Loạt Soạt - Sài·gòn·eer https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf Thu, 21 Nov 2024 21:13:12 +0700 Joomla! - Open Source Content Management vi-vn Lĩnh Nam Chích Quái: Hồn cổ khoác lớp áo ma mị của Tạ Huy Long https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/16627-lĩnh-nam-chích-quái-hồn-cổ-khoác-lớp-áo-ma-mị-của-tạ-huy-long https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/16627-lĩnh-nam-chích-quái-hồn-cổ-khoác-lớp-áo-ma-mị-của-tạ-huy-long

Lĩnh Nam Chích Quái, ấn phẩm kỷ niệm 60 năm nhà xuất bản Kim Đồng, ghi lại những câu chuyện thần thoại kì ảo lưu truyền hàng nghìn năm trong dân gian. Với phần minh hoạ vô cùng kỳ công do họa sĩ Tạ Huy Long thể hiện, ấn phẩm chắc chắn là một sự lựa chọn hoàn hảo cho độc giả yêu thích không khí ma mị.

Viên ngọc quý của văn học dân gian

Lĩnh Nam Chích Quái — một trong những tác phẩm văn học dân gian viết bằng chữ Hán thể văn xuôi đầu tiên của Việt Nam — là tập hợp 22 câu chuyện cổ tích, huyền thoại về sự hình thành giống nòi, các giai thoại dựng và giữ nước, nguồn gốc phong tục tập quán dân tộc hay tín ngưỡng được lưu truyền trong dân gian. Tương truyền, tác phẩm do một danh sĩ đời nhà Trần là Trần Thế Pháp sưu tầm và được hai văn sĩ nổi tiếng dưới triều Lê Thánh Tông là Vũ Quỳnh và Kiều Phú hiệu chỉnh vào cuối thế kỷ XV.

Bản chép tay của Lĩnh Nam chích quái liệt truyện hiện đang được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia Việt Nam.

Trải qua gần bảy thế kỉ tồn tại, Lĩnh Nam Chích Quái không chỉ có giá trị to lớn về mặt văn hóa, tín ngưỡng của dân tộc mà có sức ảnh hưởng đến các bộ sách sử nổi tiếng của Việt Nam như Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của sử gia Ngô Sĩ Liên ra đời năm 1697, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán soạn lập dưới triều Nguyễn, hay Việt Nam Sử Lược của tác giả Trần Trọng Kim, xuất bản lần đầu năm 1920. Dấu ấn huyền sử và cảm thức tự hào về nòi giống Con Rồng Cháu Tiên trong Lĩnh Nam Chích Quái vẫn được các nhà Nho học, nhà sử học ở mọi thời đại tôn trọng và đưa vào công trình thuật lại lịch sử của mình.

Lĩnh Nam Chích Quái bản dịch đầu tiên của Lê Hữu Mục năm 1960 (trái) và bản dịch của Đinh Gia Khánh-Nguyễn Ngọc San do NXB Văn Hóa phát hành, dày 137 trang (phải). Ảnh: Kệ sách Du - Yên Moksha.

Lĩnh Nam Chích Quái được giáo sư Lê Hữu Mục phiên dịch và ra mắt bạn đọc lần đầu tiên vào năm 1960. Bản dịch phổ biến được lưu truyền và sử dụng rộng rãi đến ngày nay là do hai dịch giả Đinh Gia Khánh-Nguyễn Ngọc San giới thiệu. Các ấn bản phát hành chủ yếu được thể hiện dưới hình thức văn xuôi, với khối lượng chữ lớn cùng các từ còn mang nhiều ngữ nghĩa Hán-Việt. Do đó, Lĩnh Nam Chích Quái lúc bấy giờ tương đối “kén” độc giả, khó thu hút sự chú ý và đón nhận của đại chúng.

“Tái sinh” qua nét minh hoạ đương đại

Phiên bản Lĩnh Nam Chích Quái ra mắt năm 2017 nhân dịp kỉ niệm 60 năm thành lập Nhà xuất bản Kim Đồng đã được họa sĩ Tạ Huy Long khoác lên một lớp áo hoàn toàn mới, vẫn giữ nguyên bản dịch của Đinh Gia Khánh-Nguyễn Ngọc San nhưng lại lồng ghép thêm 200 tranh minh họa khổ lớn sống động và dễ hiểu cho từng câu chuyện. Qua từng tranh vẽ đậm chất kì dị và có phần hoang dã, không ngoa khi nói rằng Lĩnh Nam Chích Quái đã được “tái sinh” trong một hình thể mới, vẫn là viên minh châu cổ quý giá của dân tộc, nay đã thay một lớp vỏ mài hiện đại hơn, lấp lánh đầy biến ảo.

Chính vì lẽ đó, ngay trước ngày ra mắt chính thức đến bạn đọc, cuốn sách này đã “cháy hàng” toàn bộ. Tờ Tiền Phong nhận định: “Đây là một kỳ tích mà bất cứ người viết sách nào cũng mong đạt được bởi dòng sách lịch sử vốn không phải là dòng sách được bán chạy.” Sau gần ba năm, cuốn sách tiếp tục được tái bản và vẫn giữ nguyên độ hấp dẫn trong mắt bạn đọc một phần nhờ chất lượng in ấn hoàn hảo trên khổ giấy lớn, đóng bìa cứng chỉn chu, mang nhiều giá trị thẩm mỹ bên cạnh góc nhìn lịch sử đơn thuần.

Khi hiện thực và huyền ảo giao thoa

Trong Lĩnh Nam Chích Quái, hình ảnh của những câu chuyện quá đỗi quen thuộc với người Việt như Lạc Long Quân và Âu Cơ, Phù Đổng Thiên Vương chống giặc Ân, Sơn Tinh ở núi Tản Viên, v.v., đã thoát khỏi khỏi tính tả thực hay trau chuốt cầu kì thường thấy trong các tác phẩm minh họa lịch sử khác. Tạ Huy Long đã dùng những nét vẽ đầy tính ước lệ và kì vĩ, cốt yếu làm toát lên tinh thần của câu chuyện và nhân vật. 

Các vị thần thời Việt Cổ xuất hiện đầy tính ước lệ và kì vĩ.

Có những truyện đậm chất huyền huyễn và kì quái như truyện kể về Hồ Tinh, Mộc Tinh (Thần Xương Cuồng), Ngư Tinh. Có truyện lại xoáy sâu vào yếu tố hóa thân và duyên ngộ giữa người và thần linh như Chử Đồng Tử, sự tích Man Nương, Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không thời Lý Trần. Có khi lại mang đậm yếu tố thần tích như truyện thