Đăng Khoa.

Các hiện vật được trình bày theo tiến trình của thời gian, từ lúc chữ Quốc ngữ hình thành,
qua giai đoạn chiến tranh, rồi đến các tác giả hiện đại.

Rời khỏi bảo tàng tôi vẫn băn khoăn mãi vì sao mình chẳng biết gì về những tác giả thời nay. Có thể chỉ vì cá nhân tôi ít đọc văn học Việt Nam, nhưng khi đi hỏi bạn bè, người thân, thì đa số cũng không nhận ra những cái tên ở tầng ba. Phải chăng là vì hiện giờ văn hóa đọc của nước nhà đang suy thoái? Hay là vì chưa đủ thời gian trôi qua để những cái tên này đi vào lòng người? Chẳng nhẽ thời đại hoàng kim của văn học Việt đã trôi qua rồi sao?

Nhưng có lẽ nói vậy cũng bất công, nếu không muốn nói là thiển cận. Vì giờ vẫn còn những người đang miệt mài sáng tác, như những mẩu truyện của Nguyễn Ngọc Tư, những vần thơ của Nhược Lạc. Khi còn có người viết thì văn sản Việt Nam vẫn còn được làm giàu. Và biết đâu, đến thời con cháu tôi, những cái tên kia sẽ lại được vinh danh trong Bảo tàng Văn học Việt Nam.

Bảo tàng Văn học Việt Nam tọa lạc tại số 275 Âu Cơ, phường Quảng An, quận Tây Hồ, Hà Nội.

]]>
info@saigoneer.com (Linh Phạm. Ảnh: Linh Phạm và Léo-Paul Guyot. Ảnh bìa: Tiên Nguyễn.)In Plain SightWed, 05 Apr 2023 12:00:00 +0700
Nghệ thuật tránh bị 'chém' khi săn đồ ở Chợ đồ cũ Vạn Phúchttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17482-nghệ-thuật-tránh-bị-chém-khi-săn-đồ-ở-chợ-đồ-cũ-vạn-phúchttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17482-nghệ-thuật-tránh-bị-chém-khi-săn-đồ-ở-chợ-đồ-cũ-vạn-phúc

Hôm trước có một người bạn mách tôi ra chợ đồ cũ Vạn Phúc.

Khu chợ nằm ở quận Hà Đông; từ trung tâm thành phố, bắt xe BRT đi 30 phút là đến nơi. Đây quả là một nơi lạ lùng; sự đa dạng của nó hiếm siêu thị nào sánh bằng. Người ta có thể mua từ con dao, cái kéo, đến tượng phật, và thậm chí cả... vũ khí ở đây.

Những gian hàng hỗn tạp ở chợ.

Hàng đầu tiên mà tôi bị lạc vào là của anh Nguyễn Anh Đàm. Tôi bị cuốn hút bởi cây rìu anh bày ngoài cửa, trông nó chẳng khác nào quân dụng của một chiến binh viking để lại. Cây rìu đặt cạnh một thứ như cối xay thịt. Anh Đàm bảo đó đúng là cối xay thật, nhưng mà là xay tay người — một dụng cụ quân đội Pháp dùng để tra tấn tù nhân thời xưa.

Cây rìu bày cạnh cối xay tay.

Anh Đàm kể anh mở hàng ở đây hơn chục năm rồi. “Mỗi cửa hàng ở đây sẽ có nét riêng,” anh kể. “Nói chung người chủ thích cái gì thì hàng sẽ nghiêng về cái đó.” Cửa hàng của anh thiên về những món đồ trang trí hay những thứ để sưu tầm. 

Đối diện với hàng anh Đàm là một cửa hàng cũng chuyên đồ sưu tầm khác, nhưng ở đây chỉ có một loại hàng thôi: xe đạp Peugeot. “Ở đây có hơn 100 cái xe,” anh Bùi Xuân Mai, chủ của hàng nói. “Trung bình từ 10 triệu một chiếc. Có những con đủ đồ, sơn đẹp thì phải tầm 25–26 triệu.”

Anh Mai kể mình mở cửa hàng này chủ yếu là vì đam mê sưu tầm. “Hồi bao cấp, cái xe tương đương như cái nhà mặt đường ấy, rất khó để có được,” anh nói. Chiếc xe đạp vì vậy mà trở thành một kỷ niệm với anh Mai về cái thời khó khăn. “Anh đi sưu tầm các nơi. Biết tỉnh nào có xe là phải lên đường đi mua bằng được. Có những cái xe mua về ngắm nghía nó đến tầm 2, 3 giờ sáng.” 

Phụ kiện xe ở cửa hàng anh Mai.

Đi lòng vòng một hồi rôi tôi cũng chọn mua một con dao phay. Trông nó khá mới và cầm cũng nặng tay. Tôi nâng lên đặt xuống mãi rồi mới hỏi giá. Người bán hàng bảo nó là hàng Nhật bãi, chất lượng rất tốt. Sau một hồi mặc cả thì tôi phải chi 200,000VND để mang nó về nhà.

Ở chợ có rất nhiều đồ gia dụng, đặc biệt là dao bếp.

Về nhà rồi tôi mới biết mình bị chém. Khi tìm con dao trên mạng tôi mới biết đây là đồ Thái, không phải Nhật. Và cái giá tôi trả cũng tương đương với giá mua mới Shopee. Khi nói chuyện với Vũ Thành — một “thợ” săn đồ ở chợ và cũng là người mách tôi đến đây — thì mới biết mình “gà mờ” như thế nào.

“Vì nó là chợ đồ cũ nên anh phải phải rất nghi ngờ món nào [trông] mới,” Thành nói. “Cái thứ hai là nếu nó mới, thì mình lại rất dễ kiểm tra thông tin trên mạng. Có một cái công cụ thần thánh em hay dùng là Google hình ảnh. Mình chụp cái đó lên và tìm những hình ảnh tương tự trên mạng thì nó sẽ cho mình kết quả rất chính xác.”

Nhưng cái công cụ thần thánh đó Thành sẽ chỉ dùng như một nước cuối. “Vì khi anh rút điện thoại ra chụp ảnh để đăng lên, thì người bán biết anh đang rất thích món đó. Và họ sẽ có chiến thuật để trả giá cho anh. Nên việc mình tìm kiếm thông tin về món đồ, làm thế nào để nó diễn ra càng bí mật càng tốt và phải càng kín đáo càng tốt.”

Có lẽ lúc tìm thông tin tốt nhất là khi người bán đang ngủ.

Khi tìm được một món đồ ưng ý và biết thông tin về nó, Thành sẽ áp dụng “tư duy hệ thống” để xem xét tỉ mỉ cấu tạo cũng như công năng của đồ vật. “Và quan trọng là mình tìm điểm trừ của nó để mình có lợi thế khi mặc cả với người bán.”

Đi chợ cũng là một nghệ thuật.

Bước mặc cả cũng rất phức tạp. Tùy món đồ mà Thành sẽ hỏi giá trước hoặc sau khi kiểm tra nó. Rồi tùy người bán mà cậu cũng sẽ có những câu trả giá khác nhau. Cậu phân tích cho tôi một hồi rồi chốt lại một câu: “Tốt nhất là hôm nào em đưa anh đi chợ.”

Hôm ở chợ tôi để ý thấy đủ loại người đi mua, từ các thợ săn đồ để bán lại, các bác trung niên đi tìm hoài niệm, đến những cặp đôi trẻ đi hẹn hò. Tôi cũng tự nhủ hôm nào phải đưa gia đình đến đây vì ở chợ sẽ có đồ cho tất cả mọi người. Và nếu được đi cùng một người thợ thì sẽ không lo bị chém mà lại học được tí chút về nghệ thuật săn đồ.

]]>
info@saigoneer.com (Linh Phạm. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightFri, 31 Mar 2023 11:00:00 +0700
Bảo tàng gốm Bát Tràng: độc đáo, tinh xảo, nhưng thiếu thông tinhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17475-bảo-tàng-gốm-bát-tràng-độc-đáo,-tinh-xảo,-nhưng-thiếu-thông-tinhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17475-bảo-tàng-gốm-bát-tràng-độc-đáo,-tinh-xảo,-nhưng-thiếu-thông-tin

Ở Bảo tàng gốm Bát Tràng, những di sản văn hóa của ngôi làng nghề trăm năm được lưu giữ và giới thiệu qua các tác phẩm đặc sắc của các nghệ nhân từ xưa đến nay.

Để đi từ Hà Nội đến Bát Tràng, tôi phải mất khoảng 30 phút ngồi xe cho quãng đường 20km. Hành trình đưa tôi đến với Làng gốm Bát Tràng, nơi nghề làm gốm sứ truyền thống đã tồn tại từ thế kỷ 14.

Ngày nay, người dân nơi đây vẫn tận tụy với cái nghiệp mà tổ tiên truyền lại. Hầu như tất cả các hộ trong làng vẫn đang tham gia công việc sản xuất và quảng bá các sản phẩm gốm sứ. Dạo một vòng quanh những con đường của ngôi làng, tôi bị mê hoặc bởi những gam màu rực rỡ của những hàng chum nhiều hình dáng và kích cỡ khác nhau.

Mặt tiền độc đáo của bảo tàng.

Nhìn từ xa, bảo tàng gốm sứ của ngôi làng nổi bật với kiến trúc độc đáo. Mặt tiền của công trình mang sắc nâu của đất sét, với những đường cong gợi lên dáng hình của bình hoa được xếp lớp lên nhau. Một thiết kế tương phản với vẻ vuông vức thường thấy ở những ngôi nhà ống Việt Nam.

Các kiến trúc sư đã lấy cảm hứng từ chiếc bàn xoay làm gốm của các nghệ nhân, nhưng trong mắt tôi, công trình lại mang dáng dấp của lò nung truyền thống. Bên trong bảo tàng là những bờ tường uốn lượn như dãy hẻm núi, với các gian hàng thủ công mỹ nghệ được bố trí ở các góc tòa nhà.

Đĩa tráng men từ thời nhà Trần giai đoạn thế kỉ 14.

Những hiện vật đầu tiên mà khu triển lãm trưng bày là các sản phẩm gốm sứ từ thế kỷ thứ 10 đến 19 — nhằm mục đích giới thiệu cho công chúng về sự quan trọng của nghệ thuật gốm sứ trong lịch sử văn hóa Việt Nam. Điểm nhấn của gian triển lãm là mô hình tinh xảo mô phỏng hình ảnh con thuyền đã mang những người khai phá đầu tiên đến vùng đất Bát Tràng.

Mô hình các dạng lò nung khác nhau, và chiếc xe đạp được dùng để vận chuyển gốm sứ thành phẩm.

Sau vài phút dạo quanh, tôi nhận ra một điều: hiện vật trưng bày ở đây rất đẹp, nhưng du khách như tôi sẽ chẳng học được gì vì không hề có các thông tin đi kèm. Không có hướng dẫn nào về lịch sử của vùng đất và những cột mốc quan trọng, không có mô tả nào về quy trình nung gốm, và cũng không có lời giải thích nào về các hoa văn trên gốm sứ.

Bộ sưu tập sản phẩm gốm sứ mới nhất từ bàn tay các hộ gia đình trong làng.

Tôi thấy một phòng triển lãm dành riêng cho một người tên là Lê Văn Vân. Nhìn vào bàn thờ trang trọng, tôi suy đoán rằng cụ ắt hẳn phải là một nhân vật quan trọng với lịch sử nơi đây. Nhưng lại vì thiếu thông tin, tôi chẳng học được gì về đóng góp của cụ cho việc phát triển nghề thủ công nơi đây.

Tôi đành mon men dọc theo một hành lang khác, nơi trưng bày các loại sản phẩm gốm sứ đa dạng được sản xuất bởi các hộ gia đình trong làng. Tại đây, du khách có thể ngắm nhìn những bình hoa màu sắc, được tạo tác theo những kiểu dáng và phong cách khác nhau, thể hiện được cách các nghệ nhân của ngôi làng biến hóa đa dạng trong sản phẩm sáng tạo của mình.

Một số mẫu quặng đất sau khi nung và and các công cụ dùng để tạo hình đất sét.

Điều làm tôi thấy thú vị nhất về làng gốm Bát Tràng chính là là khả năng thích nghi và tiến hóa của sản phẩm gốm sứ để bắt nhịp với những thay đổi trong thị hiếu đương thời, để phục vụ cả khách nước ngoài lẫn người Việt. Từ những tác phẩm hiện đại, với những đường nét sáng tạo và màu sắc đơn giản, đến các sản phẩm gốm sứ trang trí tinh tế hơn. Ai cũng có thể tìm được một tạo vật cho riêng mình ở làng gốm Bát Tràng.

Đáng tiếc, chuyến tham quan của tôi phải kết thúc một cách đột ngột. Khách viếng thăm phải mua thêm vé riêng để được vào khu triển lãm nghệ thuật đương đại ở tầng trên — một điều không nhân viên nào báo trước với tôi.

Các du khách thử sức với hoạt động làm gốm.

May mắn thay, tầng hầm của tòa nhà đã vớt vát lại phần nào chuyến đi của tôi. Tại đây, các vị khách có thể thử tài làm gốm sứ với giá chỉ 70.000 VND dưới sự chỉ dẫn của chính các nghệ nhân Bát Tràng. Các em nhỏ cũng có thể vui chơi bằng cách tô màu trên các sản phẩm gốm sứ.

Không gian một mái hiên bên ngoài bảo tàng.

Bảo tàng không mang đến quá nhiều thông tin hữu ích về bề dày lịch sử của làng gốm Bát Tràng, nhưng kiến trúc đặc sắc cùng bộ sưu tập gốm sứ tinh xảo vẫn khiến nơi đây là điểm dừng chân thú vị cho các du khách. Hoạt động của bảo tàng chủ yếu mang tính thương mại, nhưng vẫn phần nào đó tôn vinh được sự khéo léo và tài năng của cộng đồng nghệ nhân nơi đây.

Bảo tàng gốm Bát Tràng tọa lạc tại số 28, thôn 5, đường Bát Tràng, huyện Gia Lâm, Hà Nội.

]]>
info@saigoneer.com (Léo-Paul Guyot. Ảnh: Léo-Paul Guyot.)In Plain SightThu, 16 Mar 2023 10:00:00 +0700
Bí kíp xem bóng đá lần đầu ở sân vận động Hàng Đẫy https://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17471-bí-kíp-xem-bóng-đá-lần-đầu-ở-sân-vận-động-hàng-đẫyhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17471-bí-kíp-xem-bóng-đá-lần-đầu-ở-sân-vận-động-hàng-đẫy

“Nhà nước bán 100.000VND. Đưa cô 150.000VND nhớ. Cổng 3, ở ngay giữa.”

Người phụ nữ vừa nói, vừa huơ tấm vé vào mặt tôi; tôi ngập ngừng. Đây sẽ là lần đầu tiên tôi đến sân vận động Hàng Đẫy, cũng là lần đầu đi xem một trận bóng đá ngoài sân. Hôm đó, FC Hà Nội, thành phố của tôi, sẽ đá với FC Thanh Hóa. Hai đội đang cùng chia nhau vị trí đầu bảng của giải đấu, nên đây là trận cầu mà tôi không muốn bỏ lỡ. Một ngày trước khi trận đấu diễn ra, tôi lò dò ra sân mua vé, nhưng chẳng tìm được cái quầy vé nằm đâu. Tôi chỉ thấy có hai người phụ nữ — hai cô phe vé — ngồi trên cái ghế nhựa, chờ con mồi đi qua.

Không khí về đêm ngoài sân vân động trước trận đấu.

“Thôi cho cháu 220.000VND hai vé nhé?” Tôi sẽ đi cùng ông bạn bay tận từ Sài Gòn ra Hà Nội, nên tôi thử chiêu mua sỉ để mặc cả, nhưng không ép phê gì. Cô ấy chẳng buồn trả lời mà quay đi luôn. Nhưng cô phe vé số hai đóng vai quân sư: “Tiền đó thì bán cho cháu nó vé cổng 4 đi.”

Cổ động viên của FC Thanh Hóa khuấy động không khí trước trận.

“Rồi, đây!” Cô phe vé số một lầm bầm. “Cổng 4, mua đi để cô có tiền ăn sáng. Khán đài A hay B?”

“Bên nào là Hà Nội?” Vì là lần đầu, tôi muốn ngôi chung với các fan Hà Nội để được trải nghiệm cảm giác đi cổ vũ đội nhà.

“Tất nhiên là A rồi!” Vậy là cuộc giao thương chấm dứt. Con mồi đã vào tròng.

Xe buýt đưa cổ động viên FC Thanh Hóa đến Hà Nội.

Ngày hôm sau, tôi và ông bạn ra sân sớm vì muốn cảm nhận bầu không khí quanh sân trước trận. Nhưng chưa gì tôi đã thấy hụt hẫng. Những người hâm mộ cuồng nhiệt nhất của cả hai đội, với những lá cờ và lời reo hò khản cổ, đều ngồi bên khán đài B. Từ ngoài sân mà chúng tôi vẫn cảm nhận được nhịp trống hừng hực của họ. Tôi trân trân nhìn khán đài B, tự hỏi không biết có nên mua lại một cặp vé khác không. Nhưng ông bạn tôi an ủi rằng thôi không sao đâu, và chúng tôi ra cửa của mình.

Cổ động viên FC Hà Nội mua đồ ăn vặt trước khi vào sân.

Ở cổng 3, tôi đưa cặp vé cho cậu nhân viên soát vé. Cậu quét tờ vé, nhìn tôi, quét lại lần nữa, rồi hỏi: “Anh mua vé này ở đâu thế ạ?”

“Anh mua của mấy cô ngoài kia hôm qua.”

“Vé giả rồi anh ạ.” Cậu cho tôi xem dòng chữ màu đỏ trên máy đọc vé.

Lối vào sân vận động.

Vì một lí do nào đó mà tôi chẳng thấy ngạc nhiên hay tức giận, chỉ thấy bùi ngùi. Có vẻ như chúng tôi sẽ không được trải nghiệm hôm nay. Tôi và ông bạn đang bàn nhau nên làm gì tiếp thì một cậu trai cạnh bên quay qua nói: “Có vé đây anh, em kỷ niệm.” Chúng tôi sốc không nói nên lời. Cậu trai tốt bụng nhét cặp vé vào tay chúng tôi với nụ một nụ cười. Lúc đấy cậu đeo khẩu trang, nhưng tôi chắc chắn cậu đang cười. Chúng tôi rốt rít cảm ơn, và a lê hấp, tự tin bước vào sân.

Anh cổ động viên giàu lòng nhân ái nhất Hà Nội đã tặng vé cho chúng tôi.

Khán đài B hiện ra trước mắt chúng tôi. Hầu hết khán giả ở đây đều mặc một trong hai màu: tím, của FC Hà Nội, và vàng, của FC Thanh Hóa. Các lá cờ tung bay phất phới trên khắp khán đài. Và kia là dàn trống Hà Nội: tổng cộng mười chiếc, cái loại người ta đánh báo hiệu trong trường học. Cổ động viên Thanh Hóa cũng mang theo trống, không nhiều bằng Hà Nội nhưng họ chơi bốc lửa không kém. Mười lăm phút trước khi bắt đầu trận đấu, phía Thanh Hóa đã đốt quả pháo đầu tiên, những tia lửa phun lên trời như dòng nước bạc lấp lánh.

Còn ở khán đài của chúng tôi, mọi người mặc đủ loại màu sắc. Ở bên này, mọi người có vẻ ít hào hứng hơn, nhưng tôi vẫn có thể cảm nhận được sự hồi hộp — cái chờ đợi của mấy ngàn con tim cùng chung một nhịp. Một điều mà nếu xem ở nhà một mình tôi sẽ không bao giờ cảm nhận được.

"Tự hào Hà Nội."

Không lâu sau, các cầu thủ ra sân trong bộ đồng phục cùng màu với người hâm mộ của mình. Người dẫn chương trình cất tiếng mời mọi người trên khán đài đứng lên hát quốc ca. Tôi cất giọng hát — "Đoàn quân Việt Nam đi, chung lòng cứu quốc..." — với một sự tha thiết đến lạ. Sau đó, trọng tài nổi còi, và trận đấu chính thức bắt đầu.

Cả khán đài hát quốc ca.

Cổng 4 nằm gần cột gôn bên trái, khung thành của FC Hà Nội trong hiệp một. Chưa đầy năm phút, người hâm mộ Hà Nội đã có một phe hết hồn. Hậu vệ của chúng tôi chuyền bóng hơi nhẹ cho thủ môn, tiền đạo đối phương xông lên để cố cắt bóng May mắn thay, thủ môn của chúng tôi chơi xuất thần và đá bóng lên kịp thời.

Dàn trống với cờ Hà Nội

Phần lớn hiệp một, đội khách kiểm soát bóng nhiều hơn chúng tôi. Và kể cả khi có bóng, cầu thủ FC Hà Nội cũng chẳng làm được gì nhiều ngoài việc để mất bóng tiếp cho FC Thanh Hóa. Tỉ số vẫn là 0-0; nếu đang ngồi ở nhà, có lẽ tôi đã mất hứng và ngồi lướt điện thoại từ lâu. Nhưng ở đây, tại sân vận động, tôi thấy mình khua tay la hét chỉ dẫn cứ như là môt huấn luyện viên: "Sang phải đi!" "Việt vị rồi!" "Sút đi, giời ơi!"

Một pha xử lý bóng.

Bất ngờ, một giọng nói phía sau nhảy vảo: “Thanh Hóa đá chắc quá. Mình không triển khai được!"

"Cứ đá đá kiểu này thì chỉ hòa là may rồi," tôi nói.

"Hòa là may rồi," người lạ gật gù với tôi. “Nếu hòa được thì thủ môn là hay nhất trận.”

Các nhân viên sân vận động túc trực trên khán đài để đảm bảo an ninh và sơ cứu y tế.

Công nhận vậy, đến giờ thủ môn của chúng tôi đã cứu thua hai bàn thua rồi. Đồng thời, tôi cũng nhận ra rằng xem đá bóng ở sân thế này lại vui, vì còn có người bình luận cùng. Xuyên suốt hiệp một, chúng tôi liên tục chém gió với nhau. Tôi vẫn chưa quay lại để xem nãy giờ mình đang ngồi buôn dưa với ai.

Chỉ khi nghỉ giữa hiệp, tôi mới biết mặt người đồng bình luận viên của mình, Thế Anh. Đây cũng là lần đầu tiên cậu đến sân vận động Hàng Đẫy; cậu và anh trai đã đưa bố mẹ đến xem trận đấu. "Mẹ em cũng chả xem bóng đá bao giờ đâu, dắt bà ra đây cho vui thôi," cậu chia sẻ. "Bố em thì thường xem ở nhà. Bây giờ ông nghỉ hưu rồi nên không có gì làm. Thế là hai anh em đưa ông ra đây khi có trận Hà Nội để giải khuây."

Những cung bậc cảm xúc thăng hoa trên khán đài.

Hiệp hai đến rồi đi. Vẫn không ai ghi bàn; thủ môn của chúng tôi tiếp tục cứu rỗi khung thành mấy lần nữa. Trận đấu hòa những tôi thấy rất vui. Ông bạn tôi bảo chưa bao giờ thấy tôi “máu” đến như vậy. Đúng là tôi chưa từng cảm thấy thế này bao giờ. Nó là thứ cảm giác được chia sẻ một cái gì đó với ông bạn, với Thế Anh và gia đình, với hơn 7.000 người ở khán đài hôm đó.

Chúc mừng FC Thanh Hóa vì một trận cầu mãn nhãn.

Giải đấu V-league hiện đang tạm nghỉ cho đến tháng 4. Khi mùa giải quay trở lại, tôi mong lại có dịp đi xem một trận đấu khác. Thế Anh chỉ tôi cách mua vé online, nên “phe queo” nhé, quân phe vé. Lần sau, có lẽ tôi sẽ chọn khán đài B.

]]>
info@saigoneer.com (Linh Phạm. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightThu, 09 Mar 2023 11:00:00 +0700
Lượm lặt niềm vui và những thổ lộ về Sài Gòn trên tuyến buýt đường sông kỳ lạ https://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17189-lượm-lặt-niềm-vui-và-thổ-lộ-về-sài-gòn-trên-tuyến-buýt-đường-sông-kỳ-lạhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17189-lượm-lặt-niềm-vui-và-thổ-lộ-về-sài-gòn-trên-tuyến-buýt-đường-sông-kỳ-lạ

Xi măng, đất sét, vôi vữa, và thạch cao, trụ thép, ống nước, ván gỗ và những vệt sơn nguệch ngoạc: khi giương mắt ngắm nhìn những tòa nhà xuyên thấu trời cao, tôi thấy mình rơi vào một vòng xoáy chiêm nghiệm về những cái tôi to lớn, bởi suy cho cùng, sự hào nhoáng ấy được đắp xây bởi những gì?

Lời từ ban biên tập: Bài viết được đăng tải lần đầu vào năm 2022. Một số chi tiết trong bài viết có thể đã thay đổi ở thời điểm hiện tại.

Tháng trước, trong một lần lò dò đến bến buýt đường sông Saigon Waterbus ở Bạch Đằng, băng qua công trường xây dựng không rào chắn, tôi tự bảo bản thân phải dẹp cái tôi của mình qua một bên: chính tôi cũng không có khả năng thiết kế, lắp đặt và điều hành phương tiện đưa đón hành khách trên sông Sài Gòn, thì tôi có quyền gì để chê bai người đã làm được điều đó?

Và cũng phải nói, tôi không phải là một chuyên gia giao thông, cũng chẳng có trong tay kinh phí dự trù ban đầu lên đến khoảng 120 tỷ VND (5,28 triệu USD). Nhưng "thuốc đắng giã tật, sự thật mất lòng." Dù có bao tâm tình muốn thổ lộ với xe buýt đường sông Waterbus, trước hết tôi phải nói ra những lời không mấy ngọt ngào.

Nói một cách thẳng thắn thì hệ thống Waterbus của Sài Gòn là một sự thất bại toàn tập, nếu đem so với những dự định hoành tráng mà người ta vạch ra cho nó.

Năm 2017, kế hoạch xây dựng tuyến xe buýt đường sông lần đầu được công bố, toàn bộ hành trình sẽ trải dài 10,8km và đi qua chín trạm ở quận 1, quận 2, Thủ Đức, và Bình Thạnh. Tuyến thứ hai đi hướng Đông-Tây, theo đề xuất, sẽ được triển khai với 11 trạm dọc kênh Tàu Hũ, còn tuyến thứ ba sẽ nối dài khu vực quận 7 với trung tâm thành phố.

Thường Nhật, công ty điều hành Waterbus, đã khẳng định chắc nịch rằng xe buýt đường thủy sẽ giúp giảm tải ùn tắc giao thông, mang đến cho người dân một phương tiện đi làm, đi học hàng ngày tiện lợi hơn. Thế là người Sài Gòn ai nấy đều mừng rỡ, một phần vì không còn phải chịu cảnh hít khói bụi vì kẹt xe giờ tan tầm, phần khác vì thành phố nay đã có thêm một cảnh quan duyên dáng mới, phục vụ người dân Sài Thành lẫn du khách.

Thực tế phũ phàng

Vào thời điểm thực hiện bài viết, Bến Bạch Đằng đang trải qua một cuộc đại trùng tu, nên khi đến đây, tôi đã phải vượt qua một dãy chướng ngại vật: nào máy trộn xi-măng, nào xe cút kít, nào tia lửa hàn bắn chí choé, nào hàng rào chắn như trường thi điền kinh giăng khắp vỉa hè.

Bến cách nhà tôi một quãng không xa, tôi cũng đã nhẵn mặt với khói bụi công trường sau nhiều năm ở Sài Gòn, nên mấy phút cuốc bộ của tôi đến đó không có gì vất vả. Chuyến đi của đồng nghiệp tôi thì không nhẹ nhàng như vậy — nó hé lộ ít nhiều về những vướng mắc tồn động trong hệ thống Waterbus sau hơn bốn năm hoạt động.

Mỗi bến Waterbus đều có một cột thông tin giới thiệu các trạm trong tuyến, cạnh tên trạm sẽ có đèn báo hiệu để hành khách biết mình đang ở đâu trên hành trình; đây là là một chức năng cơ bản của bất kỳ loại hình giao thông công cộng nào. Thế nhưng từ lâu, ánh đèn đã tắt lịm trên bảng thông báo của một số bến. Chẳng hạn, bến Bình An, lựa chọn thuận tiện nhất cho cư dân Thảo Điền, đã ngừng hoạt động trong nhiều tháng. Nếu có ghé thăm bến, bạn sẽ thấy nhiều tàu thuyền đang neo đậu, nhưng bản thân trạm Waterbus đã bị che lấp bởi mớ ngổn ngang từ các vật liệu xây dựng.

Website và trang Facebook của hệ thống Waterbus hoàn toàn không đả động gì đến việc này. Không có một thông báo nào được đăng tải để thông tin đến hành khách, rằng mới chỉ có bốn trạm đi vào hoạt động trở lại sau bốn tháng đóng cửa vì giãn cách. Các bài cập đăng vẫn chia sẻ những lịch trình cũ, sai lệch. Không có một diễn biến mới nào được cập nhật, nói gì đến tin  tức mới nhất về những tuyến mới, hay những trạm trong quy hoạch cho tuyến đầu tiên. 

Khi chúng tôi liên lạc và hỏi về bến Bình An, đại diện của Waterbus cho biết công ty sẽ cập nhật thông tin khi bến mở cửa trở lại, dù chưa bao giờ công khai thông báo rằng bến đã đóng cửa. Thế rồi, để không lỡ chuyến xe đường thủy, đồng nghiệp tôi phải bắt một cuốc Grab từ quận 2 đến bến Bạch Đằng. Một trải nghiệm di dịch gian nan, tốn kém hơn rất nhiều so với những gì dự án Waterbus hứa hẹn.

Hôm đấy là sáng thứ Sáu, nhưng trên Waterbus không có bóng dáng của vị doanh nhân “dậy sớm để thành công,” tay cầm vali, tay nhắn KPI, SEO, ROI… nào. Thay vào đấy, khoang hành khách được lấp đầy bởi những cô cậu sinh viên, bước lên đây để tìm niềm vui đơn thuần. Họ chụp selfie, cười nói, trò chuyện, và ngồi đến trạm cuối cùng, chỉ rời bước khi tàu đã cập bến ở quận 1, cũng là nơi chúng tôi khởi hành.

Mà ai lại muốn xuống giữa chừng, khi tàu có không gian yên tĩnh, ghế ngồi êm ái, chiếc view đắt giá, và bầu không khí hòa nhã thế kia?

Trải nghiệm của những hành khách hôm đó không phải là độc nhất. Bản thân tôi cũng đã từng bước lên Waterbus nhiều lần chỉ để vi vu cùng bạn bè, gặp gỡ một đối tượng hẹn hò, hoặc đơn giản là tìm một chốn thay đổi không khí để ngồi đọc sách. Tôi không tìm đến phương tiện này vì nhu cầu xê dịch, và tôi chắc mẩm rằng không có hành khách nào dùng Waterbus chỉ để đi lại. Tuyến xe đường thủy giờ đã biến hình thành một phòng chứa bí mật để mọi người hội họp trong những giờ rảnh rỗi, không khác chi các quán bar, quán cafe hay công viên.

Chính công ty Thường Nhật cũng phần nào thừa nhận điều này, bởi theo số liệu, thời gian đông khách nhất thường rơi vào cuối tuần. Như một lời khẳng định đóng đinh, rằng Waterbus là một tụ điểm vui chơi trá hình hơn là một phương tiện giao thông, ban điều hành còn cho ra mắt dịch vụ buýt sông ban đêm, nơi hành khách được phục vụ cả âm nhạc và đồ uống có cồn, những điều chắc chắn không xuất hiện trong chuyến xe buýt hàng ngày.

Sài Gòn từ phía bên kia

Nếu tạm bỏ qua sự nhạt nhòa của xe buýt sông trong hệ sinh thái phương tiện Sài Gòn, và xem nó như một chốn bồng lai tiên cảnh giữa phố xá chật hẹp, thì Waterbus không hẳn là một ý tưởng tồi, thậm chí là một sáng kiến khá hay. Bởi qua mỗi chuyến đi, hành khách lại có thêm cơ hội để ngắm nhìn thành phố quen thuộc từ những góc độ rất khác.

Ngay khi chuyến thuyền của tôi rời bến, tôi đã sớm quên đi hình ảnh công trường lộn xộn trước đó. Để rồi, khi chúng tôi đi ngược hướng sông, cầu Thủ Thiêm 2 bắt đầu hiện ra trong tầm mắt. Vấp phải không biết bao nhiêu lần trì hoãn, cây cầu dần hiện lên như một kỳ quan sau khi khiến người dân hồi hộp chờ đợi sau gần một thập kỷ. Cầu được cân bằng lơ lửng giữa hai ngọn tháp cao, các sợi cáp cố định được dăng ngang như bộ xương của một con cá hảo hạng sau khi được đánh chén gọn gàng. Và khi thuyền lướt bên dưới công trình, tôi không khỏi bị choáng ngợp bởi kích thước đồ sộ và kết cấu phức tạp của cây cầu. Và đây là minh chứng cho tiềm năng phát triển của thành phố.

Không lâu sau khi qua cầu, chúng tôi chạm trán với Landmark 81, tòa cao ốc vuông vức với thiết kế nhiều phần nhàm chán. Là "bông hậu" của dàn cao tầng Sài Gòn, tòa nhà cao nhất Đông Nam Á hiện ra còn sừng sững hơn khi dung nhan được chiêm ngưỡng từ mặt sóng. Khối kiến trúc khá đơn điệu này, cùng với các tòa dân cư Vinhomes Central Park là một nỗ lực học hỏi và cạnh tranh của Việt Nam với những nền kinh tế thành công trong khu vực như Singapore và Malaysia.

Trong khi tòa Landmark 81 đánh đổi giá trị thẩm mỹ để có kích thước kỷ lục và thu hút các thương hiệu quốc tế đắt đỏ tới khu trung tâm thương mại, khu dân cư kế bên sở hữu công viên mô phỏng thiết kế của Garden by the Bay nổi tiếng của Singapore. Nhưng thiếu thảm thực vật xanh của khu phố Supertree, công viên của Central Park trông có vẻ buồn tẻ, nếu không muốn nói là vô hồn.

Trước đó, một số chiến dịch của thành phố, chẳng hạn như chiến dịch dọn dẹp vỉa hè, đã nhận chỉ trích vì “triệt hạ” một nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam chỉ để bắt kịp, để vượt mặt những quốc gia khác. Những công trình ở Vinhomes Central Park nhắc nhở cho chúng ta rằng: hãy cẩn trọng với những nỗ lực như vậy. 

Công viên Vinhomes Central Park còn có bến cảng riêng, nơi hàng chục chuyến du thuyền neo đậu. Mỗi chiếc đều được trang bị rạp chiếu phim, quầy bar với rượu thượng hạng, đầu bếp phục vụ cho những thực khách thượng lưu. Với những ai phải ở thuê ở trọ, ăn mì gói thay cơm bữa, và lê bước qua mưa bão vì không có tiền đi taxi, cuộc sống trên những chiếc du thuyền này là cái gì đó quá xa vời.

Ngoài ra, Waterbus còn mở lối cho chúng tôi ngó vào thế giới của nhiều sự xa hoa khác: những dinh thự đồ sộ, những bãi cỏ cắt tỉa tỉ mỉ trang trí bằng tượng đủ hình thù, những chiếc siêu xe đời mới, những ban công thiết kế kỳ công, hồ bơi và những bến đậu du thuyền riêng. Ẩn mình sau vài ba cánh cổng cao kều, những cảnh vật này hiếm khi diện kiến đôi mắt của người phàm như tôi, trừ khi có sự trợ giúp của chiếc Waterbus chạy song song bờ kè quận 2 này.

Ở đối diện bờ sông là một thế giới hoàn toàn trái ngược với những gì tôi vừa chứng kiến: những ngôi nhà nhỏ hẹp, lộn xộn màu sắc, nằm ngổn ngang như thể đang trực chờ đổ ập xuống mặt sông. Cuộc sống nơi đây như đập vào mắt tôi: họ đánh cá, treo đồ giặt và rửa bát, nước đục dội lên nhà của họ, một mớ lục bình chất đầy túi bỏ đi, thùng xốp, lon bia và thùng rác rách nát không thể nhận ra. Câu chuyện về “Sài Gòn hoa lệ, hoa cho người giàu, lệ cho người nghèo” là một câu chuyện cũ rích mà ai cũng thuộc nằm lòng, nhưng hành trình trên Waterbus phơi bày thực tế này một cách rõ ràng hơn bao giờ hết.

Nếu phải phỏng đoán vì sao gia tài các chủ biệt thự kia kếch sù đến vậy, ai đó có thể chỉ tay đến những chiếc sà lan chở đầy cát và sỏi đang chạy chậm chậm trên sông. Được khai thác và vận chuyển từ Đồng bằng sông Cửu Long, những nguyên liệu thô cho các tòa nhà chọc trời, đường xá, khu nghỉ dưỡng và các dự án thúc đẩy kinh tế đô thị, cũng chính là thủ phạm gây gia tăng xói mòn, lũ lụt và suy thoái nước ở các vùng nông thôn nghèo khó. Chẳng phải tác giả Mary Ruefle đã nói: “Thế giới công nghiệp hủy diệt thiên nhiên chẳng phải vì không trân quý nó, mà là vì không sợ nó," hay sao?

Nhưng không chỉ có sà lan chở đất đá, Waterbus còn chung lối với nhiều chiếc ghe nhỏ, hay được sử dụng để vận chuyển nông sản. Chủ thuyền thường ngụ luôn trên thuyền, nên sinh hoạt hàng ngày của họ cũng trở thành show diễn cho những hành khách vụt qua. Một khu vườn tạm bợ ở khoang sau, một vài chú chó nằm ườn, bên cạnh là nhiều loại xoong, chảo và dụng cụ nấu ăn, mấy bộ quần áo tung bay trong gió, những chiếc võng, một vài quyển sách, và một chiếc điện thoại đang sạc. Trước lúc giãn cách vì COVID-19, tôi từng tự hỏi cuộc sống như vậy có phải cô đơn và phong trần lắm không. Và giờ, tôi đã có câu trả lời.

Khỏa lấp chốn lặng yên

“Trí tưởng tượng của ta vút bay – để lại bóng hình ta trên mặt đất.”
― Vladimir Nabokov

Tất nhiên, người ta không đi Waterbus chỉ để suy ngẫm về chênh lệch giàu nghèo hay tiềm năng kiến trúc của thành phố. Waterbus có thể là nhiều thứ khác  — một hoạt động ngoài trời, một địa điểm công cộng; nhưng cũng có thể mang lại sự yên tĩnh mà bạn cần để thả hồn, và khám phá những chân trời mới trong cái cũ.

Nghĩ mà xem, dù bạn đã sống ở Sài Gòn bao lâu, vẫn có vô vàn những ngõ ngách để khám phá, những kẽ hở để “cắm rễ.” Điều gì ẩn nấp sau những con hẻm vắng vẻ, trú ẩn dưới những mái hiên và lạo xạo sau những cánh cổng? Mở mắt, và mở lòng ra, liệu bạn sẽ tìm thấy... Một loại cây mà bạn chưa từng thấy mọc trong sân nhà thờ? Một cửa hàng nhỏ vô tình bán một loài chim hoặc rùa có nguy cơ tuyệt chủng? Một xe cơm tấm với công thức chấm ngon thần sầu nhưng chẳng mấy ai biết đến? Có lẽ là một người bạn thân hoặc người yêu mới?

À không. Mấy thứ này thì quá tầm của Waterbus rồi.

Với chuyến xe đường sông, điều bạn có thể làm là xuống một trạm bất kỳ, đi tham qua một khu vực mà bạn chưa từng ghé thăm trước đây; hoặc bạn có thể ở lại trên thuyền, để trí tưởng tượng của bạn bay đến đó, và mua về vài món đồ lưu niệm trên thuyền: bưu thiếp, móc khóa hay nam châm tủ lạnh.

Hoặc là, bạn có thể chơi một trò chơi. Khi ngồi trên Waterbus, tôi bỗng nhớ lại những kỉ niệm thời thơ ấu, khi cùng gia đình đi chơi xa bằng xe hơi. Để tôi và các anh chị em ngừng nói líu lo, cha mẹ đưa cho chúng tôi một danh các sự vật, chúng tôi phải tập trung nhìn ra cửa sổ tìm ra chúng. Người tìm ra trước sẽ được thưởng một món quà nhỏ. Hành khách Waterbus cũng có thể giữ mình bận rộn bằng cách như vậy. Một vài thứ mà tôi muốn gợi ý cho độc giả là:

  • Một ai đó vẫy tay chào bạn khi bạn vẫy tay chào họ
  • Một đoạn sông bạn muốn bơi thử (nhưng đừng bơi nhé)
  • Một mảng dầu loang lấp la lấp lánh như ánh bình minh
  • Một mảnh vườn trồng rau củ hoặc hoa quả
  • Một miếng nhựa mồ côi sắp trôi dạt ra biển
  • Một con vật nào đấy còn sống (chim, cá bướm, v.v)
  • Một con vật xấu số nào đấy chết trôi sông (chim, cá, bướm, v.v.)
  • Một công trình bị bỏ hoang
  • Một công trình sắp khánh thành

Điểm dừng cuối cùng của tuyến Waterbus ở kế bên một trong những bến phà cuối cùng của thành phố. Người làm đủ nghề ngồi trên xe máy, xe vận chuyển hàng hóa và nhiều loại phương tiện vận tải khác nối đuôi nhau lên phà băng qua sông, rồi hòa mình vào nhịp điệu của phố thị chỉ vài phút sau đó. Phà từng là phương tiện phổ biến, nhưng giờ đã rơi vào quên lãng với đại đa phần người dân. Tôi tự hỏi, khi di chuyển trên "hậu bối" của phà là Waterbus, có hành khách nào thấy rung động mà lội ngược dòng ký ức, về một Sài Gòn trước khi những cây cầu nối liền bờ sông, khi những chuyến phà còn chạy qua chợ nổi.

Khi Thủ Thiêm còn là một vùng đầm lầy, và chân trời thành phố chưa cao vút như bây giờ. Khi người ta còn viết cho nhau thư tay, để rồi trong ngóng những tuần dài. Khi lá chuối còn được dùng để gói đồ ăn, và không một dòng chữ tiếng Anh nào xuất hiện trên bảng quảng cáo. Khi mọi người hát thâu đêm suốt sáng, chẳng cần có micro hay bản nhạc đi kèm. Khi ngày qua ngày, chẳng còn gì ngoài những giọng ca mong manh, văng vẳng giữa từng ngụm rượu gạo. Khi Sài Gòn chưa là gì ngoài một thị trấn tỉnh lẻ, đang dần chật kín người tới tìm kế sinh nhai. Khi sự ra đời của một chiếc thuyền có động cơ là một điều kỳ diệu, đến mức mọi người xếp hàng để cưỡi nó tới lui, tới lui, tới lui, không quan tâm đến đích đến, không ước ao đi lại gì to lớn hơn.

Hãy tưởng tượng xem, Sài Gòn đã có một thời như thế.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Michael Tatarski.)In Plain SightFri, 03 Mar 2023 11:15:00 +0700
Giữa lòng Hà Nội, Trung tâm Giao lưu Văn hóa ngày ngày kể chuyện đời Phố cổhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17426-giữa-lòng-hà-nội,-trung-tâm-giao-lưu-văn-hóa-ngày-ngày-kể-chuyện-đời-phố-cổhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17426-giữa-lòng-hà-nội,-trung-tâm-giao-lưu-văn-hóa-ngày-ngày-kể-chuyện-đời-phố-cổ

Nằm an nhiên trong lòng Phố cổ, Trung tâm Giao lưu Văn hóa Hà Nội mang trong mình một kho tàng kiến thức, điển tích xưa về kiến trúc và lịch sử thủ đô.

Một ngày khi đang đi thong dong giữa dòng người trên phố Đào Duy Từ, một tòa nhà ba tầng khiến tôi thấy tò mò. Mặt tiền nhà được trang trí tông vàng rực, đầy lồng đèn, chậu hoa cúc, cuộn tơ tằm óng ánh hiện lên như ốc đảo bình an giữa nhịp sống sôi động của khu phố. Đó là trụ sở của Trung tâm Giao lưu Văn hóa Hà Nội.

Lối vào bảo tàng rất tông-xuyệt-tông.

Trái ngược với gam màu nổi bật của bề ngoài, không khí bên trong hơi tối và yên ắng. Gian phòng chính là nơi các nữ nghệ nhân đang quay tơ bằng guồng truyền thống, xung quanh là các bộ quần áo tơ lụa. Vừa bước vào và chưa kịp xem thông tin về triển lãm, tôi ngỡ như mình vừa ngược dòng thời gian về thế giới cổ đại.

Các nữ nghệ nhân chăm chú quay tơ.

Y phục truyền thống và các kỹ thuật may mặc.

Lên gác trên, khách tham quan chắc sẽ phân vân về dãy bàn trông khá trống trải, nhưng khi bước lại gần, họ có thể bị choáng nhợp trước lượng thông tin và hiện vật được trưng bày xoay quanh lịch sử thiết kế đô thị của thủ đô Hà Nội.

Phần thông tin chú thích, viết bằng tiếng Việt, Anh và Pháp, lần theo hơn 1,000 năm lịch sử của 36 phố phường, bắt đầu từ thời Hoàng đế Lý Thái Tổ quyết định dời đô về Đại La (Hà Nội ngày nay) vào năm 1010. Vị trí địa lý của kinh đô mới nằm ở điểm giao thoa của nhiều đường thủy, thuận tiện cho giao thương và chuyên chở hàng hóa. Dần dà, thợ thủ công và thương lái từ khắp nơi rời làng xã và đổ về đây an cư lạc nghiệp, tạo thành những cộng đồng nghệ nhân đặc thù trên các con phố.

Bản đồ Hà Nội năm 1885.

Khi người Pháp đô hộ và nắm quyền cai quản Bắc Bộ cũng là lúc Phố cổ trải qua một giai đoạn bước ngoặt. Triển lãm chính ở Trung tâm Giao lưu cũng minh họa cho thời kì giao thoa này. Hàng loạt tranh ảnh cùng phần thuyết minh cho thấy chế độ thực dân đã làm nhiều cách để “dọn dẹp” thành phố. Chính quyền thuộc địa tin rằng cách sống “nhà quê” của cư dân thuộc địa là kém văn minh.

Nhà cửa ở Hà Nội cho thấy sự hòa trộn thú vị giữa cốt cách cũ và đường nét của thời đại mới.

Trung tâm của khu vực triển lãm tập trung khai thác tiến trình thay đổi của kiến trúc Phố cổ, được diễn họa bằng các mô hình và tranh vẽ nhà ống. Cấu trúc này có cái tên như vậy sở dĩ vì chúng thường dài như ống (có thể trải dài đến 60m), thường là được xây bằng gỗ. Thời thuộc địa, nhiều nhà cửa được thiết kế theo phong cách Tân cổ điển (Neoclassical) nhưng vẫn sử dụng chất liệu kiến trúc truyền thống của Việt Nam. Đến thập niên 1930, trào lưu Art Deco cũng bắt đầu hiện hữu rõ nét khi các công trình sử dụng bê tông làm vật liệu.

Sa bàn cho thấy phong cách kiến trúc qua từng thời đại.

Phong cách kiến trúc trên các con phố tiếp tục đổi thay trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ, vì hàng loạt khu phố, làng xã ở Hà Nội bị ảnh hưởng nặng nề bởi bom mìn và chiến sự, đồng thời vật liệu xây dựng cũng khan hiếm trong thời bao cấp. Xi măng bị bạn chế, do đó người dân dù được phép cơi nới nhà cửa nhưng cũng chỉ có thể sử dụng vật liệu tái chế. Sau cải cách kinh tế vào những năm 1980, dân số Hà Nội gia tăng đáng kể, và do đó, kiến trúc đô thị cũng phải thay đổi để thích nghi.

Những lát cắt của đường phố Hà Nội.

Triển lãm kết thúc khá đột ngột với một căn phòng kính trống trơn và  ti-vi không hoạt động. Chỉ có một số bảng thuyết minh trình bày thông tin về những thay đổi vĩ mô đang xảy đến với di sản kiến trúc Hà Nội — cách các tòa nhà chọc trời, khách sạn và cao ốc văn phòng đang dần thế chỗ cho nhà cổ, phá vỡ đường nét kiến trúc hài hòa của Phố cổ. Nhằm giúp giữ gìn ít bản sắc còn sót lại của khu vực, chính phủ đã cho Phố cổ vào danh sách di sản văn hóa quốc gia vào năm 2004, và ấn định nhiều quy định vào năm 2013 để bảo tồn bề dày lịch sử kiến trúc của Phố cổ.

Hà Nội thời thuộc địa.

Tôi bất ngờ trước cách triển lãm được giám tuyển và trình bày nghiêm túc và khách quan về lịch sử của thành phố Hà Nội. Một số ít góc trưng bày kết thúc  gượng ghịu, nhưng nhìn tổng thể, chuyến tham quan, dẫu hơi ngắn, đã làm tốt việc cung cấp một cái nhìn dẫn nhập về dòng thời gian của Phố cổ, cả thời thuộc địa và trong bối cảnh hiện đại hóa bây giờ.

Một số kiểu nhà cổ Hà Nội.

Nơi trái tim của thủ đô cũng là trung tâm du lịch, văn hóa, giao lưu. Nhưng không ít người, cả du khách và dân cư Hà Nội, chỉ biết đến lịch sử Phố cổ một cách khá sơ sài. Trung tâm Giao lưu Văn Hóa cho ta thấy được tiến trình đô thị hóa qua từng thời kì của khu phố giàu lịch sử này, và hơn thế nữa, nhắc ta nhớ rằng ta phải trân trọng và bảo vệ nó trước áp lực thương mại hóa, bê tông hóa hiện nay.

Trung tâm Giao Lưu Văn Hóa Hà Nội tọa lạc tại 50 Phố Đào Duy Từ, Hàng Buồm, Hoàn Kiếm, Hà Nội.

]]>
info@saigoneer.com (Léo-Paul Guyot. Ảnh: Léo-Paul Guyot. Đồ họa: Homicille.)In Plain SightThu, 15 Dec 2022 14:00:04 +0700
Lần theo dấu chân Biệt Động Sài Gòn, tìm về hầm chứa vũ khí ngay giữa lòng thành phốhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17314-lần-theo-dấu-chân-biệt-động-sài-gòn-tìm-về-hầm-chứa-vũ-khí-ngay-giữa-lòng-thành-phốhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17314-lần-theo-dấu-chân-biệt-động-sài-gòn-tìm-về-hầm-chứa-vũ-khí-ngay-giữa-lòng-thành-phố

Đâu đó trong khu trung tâm Sài Gòn ngày nay, có nhiều bí mật thời chiến đã được đưa ra ánh sáng nhưng rồi vẫn lặng lẽ khép mình giữa nhịp sống bận rộn của thành phố — những hoạt động cách mạng từng chỉ âm thầm diễn ra nơi hầm tối và lối đi bí mật, gắn liền với câu chuyện về mảnh đời rất vẻ vang nhưng rốt cuộc chỉ dùng để ngụy trang.

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường đi ngang qua các công trình tưởng niệm, biểu ngữ tuyên truyền và bảo tàng, nhưng bộ não chúng ta lại chọn bỏ qua những hình ảnh ấy. Giống như chẳng mấy ai tự nếm thử vòm miệng của mình cả. Nhưng thú vị thay, Saigoneer lại bị thu hút bởi những hiện vật thuộc về giai thoại khói lửa, mà yếu tố quyết định thành bại lại chính là quá trình hậu cần "ngầm" không được để ai chú ý đến.

Vũ khí được Biệt động Sài Gòn cất giấu ở giữa lòng Sài Gòn năm 1968.

Đó là cuộc tập kích của Biệt động Sài Gòn, một lực lượng đặc công của quân Giải phóng miền Nam. Tổ chức ra đời trong kháng chiến chống Pháp và hoạt động trở lại vào đầu những năm 1960 nhằm mục đích lật đổ chính quyền Mỹ-Ngụy. Câu chuyện của họ đã được dựng thành bộ phim Biệt Động Sài Gòn. Trong phim, nhân vật ông chủ hào hoa của hãng sơn Đông Á được xây dựng từ nguyên mẫu là Anh hùng Lực lương vũ trang nhân dân Trần Văn Lai. Ngoài đời thực, ông là một nhân vật quan trọng của lực lượng. Trong thời gian chuẩn bị cho cuộc tấn công, ông đã mua nhiều ngôi nhà ở Sài Gòn, tất cả đều dành để phục vụ cách mạng.

Di ảnh ông Trần Văn Lai.

Mọi người đương thời biết đến ông Lai trong vai trò một nhà thầu khoán đồ nội thất có tiếng ở Sài Gòn. Nhưng không mấy ai biết lý do ông chọn nghề này. Có phải vì đó là một nghề giúp ông có được “cả tiếng lẫn miếng”? Nghề đó giúp ông lo cho gia đình được sống no đủ? Là nghề gia truyền từ đời cha ông? Hay là ngành nội thất chính là đam mê của ông, và vì thế ông chọn "làm những gì mình yêu thích để không bao giờ làm việc một ngày trong đời"? Những lý do trên đều nghe rất hợp lý, nhưng trên thực tế, nội thất chỉ được chọn lựa với mục đích duy nhất là hỗ trợ cách mạng.

Đồ gỗ do ông Trần Văn Lai chế tác, hiện trưng bày tại số 145 Trần Quang Khải.

Dụng cụ mà ông Trần Văn Lai dùng để làm đồ gỗ.

Cách đây vài tuần, Saigoneer đã ghé thăm con đường điện thoại nức tiếng quận 1, nhưng không phải để mân mê "dế cưng" Apple mà để tìm ngôi nhà số 145 đường Trần Quang Khải. Đây là một trong số những nơi ông Lai may rèm cửa và làm đồ nội thất cao cấp để có thể dễ dàng ra vào Dinh Độc Lập và hoạt động giữa lòng địch.

Ngày nay, ngôi nhà là một quán cà phê và bảo tàng dành riêng cho Biệt động Sài Gòn.

Ngôi nhà được xây theo kiểu hình ống vào năm 1963, gần đây đã được sửa lại thành một quán cà phê. Nhưng khi nhìn thấy chiếc thang máy bằng sắt kiểu Pháp có hoa văn tinh xảo, với cửa và khóa đóng mở bằng tay, khách đến thăm sẽ biết rằng đây không chỉ là một quán cà phê retro thông thường; không phải chỉ để gợi lên cảm hứng hoài cổ theo phong cách của người thành phố bây giờ. Người thân còn sống của ông Lai đã biến nơi đây thành bảo tàng dành riêng cho Biệt Động Sài Gòn.

Bảo tàng có trưng bày công cụ làm gỗ của ông Lai, một nghề giúp ông ngụy trang và ra vào thành trì của địch mà không bị nghi ngờ. Bộ trường kỷ bằng da ở tầng trệt là thiết kế để ông giấu vũ khí bên trong. Bên cạnh đó còn có nhiều hiện vật khác như chiếc radio quân đội, chiếc máy đánh chữ từng thuộc sở hữu của Nguyễn Văn Thiệu, một chiếc đàn accordion và những chiếc xe máy được sử dụng để giao thư mật. Các hiện vật bổ sung này càng tái hiện thời kỳ ấy rõ hơn và phản ánh được tinh thần cách mạng của chủ nhà.

Hiện vật có từ những năm 1960, trong đó có chiếc máy đánh chữ từng thuộc về Nguyễn Văn Thiệu.

Để được chọn làm nhà thầu khoán cho Dinh Độc Lập, ông Lai phải gây dựng được “tiếng thơm” ở khu mình sống. Vì vậy, tổ chức đã sắp đặt cho ông kết hôn với bà Phạm Thị Chinh. Bà sinh ra trong một gia đình Hà Nội giàu có làm nghề buôn vàng. Khi tham gia cách mạng và kết hôn với ông Lai, bà giúp ông có nhiều mối quen biết cũng như có nguồn vốn để gia nhập giới tư sản Sài Gòn và lấy được sự tin tưởng của quân địch. Họ mua hơn chục ngôi nhà khắp thành phố để làm nơi họp bí mật và cất giữ vũ khí.

Năm 1964, bà Chinh bị bắt khi bảo lãnh hai cán bộ đang bị cầm tù tại Côn Đảo. Bà bị tra tấn dã man và đã không qua khỏi. Sau khi bà Chinh mất, ông Lai cần phải tái hôn để duy trì vỏ bọc của mình. Năm 44 tuổi, ông Lai kết hôn với bà Đặng Thị Thiệp, khi ấy mới 21 tuổi. Giống như với người vợ trước, có thể nói mục đích ban đầu của cuộc hôn nhân là vì lợi ích, nhưng hai người dần thương nhau thật lòng và có với nhau sáu mặt con.

Bà Đặng Thị Thiệp trò chuyện với Saigoneer ở căn nhà cũ của mình.

Những năm đầu sau khi đi bước nữa, ông Lai tiếp tục mua nhà khắp thành phố vì mục đích cách mạng dưới danh nghĩa một nhà thầu khoán nội thất có tiếng trong giới tư sản Sài Gòn. Hai vợ chồng đã mua ba căn nhà trên đường Nguyễn Đình Chiểu ngày nay. Bên dưới những ngôi nhà, họ dành nhiều năm đào một đường hầm bí mật để dần dần tích trữ vũ khí được chuyển về từ các khu vực do Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam kiểm soát. Đến năm 1967, tầng hầm bí mật ấy chứa đến hơn hai tấn súng, chất nổ, lựu đạn và đạn dược.

Một ngôi nhà bình thường nhưng có hầm trú ẩn. Ông Lai đứng ở cửa đi xuống hầm.

Khu vực này đã được dựng lại để khách tham quan hình dung rõ hơn về cảnh tượng năm xưa. Cửa xuống hầm được đậy bằng lớp gạch bông quen thuộc, khi tháo gạch ra sẽ thấy có một không gian bên dưới — hầm tối le lói đầy bóng hình vũ khí bạo động (hy vọng là đã bị vô hiệu hóa). Bảo tàng cũng xây cầu thang xuống hầm để phục vụ du khách trong thời bình. Nhưng cho dù có tiện lợi hơn, việc lên xuống hầm trong cảnh khách khứa ra vào đông đúc cũng khó mà kín đáo được. Điều này càng chứng tỏ những nguy hiểm ông Lai phải đối mặt suốt thời gian hoạt động cách mạng. Thật phi thường khi ông có thể tích trữ lượng vũ khí lớn như thế, trong một ngôi nhà rất đỗi bình thường, và tránh được miệng lưỡi của hàng xóm.

Vũ khí được cất giữ trong đường hầm, bao gồm những tấm bảng được thiết kế để giấu và vận chuyển lựu đạn, súng và thuốc nổ.

Cuộc tấn công được phát động vào sáng mùng 2 Tết Mậu Thân năm 1968. Theo kế hoạch, 15 chiến sĩ đến nhà ông Lai để lấy số vũ khí được giấu bên trong giỏ rau. Sau đó, họ tiến đánh Dinh Độc Lập. Đây là một phần trong chiến lược tổng tiến công vào nhiều mục tiêu quan trọng trong thành phố, bao gồm Đại sứ quán Hoa Kỳ, đài phát thanh và nhiều đồn bốt quân sự. Sáng hôm đó, ông Lai chở một nhóm lính biệt động cùng vũ khí đến Dinh rồi trở về nhà để hỗ trợ các lính biệt động khác.

Tiếc thay, kế hoạch bất thành, kho vũ khí bí mật của ông Lai bị phát hiện và Biệt động Sài Gòn phải giải tán. Ông Lai bị truy nã với khoản tiền thưởng trị giá 2 triệu USD. Tuy nhiên, ông đã không đi xa mà chỉ giả làm bác của các con mình và chung sống trong ngôi nhà trên đường Nguyễn Kiệm. Bên ngoài chỉ có lời đồn rằng ông đã bỏ trốn với bà bé. Những đứa con nhỏ của ông lúc đó thậm chí còn không biết rằng mình đang sống với bố và gọi ông là “bác.”

Lối vào khu lưu trữ bí mật giữa các ngôi nhà.

Trong thời gian mai danh ẩn tích, cuộc sống gia đình ông Lai rất khó khăn. Vì không còn là nhà tư sản năm nào, nên có những khi ông và các con qua bữa nay không biết bữa mai. Đến thời bình, mọi chuyện cũng không dễ dàng hơn. Bà Đặng Thị Thiệp kể với Saigoneer rằng ông bà được cấp giấy chứng nhận có công với cách mạng, được ưu tiên mua lương thực và một số mặt hàng trong những năm tháng khó khăn sau chiến tranh. Tuy nhiên, ông Lai vẫn phải làm nhiều nghề cùng một lúc để kiếm sống, như chở khách đến chợ và chăn lợn trong căn nhà chật chội gần chợ Tân Định.

Tuy nghèo khó, ông Lai vẫn lo cho các con ăn học đến nơi đến chốn và ai nấy về sau cũng đều thành tài. Giờ đây, họ cố gắng thu thập nhiều công cụ, tài liệu và thậm chí cả những ngôi nhà cha mình từng mua vì mục đích cách mạng để đóng góp cho bảo tàng.

Một căn nhà khác cũng được ông Lai mua và trang hoàng thành một quán ăn kiêm chỗ ẩn náu.

Sau khi thăm hai ngôi nhà đầu tiên, chúng tôi đến số 113A Đặng Dung. Vào những năm 1960, nơi đây vừa là một quán ăn vừa là nơi giao liên và lưu trữ tài liệu cách mạng.

Đến giờ này thì chúng tôi đã đói meo sau một buổi sáng chạy quanh thành phố trong cái nắng đầu hè. Ai nấy cũng vui khi biết quán cà phê có phục vụ cơm tấm. Thế nhưng, khi dĩa cơm được dọn ra, chúng tôi khá bối rối khi thấy bên cạnh những thành phần đặc trưng của cơm tấm,​​ sườn nướng và trứng lại có thêm kim chi. Đối với một buổi sáng chỉ dành để tìm hiểu về người thật việc thật trong lịch sử, thì món ăn kèm lệch chuẩn này thật khiến chúng tôi bất ngờ. Nhưng hóa ra đó cũng là sự khéo léo của ông Lai và những người lính biệt động.

Theo suy tính của lực lượng, Biệt Động Sài Gòn có thể tránh được nghi ngờ nếu mở một quán ăn phục vụ chính những người có thể lật tẩy âm mưu của họ. Vì thế, quán đã đưa món kim chi xứ người vào bữa ăn quen thuộc của Sài Gòn và thu hút nhiều binh lính Hàn Quốc sống quanh đó đến ăn.

Nhưng dù là món ăn kèm, phần kim chi ấy cũng thể hiện nỗ lực phi thường của Biệt động Sài Gòn. Họ không chỉ dám mạo hiểm mời kẻ thù đến nơi hoạt động, mà còn bỏ thời gian và công sức học cách làm kim chi thật ngon để khách Hàn Quốc thường xuyên lui tới. Đối với một quán ăn bình thường thì việc ấy đã là một thử thách lớn rồi, huống chi với họ chỉ là một mẹo nhỏ để hỗ trợ mục tiêu chính lớn lao hơn.

Đoạn dây xích tải đạn từ tàu L’Escarmouche do lính biệt động giữ lại.

Một ứng cử viên khác cho hạng mục “Hiện vật tiêu biểu nhất trong ngày” chắc hẳn là đoạn dây xích tải đạn nặng trịch được trưng bày tại 145 Trần Quang Khải. Được biết đó là đoạn dây xích bằng đồng dùng để kéo đạn lên súng trên chiến hạm L’Escarmouche, một tàu khu trục nhỏ (frigate) của Pháp từng tham gia chiến thắng Normandy trong Thế chiến thứ hai. Sau đó tàu được điều đến Việt Nam để phục vụ cho hoạt động của thực dân Pháp tại đây. Theo lời kể thì trong một cuộc tấn công vào cảng Sài Gòn năm 1946, những người lính biệt động đã lấy đoạn dây xích này về làm kỷ vật. Tuy nhiên, thật khó để xác minh thông tin này. Vì đoạn xích chỉ xuất hiện trong các tài liệu tiếng Việt về Biệt Động Sài Gòn. Và dù rằng tàu L’Escarmouche đúng là đã cập bến Việt Nam sau Thế chiến thứ hai, nhưng không có tài liệu tiếng Anh hay tiếng Pháp nào mô tả về cuộc tấn công năm ấy.

Đã 80 năm trôi qua, có lẽ thông tin về đoạn dây xích đã thay đổi ít nhiều. Có thể người Pháp và các đồng minh không công bố các báo cáo về vụ tấn công con tàu để giữ thể diện cho mình. Hoặc có thể chưa từng có ai đưa tin về sự kiện ấy vì nó không “sốt dẻo” bằng các tin tức khác vào thời điểm đó. Chúng tôi lại cảm thấy phần lịch sử gần như bị lãng quên này cũng giống với câu chuyện của ông Trần Văn Lai. Ông là một trong rất nhiều người có cống hiến to lớn cho đất nước. Thế nhưng, những đóng góp của ông giờ đây hầu như không được chú ý đến, mặc dù dấu tích vẫn còn lưu lại ở ngay trung tâm Sài Gòn. Tôi thầm nghĩ rằng chắc ông cũng vui mừng khi thấy thành phố đã phát triển như ngày hôm nay, và cuộc sống của người Việt Nam giờ đây sôi động và tự do đến mức mọi người có thể đi ngang qua những dấu tích ấy hằng ngày mà không cần được nhắc về những hy sinh thầm lặng trong quá khứ.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightMon, 04 Jul 2022 10:00:00 +0700
Viết cho những xe ép dẻo Sài Gòn — người bảo lưu ký ức thay não bộhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17300-viết-cho-những-xe-ép-dẻo-sài-gòn-—-người-bảo-lưu-ký-ức-thay-não-bộhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17300-viết-cho-những-xe-ép-dẻo-sài-gòn-—-người-bảo-lưu-ký-ức-thay-não-bộ

Nếu có người có thể giúp bạn lưu giữ một kỷ niệm đẹp, bạn sẽ trả cho người đó bao nhiêu tiền? Nếu bạn muốn đảm bảo rằng mình sẽ không bao giờ quên một khoảnh khắc hạnh phúc, cuộc họp mặt quan trọng hay thành tích đáng tự nào, thì đâu là mức giá có thể chấp nhận được? Và nếu tôi nói rằng tất cả những gì cần có chỉ là vài chục ngàn và một thời điểm thích hợp, bạn có tin không?

Quá trình lưu giữ kỷ niệm ấy bắt đầu bằng tiếng bình bịch, sau đó là tiếng vù vù. Động cơ đốt trong bắt đầu chạy và các con lăn của máy bắt đầu quay đều. Trong khoảnh khắc, một kỷ vật từng rất mong manh đã được kéo dài tuổi thọ. Những chiếc xe ép dẻp ở Sài Gòn là mảnh ghép bình dị nhưng tỏa sáng rực rỡ trong bức tranh cuộc sống thường nhật của thành phố. Mảnh ghép ấy mở ra trong ta rất nhiều suy ngẫm: kinh tế cấp đường phố, người lao động vất vả kiếm kế sinh nhai, và sâu xa hơn nữa là tinh hoa của văn minh nhân loại.

Một chỗ dựa cho tất cả mọi người

Một chiếc xe ép dẻo ở Sài Gòn.

Tôi yêu thích những chiếc xe ép dẻo trong thành phố, nhưng tình cảm đó thật khó giải thích. Ở bề nổi thì đó là cảm giác mới lạ không chỉ vì nơi bạn sinh ra không có hoạt động ấy, mà còn vì người ta đã làm việc này từ rất lâu rồi. Tôi cũng hoài niệm thay cho bạn bè khi nghe họ kể về ký ức tuổi thơ với chiếc máy ép dẻo. Hơn nữa, tôi thắc mắc là không biết nhu cầu ép dẻo của người Sài Gòn có đủ để những ai làm nghề này kiếm sống qua ngày hay không. Điều này khiến tôi nhận ra rằng mình biết quá ít về mức sống tối thiểu của các hộ gia đình nơi đây và thói quen bảo quản giấy tờ của họ (dù gì thì con người ai cũng nên đối mặt với vốn hiểu biết hạn chế của mình một cách thường xuyên như việc rửa tay vậy). Ngoài ra, có lẽ do trí nhớ kém nên tôi buộc phải trân trọng phương pháp lưu giữ này vì nó nhiều lần làm thay cho bộ não của tôi. Niềm yêu thích ấy có lẽ còn liên quan đến nỗi buồn chênh vênh tràn ngập trong lòng mỗi khi tôi bắt gặp một bức ảnh đã ép dẻo bị vứt bên đường, hay lục lại giấy tờ cũ và tìm thấy một tài liệu đã ép dẻo nhưng lại quá hạn từ lâu.

Công cụ đặc biệt này lưu giữ ký ức (và các giấy tờ quan trọng khác).

Nhưng giống như nhiều thứ khác mà tôi yêu quý, bản thân máy ép dẻo đã có sự kỳ lạ thú vị. Con người đã dùng một thiết bị máy móc có tính kỹ thuật cao ra đời từ vô số cuộc thử nghiệm. Bánh xe được lắp vào chiếc máy để dễ dàng giúp người ta lưu giữ những tổ hợp ký tự trên một mảnh giấy. Đồ vật rách nát ấy lại được con người gán cho những giá trị lớn lao. Trên mấy mảnh giấy của tôi thì các tổ hợp ký tự chứng mình rằng tôi được cấp quyền sinh sống ở một địa chỉ nhất định, hoặc quyền vận hành các cấu trúc kim loại cực kỳ phức tạp với tốc độ đáng kinh ngạc. Các bằng chứng ấy sẽ trường tồn sau quá trình máy chạy bằng nhiên liệu được làm từ các sinh vật sống cách đây cả thiên niên kỷ. Nhựa vốn là một vật liệu kỳ lạ, nhưng việc nung nóng nhựa để bảo quản mấy mảnh giấy rách nát — dẫu chỉ có giá trị do quy ước của con người — thì đơn giản là quá kỳ lạ rồi. Nếu ai nói máy ép dẻo không phải là một biểu tượng của trải nghiệm làm người, thì tôi không biết cái gì mới đúng.

Từ tờ giấy rách nát trở thành kỷ vật được bọc kín.

Vào khoảng năm 2020, tôi nảy ra một ý tưởng để thể hiện tình yêu của mình với máy ép dẻo — một "dự án nghệ thuật" cá nhân. Cách thức rất đơn giản: mỗi khi tôi đi ngang qua một xe ép dẻo, tôi sẽ nhờ ép một thứ gì đó. Đó có thể là biên lai trong túi của mình, một trang trong cuốn sách tôi mang trong ba lô, phiếu giảm giá đã hết hạn hoặc thậm chí là một tờ tiền. Nhờ vậy tôi ghi chép lại cuộc sống thường nhật đơn điệu của mình thành sử ký. Có lẽ các nhà khảo cổ học trong tương lai sẽ tìm thấy tác phẩm này và ngạc nhiên khi biết cuộc sống vào đầu thế kỷ 21 lại có những thú vui to lớn vượt quá khả năng hưởng thụ của các triều đại Ai Cập, nhưng lại hoàn toàn bị coi là điều hiển nhiên.

Dự án đã có một khởi đầu tương đối suôn sẻ. Tôi ép dẻo tờ rơi của một vở kịch mình đã đi xem, tấm danh thiếp cũ, ảnh hộ chiếu đã được tút tát bằng Photoshop. Dải giấy trắng kia là biên lai, nhưng vì máy cần gia nhiệt để kích hoạt chất kết dính trong quá trình ép dẻo, độ nóng đó đã làm phai hết mực. Vì vậy tôi không có bằng chứng là mình đã mua cơm nắm onigiri và bia Saigon Specials ở 7-Eleven.

Một dự án nghệ thuật vừa chớm nở.

Một nghề vượt qua thử thách của thời gian

Chúng ta đều biết là COVID-19 đã quét sạch các loại hình kinh doanh đường phố như cắt tóc, ve chai, và ép dẻo di động. Tôi từng lo lắng rằng khi thành phố mở cửa trở lại, sẽ chẳng còn chiếc xe ép dẻo nào đi qua các ngõ hẻm nữa. Dù gì thì đã có một số cơ sở kinh doanh trong khu nhà tôi, cứ ngỡ là sẽ vượt qua được giai đoạn khó khăn, nhưng rồi cũng đã đóng cửa vĩnh viễn. Chưa kể là thói quen sinh hoạt của người Sài Gòn sau thời kỳ giãn cách đã khác đi nhiều. Số người làm việc ở nhà và mua sắm online tăng lên kha khá. Liệu trong hoàn cảnh đó, xe ép dẻo có trở lại không?

Xe ép dẻo không giống như các cửa hàng truyền thống và quán ăn có địa chỉ cố định và cả trang Facebook để khách hàng tiện theo dõi, tôi không thể kiểm tra trong khu vực của mình có xe nào còn hoạt động hay không. Họ không có lịch trình đều đặn, lại dễ thay đổi đột xuất. Nếu một ngày tôi không nhìn thấy xe ép dẻo đi ngang qua nhà mình, thì không biết là do tôi đi vắng khi bác ấy xuất hiện, do bác có việc riêng nên nghỉ làm một ngày, hay là bác đã bỏ nghề ép dẻo rồi.

Nguyễn Thị Hoàn là một trong nhiều người làm nghề ép dẻo tại Sài Gòn. Cô cho biết nghề này giúp cô trang trải đủ sống.

Thế nên tôi đã rất vui mừng khi lại được nhìn thấy chiếc xe ép dẻo quen thuộc đi ngang qua phường mình, và càng vui hơn khi biết cô ép dẻo ở dưới chân cầu gần nhà tôi cũng đi làm trở lại. Saigoneer đến thăm cô để thỏa mãn lòng hiếu kỳ bây lâu nay của chúng tôi, cũng như muốn biết nghề này đã thích nghi ra sao trước những thay đổi của xã hội.

Cô Nguyễn Thị Hoàn sinh năm 1967, là người miền Bắc. Làng của cô ai cũng là nông dân, nhưng đã từ lâu họ chuyển vào Nam kiếm sống. Họ muốn tìm một nghề có thu nhập khá hơn làm ruộng, và bắt đầu bằng việc đẩy xe cân đo điện tử đi khắp các khu phố. Hẳn sẽ nhiều người còn nhớ hai mươi năm trước, đường phố Sài Gòn thường xuất hiện những chiếc xe cân đo điện tử với tiếng rao máy hết sức quen thuộc.

Cô đoán được là nghề cân đo không bền, nên cô cùng mấy người đồng hương tìm học nghề khác. Có người đã học nghề ép dẻo và mách cho mọi người. Đây cũng là lý do vì sao xe đẩy của cô cũng có dịch vụ bấm lỗ tai và sửa nón bảo hiểm. Họ học làm nhiều nghề cùng lúc vì cái nào cũng tương đối dễ học, có người cần đến, và không tốn nhiều chi phí.

Không những bạn được ép dẻo giấy tờ của mình mà còn có thể bấm lỗ tai hay sửa nón bảo hiểm tại đây luôn.

Cô Hoàn trò chuyện với chúng tôi về cuộc sống khi làm nghề ép dẻo giữa tiếng còi xe và động cơ hòa lẫn với nhau. Cô không hối hận khi chọn nghề này, nhưng cũng không thích nó đến mức mong muốn các con mình lớn lên cũng đi ép dẻo. Cô thẳng tính nói rằng nghề này kiếm sống được mà không vất vả như làm ruộng. Điều này đặc biệt quan trọng vì chồng cô — chú cũng làm chung với cô — bị bệnh nên đi lại khó khăn. Sức khỏe và tuổi tác khiến cô chú ép dẻo tại chỗ chứ không đẩy xe đi quanh khu lân cận. Ban đầu cô đẩy xe quanh khu vực mình sinh sống, nhưng 10 năm nay đã chuyển đến bên dưới cây cầu lớn này từ khi cầu khánh thành. Vì cô ở đó lâu rồi nên có khách quen, người dân hay chạy qua khúc đường ấy cũng quen nhìn thấy xe ép dẻo của cô.

Tôn trọng thời gian của cô Hoàn, chúng tôi đã mang đến một số vật phẩm ngẫu nhiên để ép dẻo: tấm bưu thiếp, ảnh polaroid, thiệp sinh nhật, bookmark, cuống vé từ buổi biểu diễn mèo ở Kyiv, v.v. Nhìn thấy chúng tôi khiến nhớ rằng mình từng có nhiều ý tưởng đầy tham vọng cho dự án nghệ thuật đang làm dở. Tiêu chí thực hiện vẫn là ép dẻo bất cứ thứ gì mang theo bên mình: dải băng cách ly khi căn hộ của tôi bị phong tỏa để phòng chống lây nhiễm COVID-19, dưa leo thái lát trong ổ bánh mì, một chiếc tất chân, mảnh vỏ sò tôi mang về từ Quy Nhơn. Món đồ kỳ lạ nhất mà cô Hoàn từng ép dẻo là gì nhỉ? Hẳn là không có gì quá kỳ quặc cả; chủ yếu là giấy tờ tùy thân và tài liệu quan trọng: chẳng hạn như chứng minh thư, giấy chứng nhận, ảnh của những người thân yêu, và thỉnh thoảng là bùa may mắn thỉnh ở chùa về.

Nếu ai nói máy ép dẻo không phải là một biểu tượng của trải nghiệm làm người, thì tôi không biết cái gì mới đúng.

“Nếu chịu làm thì sẽ có việc để làm,” cô Hoàn chia sẻ về lịch làm việc của mình cùng những thay đổi bắt buộc để thích nghi với hoàn cảnh mới. Cô so sánh nghề ép dẻo giống như đi câu cá vì có ngày có cá ăn và có ngày tay không về nhà, và ngày mưa thường là ngày thất thu. Cũng không thể không kể đến khoảng thời gian giãn cách vô cùng khó khăn đối với người lao động đường phố. Cô đã nhận được gói hỗ trợ từ phường và các nhóm từ thiện để trang trải cho gia đình. Cô nhấn mạnh rằng suốt thời gian ở mãi “trong bốn bức tường,” cô mong sao được tiếp tục ra ngoài đi làm, phần vì phải kiếm tiền và phần vì muốn được bận rộn trở lại.

Sản phẩm ép dẻo.

Trong những tuần tới, biết đâu tôi sẽ khởi động lại dự án ép dẻo của mình. À, hay là tôi in bài viết này ra rồi nhờ cô giúp lưu giữ nó lâu hơn đường truyền mong manh của mạng Internet nhỉ, như vậy có tự phụ quá không? Nghĩ vẩn vơ thế cho vui thôi, chứ tôi đã chuẩn bị những giấy tờ thích hợp hơn nhiều. Đó là thẻ bảo hiểm của hai đồng nghiệp ở tòa soạn Saigoneer. Khi tôi thông báo là mình sẽ đi ép dẻo, họ đã gửi gắm giấy tờ quan trọng ấy cho tôi để giúp chúng trường tồn với thời gian.

Dù mưa hay nắng, cô Hoàn vẫn đứng bên đường chờ khách đến ép dẻo.

Một vài ngày sau, nhiếp ảnh gia của chúng tôi có một phen phát hoảng vì cần bằng lái xe để bắt một chuyến bay, nhưng tờ giấy ấy đã rách nát đến nỗi chỉ cần rút nó ra khỏi ví một lần nữa thì không chừng là “bay màu” luôn. Phải làm sao đây? Cứ gửi cho cô Hoàn. Sau đó anh ấy đã có thể bay với tốc độ 800 km một giờ, cách mặt đất 10.000 mét, tất cả là nhờ một người lao động đã từ bỏ nghề nông để đẩy chiếc máy của mình đến một chỗ râm mát bên dưới cây cầu nọ. Đó cũng là lý do tại sao tôi vẫn yêu những chiếc xe ép dẻo ở Sài Gòn đến thế.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Lê Thái Hoàng Nguyên.)In Plain SightSun, 19 Jun 2022 09:00:00 +0700
Đến thăm Bảo tàng Địa chất bị lãng quên của Sài Gòn để thấy bao điều bất ngờ thú vị https://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17117-đến-thăm-bảo-tàng-địa-chất-bị-lãng-quên-của-sài-gòn-để-thấy-bao-điều-bất-ngờ-thú-vịhttps://saigoneer.com/vn/arts-culture/in-plain-sight/17117-đến-thăm-bảo-tàng-địa-chất-bị-lãng-quên-của-sài-gòn-để-thấy-bao-điều-bất-ngờ-thú-vị

Nếu chấm theo tiêu chí thông thường, Bảo tàng Địa chất của Sài Gòn chắc chắn sẽ ăn điểm liệt 2/10. Nhưng nếu xét vô độ độc lạ, nơi đây xứng đáng nhận điểm giỏi 8,75/10.

Suốt nhiều năm, Saigoneer đã có ý định đến thăm và viết bài về Bảo tàng Địa chất, nhưng chưa bao giờ tiến hành. Bản thân tôi đã sống ở Sài Gòn hơn nửa thập kỷ, nhưng chỉ đến khi chuyển sang nhà mới, tôi mới chú ý đến bảo tàng vì hàng ngày đều cuốc bộ ngang đó để đi làm. Và rồi, một buổi sáng thứ Ba nọ, vì một thế lực thần kỳ nào đó, tôi đã dừng lại và bước chân vào nơi đây. Kết quả thu hoạch được là gì? Tôi nhận ra, hoá là mình còn có thể yêu Sài Gòn đến nhường này...

Bộ sưu tập hiện vật

Vào thời tiền sử xa xôi, một thiên thạch có kích thước khổng lồ đã bay xuyên qua bầu khí quyển của Trái đất và đâm sầm vào hành tinh xanh; cuộc va chạm này làm các mảnh khoáng chất từ lòng đất bốc hơi và bay lên bầu trời. Khoáng chất nóng chảy lơ lửng trên không như những hạt mưa lấp lánh, mỗi hạt bay xa hàng nghìn kilomet rồi rơi trở lại xuống đất. Trải qua hàng triệu năm bị chôn vùi dưới nhiều tầng đất đá, thỉnh thoảng những mảnh khoáng chất sáng bóng ấy lại trồi lên bề mặt để kể về sự bao la của Trái đất và mênh mông của thời gian. Bạn đã nhìn thấy các mảnh vật chất ấy bao giờ chưa? Nếu chưa thì bạn vẫn có cơ hội đấy.

Có một căn phòng chứa đầy những viên đá thiên thạch như thế đang chờ bạn ở quận 1. Ngoài ra có cả các mẩu dung nham, dấu vết hóa thạch của các loài sinh vật biển cổ đại trông như bước ra từ một bộ phim khoa học giả tưởng, và cả gỗ hóa thạch nữa. Thoạt nghe thì khá khó tin phải không, nhưng gỗ có thể hóa đá đấy! Từ một hạt mầm tí hon dần phát triển thành thân cây cao lớn bơm nhựa sống đến từng tán lá mềm mại, giờ đây đã hóa thành một loại đá quý, thông qua quá trình biến đổi địa chất kỳ diệu của hành tinh quê hương chúng ta. Nhưng chẳng có mấy ai bận tâm đến điều này.

Nếu chúng ta quan tâm đến đất đá hơn, Bảo tàng Địa chất đã có thể đón thật nhiều khách. Nhưng đáng buồn là, ngay cả sự xuất hiện của tôi cũng khiến cô tiếp tân “ngỡ ngàng, ngơ ngác và bật ngửa.” Cô loay hoay bật đèn và quạt trần trong căn phòng duy nhất của bảo tàng, rồi đưa cho tôi cuốn sổ báo danh. Tôi là cái tên thứ hai trong danh sách, và người ở hàng trên không ghi ngày tham quan bảo tàng, thế nên tôi không biết mình là khách thứ hai trong ngày, trong tháng hay thậm chí là trong năm.

Tôi bước vào một căn phòng lớn có khoảng hai chục tủ trưng bày được xếp thành hai dãy, ở giữa phòng là một chiếc bàn lớn. Nằm sau lớp kính cũ bám bụi, và trên những chiếc tủ gỗ lâu năm là nhiều loại đá, khoáng chất được tìm thấy ở Việt Nam; một số ngăn tủ không được đóng kín, nhìn thoáng qua cũng thấy trong đó không chứa gì ngoài đồ linh tinh bị người ta bỏ quên: pin, giấy in báo, dây microphone, những viên đá không rõ phân loại.

Trên diễn đàn TripAdvisor, bảo tàng nhận được những đánh giá không mấy tích cực: “Sắp xếp sơ sài. Nếu ai không yêu thích địa chất học thì không cần phải đi đến đó làm gì;” “Không có gì đặc sắc đáng chú ý;” “Thông tin quá ít và không rõ ràng.” Nhưng sự thật không phải hoàn toàn như vậy. Khách tham quan nói rằng các khoáng vật được trưng bày không có chú thích đi kèm, nhưng tôi vẫn thấy có tên của mỗi hiện vật ghi bằng các thứ tiếng Việt, Pháp, hoặc Anh (tôi thì thấy không cần thiết phải ghi nhiều tên như vậy vì dù viết bằng ngôn ngữ nào thì cái tên ấy vẫn khó đọc-khó hiểu như thế).

Nhưng ngoài tên gọi của hiện vật, bảo tàng không cung cấp thêm thông tin gì khác, dù bằng tiếng Việt hay tiếng nước ngoài. Khách tham quan không được cung cấp kiến thức về độ quý hiếm, nguồn gốc, tuổi thọ, công dụng hay trị giá của các hiện vật. Dường như ban quản lý bảo tàng muốn nói rằng: "Nếu bạn không hiểu tầm quan trọng của bôxít hay đá hoa cương, hoặc không trầm trồ trước một mảnh san hô đã hóa thạch, thì đấy là do bạn trả hết chữ cho giáo viên Địa lý rồi. Chúng tôi không chịu trách nhiệm."

Thông tin ít ỏi về lịch sử của bảo tàng

Tôi rời khỏi viện bảo tàng với một chút thất vọng và nhiều chút thắc mắc. Đầu tôi tràn ngập những suy ngẫm về giá trị của các viện bảo tàng, vẻ đẹp bí ẩn của đất sét phù sa, và sự thật rằng xã hội hiện đại không biết quý trọng sự hùng vĩ của hành tinh chúng ta.

Tôi đã có ý định viết bài phê bình tình trạng quản lý các viện bảo tàng kém cỏi của thành phố. Tôi sẽ dẫn chứng việc Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh phải tự chủ tài chính bằng cách cho thuê bãi đậu xe làm địa điểm tổ chức đám cưới, và việc Sở thú đang bị biến tướng thành tụ điểm giải trí và cà phê. Tôi đã định lấy Bảo tàng Field ở Mỹ, nơi tôi lớn lên, làm ví dụ hùng hồn về một bảo tàng có khả năng “thắp lửa” tình yêu thế giới tự nhiên trong lòng bất kỳ du khách nào đặt chân đến đấy, rồi so sánh nó với hoạt động khiếm tốn của Bảo tàng Địa chất.

Nhưng trước tiên, tôi nghĩ rằng mình nên tìm hiểu về lịch sử của tòa nhà nơi bảo tàng toạ lạc. Bảo tàng Địa chất chỉ chiếm một phòng trong tòa nhà cũ đã xuống cấp trên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm, bên cạnh Sở thú. Nhìn từ bên ngoài, tòa nhà khoác một lớp áo màu xanh olive với các dãy cửa chớp kiểu Pháp. Tất cả cửa sổ đều đóng, nên nếu nơi đây có được sơn lại (mà chắc chắn là không rồi) thì cũng chẳng có ai để ý.

Tôi đã liên hệ Mel Schenck, một chuyên gia về kiến trúc miền Nam Việt Nam. Anh cho biết toà nhày này mang phong cách kiến trúc hiện đại (modernist architecture) của Việt Nam vào thời kỳ đầu, nhưng ngoài ra anh không tìm được thông tin gì về quá trình xây dựng hoặc lịch sử của công trình. Nhà sử học Tim Doling, hiện cũng sống tại Việt Nam, chia sẻ rằng bảo tàng được đưa vào tòa nhà này vào năm 1973, nhưng ông không biết trước đó tòa nhà được sử dụng cho mục đích gì.

Bộ sưu tập hiện tại của bảo tàng được hình thành từ năm 1954. Lúc này, chính quyền Pháp chuyển một phần trong bộ sưu tập của Sở Địa chất Đông Dương (Service géologique de l’Indochine) từ Hà Nội vào Sài Gòn, sau đó giao cho Bộ Kinh tế Việt Nam Cộng Hòa quản lý. Ban đầu, bộ sưu tập được đặt trong một ngôi biệt thự trên đường Hàn Thuyên.

Những thông tin ít ỏi này có vẻ phù hợp với quy mô khiêm tốn của Bảo tàng Địa chất. Bộ sưu tập của bảo tàng hiện đang được bảo trợ bởi Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam, đơn vị có vai trò “nghiên cứu, lập bản đồ địa chất; đánh giá và thăm dò các mỏ khoáng sản; thu thập, đánh giá và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, v.v.” Từ khi thành lập vào năm 1945, Tổng cục giữ vai trò quan trọng trong ngành công nghiệp khoáng sản và nguyên liệu thô của Việt Nam, góp phần hỗ trợ các dự án và công trình lớn của ngành này.

Tổng cục cũng có mục tiêu giáo dục cộng đồng về tầm quan trọng của lịch sử địa chất, nhưng dường như chưa thực hiện nó bao giờ. Saigoneer đã liên hệ với Tổng cục nhưng không nhận được phản hồi. Lời nhắn của chúng tôi có rơi vào thư mục spam không? Hay phận sự của Tổng cục không bao gồm việc giới thiệu bảo tàng với công chúng, nên không cần phải hồi thư? Hoặc, có lẽ giống như một người muốn giữ bí mật về quán cà phê mình yêu thích, các nhà khoa học muốn tích lũy kiến ​​thức cho riêng mình mà thôi, vì sợ rằng cái nhìn của công chúng sẽ ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu?

Lần trở lại đầy bất ngờ thú vị

Tôi lập sẵn danh sách những thứ cần chụp cho lần thứ hai đến thăm bảo tàng cùng với nhiếp ảnh gia của Saigoneer: những con dao bằng đá 1.500 năm tuổi; những chiếc cốc đựng khoáng chất bám đầy bụi; mấy bức tranh chép lạc hậu mô tả các loài động vật thời tiền sử từ châu Âu và châu Mỹ trong những tư thế cực lạ; và có lẽ một bức ảnh chụp gương mặt đầy thất vọng của tôi đang phản chiếu lên chiếc tủ trưng bày, đi kèm dòng caption sâu sắc về sự hữu hạn của bản ngã nhân loại trước sự trường tồn của tự nhiên, hiển hiện trong mảnh đá granit đang nằm dưới lớp kính mờ đục.

Nhưng đang tác nghiệp thì bỗng nhiên tiếng nhạc Vinahouse giật đùng đùng vang lên. Tôi chẳng tập trung nổi để chụp đúng như dự định.

Vài tuần trước chuyến thăm thứ hai của Saigoneer, cửa hàng bên cạnh bảo tàng đã dỡ bỏ cánh cổng kim loại, chúng tôi nhìn thấy nhân viên đang bận bịu trải thảm và lắp tủ kính. Tôi nhận ra có một buổi khai trương đang diễn ra vì thấy có vài bó hoa được đặt trước cổng. Kế đó là chiếc loa karaoke cùng tấm biển ghi dòng chữ “Triển lãm Đá và Ngọc năm 2020 tại Bảo tàng Địa chất.”  Và cách đó không xa, một cuộc triển lãm khác cũng đang diễn ra ở góc bảo tàng trên đường Nguyễn Hữu Cảnh.

Sau khi chụp ảnh tầng đầu tiên của bảo tàng, chúng tôi quyết định tham quan một cửa hàng vì bị thu hút bởi tiếng nhạc điện tử sôi động. Trên các khay nhỏ trong tủ kính sáng loáng, chúng tôi nhìn thấy nào là hồng ngọc, ngọc bích, ngọc hồng lựu, thạch anh tím và các loại đá quý khác. Dù cũng đoán là số đá quý này là để bán cho những người muốn làm đồ trang sức, nhưng vì tò mò, chúng tôi hỏi người đang đứng sau quầy để biết giá.

“Chú không biết nữa,” chú ấy trả lời.

“Chú không biết” ư? Là chủ cửa hàng, chẳng phải công việc quan trọng nhất của chú ấy là biết giá các sản phẩm của mình và nếu khách hàng muốn mua thì bán chúng ư? Nếu không biết giá sản phẩm thì chú giữ vai trò gì ở đây? Tuy nhiên, dường như đó không phải là vấn đề đối với người chú trung niên này; chú thản nhiên lấy mấy viên đá bán quý từ trong túi ra cho chúng tôi xem. Thay vì thất vọng (dù gì Saigoneer cũng không đến đó để mua đá quý), nụ cười ấm áp và sự niềm nở của chú đã nhanh chóng chiếm được cảm tình của chúng tôi.

Trong cái nóng ẩm xế chiều hòa cùng tiếng bass rộn ràng, chú đổ đá quý lên quầy để chúng tôi chụp ảnh. Chú thậm chí còn cho chúng tôi cầm chiếc nhẫn vàng có nạm hồng ngọc ​được gia công tinh xảo của mình. Chắc chắn, đây là bảo tàng duy nhất trên thế giới thích hợp để mở đại tiệc bia hơi hơn là hội thảo nghiên cứu khoa học.

Sau khi quyết định không mua chiếc vỏ sò nạm đá quý (nói cứ như chúng tôi được biết giá của nó rồi ấy), chúng tôi đi đến phòng triển lãm thứ hai. Giống như căn phòng trước, tủ trưng bày ở đây chứa đầy đá quý, đồng hồ, bông tai và đồ trang sức tôn giáo. Trên mỗi tủ có đặt danh thiếp để cho thấy triển lãm không hề “mượn” hiện vật nào của bảo tàng để lấp đầy kệ hàng. Chính xác là không gian này đã được các đại lý kim hoàn thuê lại để tìm kiếm khách hàng tiềm năng, tin tưởng rằng những người yêu thích địa chất sẽ sẵn sàng bỏ ra hàng nghìn USD để mua vài viên đá lấp lánh.

Saigoneer, chúng tôi có một ít kiến thức để bàn về những chủ đề lạ như kiến ​​trúc hiện đại, phong tục thờ cúng cá voi văn hóa uống trà đá của người Việt. Nhưng để nói về đá quý thì chúng tôi chả có chút vốn liếng gì. Vì vậy, chúng tôi muốn tìm hiểu chính xác những viên đá ấy trị giá bao nhiêu, nhất là viên màu xanh khổng lồ trên chiếc nhẫn mà chị Thảo, nhân viên cửa hàng, đang đeo. Câu trả lời từ chị là 30.000 đô la Mỹ. Nhưng chiếc nhẫn này không phải của chị mà thuộc sở hữu của cửa hàng. Chị đeo nó để đáp ứng thị hiếu của những khách hàng sang trọng, đam mê những khối vật chất lắm tiền, phát sáng lấp lánh khi ánh sáng chiếu vào.

Sau khi chúng tôi ngắm nghía ba mặt dây chuyền hình Chúa Giê-su, bên cạnh rất nhiều mặt dây chuyền hình Phật, cùng vài viên ngọc bích (màu càng nhạt thì giá trị càng cao) và tạo dáng chụp ảnh với chị Thảo, chị hỏi chúng tôi đã đến thăm bảo tàng chưa. Chúng tôi trả lời là đã đi xem căn phòng đó rồi. "Không, có năm phòng lận," chị giải thích. Không biết mình có nghe nhầm không, năm phòng lận ư?

Thì ra các tầng trên của tòa nhà còn chứa thêm bốn bộ sưu tập nữa, thế mà chú bảo vệ đã không cho phép tôi lên cầu thang trong lần đầu tiên ghé thăm! Sau khi biết chuyện, chúng tôi thử một lần nữa và lại bị chú bảo vệ bắt chéo tay thành hình chữ X để từ chối. Nhưng khi chị Thảo từ cửa hàng liền kề đi lên, chú ấy đã xuôi theo. Chú đặt tách trà và chiếc điện thoại đang xem dở chương trình gì đó xuống bàn, thở dài ngao ngán rồi dẫn chúng tôi lên lầu. Chú mở khóa mấy căn phòng không có biển giới thiệu rõ ràng và có lần thậm chí phải gỡ một miếng băng dính dán ở trước cửa phòng.

Về cách thức bố trí và trưng bày, bốn phòng này đều tương tự như phòng ở tầng trệt: những tảng đá thô sơ trong tủ kính tồi tàn với lời mô tả sơ sài. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn tìm thấy một vài hiện vật “kỳ lạ”. Đó là nước khoáng — H2O đơn giản, hoàn toàn tự nhiên và chứa một lượng muối khoáng hòa tan. Nước khoáng dễ tìm đến mức bạn chỉ cần ra cửa hàng tiện lợi gần nhất là có, thế mà ở đây dành cả một tủ trưng bày cho loại nước này. Bảo tàng có khoảng ba chục mẫu nước khoáng với các công thức hóa học riêng, nhưng không có mẫu nào được đựng trong cốc thủy tinh sang trọng, mà tất cả đều nằm trong chai nhựa giá rẻ như thể người ta tận dụng vỏ chai đã qua sử dụng vậy.

Sau đó, chúng tôi bắt gặp một chiếc bình khổng lồ đựng dầu thô của Việt Nam. Dầu mỏ, hợp chất quan trọng nhất trong thời kỳ hiện đại, đã giúp con người đạt được rất nhiều thành tựu như phát triển giao thông vận tải và sản xuất điện năng. Nhưng dầu mỏ cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng biến đổi khí hậu đang đe dọa sự sống trên khắp thế giới, là nguồn gốc của rác thải nhựa đang phá hủy môi trường sống của loài rùa biển, và cũng là nhiên liệu cần thiết cho các cuộc chiến tranh đã tàn sát hàng triệu người vô tội.

Nhìn thấy chất lỏng màu đen ấy nằm yên trong chiếc bình thủy tinh cũ kỹ trong căn phòng tầng ba ngột ngạt, tôi nhớ ra rằng hợp chất đơn giản ấy không hề chứa thứ phép thuật thần kỳ nào. Sự phát triển vượt bậc, và cả sự tranh chấp tàn bạo, mà dầu thô mang đến thực chất đều được tạo ra bởi bàn tay con người.

Thấy chúng tôi ngắm nghía các hiện vật và chụp vội vài bức ảnh, chú bảo vệ ban nãy dù thấy chúng tôi phiền phức cũng dường như dịu lại. Chú còn đứng ở ngoài cửa lấy điện thoại chụp ảnh chúng tôi. Chú ấy có thích thú khi thấy một nhóm người nước ngoài quan tâm đến bảo tàng không? Chú có phải là một người yêu thích địa chất học, và thấy mừng vì gặp được người có cùng niềm đam mê với mình không? Có phải chuyến thăm của Saigoneer cần được lưu lại dưới dạng ảnh chụp không? Chúng tôi không rõ nữa. Nhưng có điều gì đó sâu sắc trong hành động của chú. Nó dường như là một sự cảm kích không lời gửi đến chúng tôi. Chú ấy cảm kích sự hiện diện của chúng tôi trong bảo tàng và chúng tôi cảm kích chú đã mở cửa cho mình. Chẳng phải lòng cảm kích, hơn bất kỳ điều gì, chính là sợi dây liên kết con người với nhau sao?

Đánh giá 5 sao

Một lần nữa, tôi công nhận Bảo tàng Địa chất không phải là một bảo tàng tốt theo các tiêu chuẩn chung. Lượng thông tin còn nghèo nàn, bộ sưu tập không có nhiều giá trị khoa học so với các cơ sở lưu giữ các mẫu vật quý hiếm và quan trọng hơn; các phòng không có máy lạnh nên nóng nực và khó chịu, và nhân viên thì thờ ơ đến mức có thể khiến du khách bỏ lỡ 80% bộ sưu tập.

Tuy nhiên, Bảo tàng Địa chất vẫn là một ví dụ tiêu biểu của một Sài Gòn kỳ thú. Ở đây bạn có thể nghe nhạc điện tử đinh tai nhức óc, gặp đội ngũ nhân viên thờ ơ đến một cách khôi hài, và biết giá tiền đá quý nhiều hơn là tìm hiểu về đá quý. Bảo tàng này quả thật không hoàn hảo. Thế nhưng, ở đây bạn cũng có thể tìm thấy những chai nhựa được trưng trong tủ kính, bức bích họa khủng long "thật trân" trong khu gửi xe, và quan trọng nhất, là những người con Sài thành với cá tính riêng nhưng đều hào phóng và tốt bụng.

Bạn nên đến Bảo tàng Địa chất nếu là một người mê khoáng sản. Bạn nên đến đó nếu thích nghe tiếng bước chân trên chiếc cầu thang xây từ thế kỷ trước. Bạn nên đến đó bởi vì, bất chấp tất cả thiếu sót, bảo tàng vẫn chân thành, hiếu khách (dù khách phải kỳ kèo một chút), tốt bụng, có hơi kỳ lạ và chứa đầy thông tin lịch sử chung chung. Sài Gòn là thế, và như thế thật là đẹp!

In Plain Sight là series khám phá những nơi chốn bị lãng quên trong dòng chảy tất bật của đời sống thành thị. Qua series này, Saigoneer muốn truyền cảm hứng để bạn đọc chậm lại vài giây, lắng nghe các giai thoại thú vị, các chương sử đã khép lại đang ẩn mình trong những địa điểm thân quen của thành phố. Bạn muốn giới thiệu một góc nhỏ yêu thương của phố phường tới bạn đọc của Saigoneer? Gửi email tới hòm thư congtac@saigoneer.com để chia sẻ ý tưởng nhé!

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.)In Plain SightSun, 05 Dec 2021 09:20:49 +0700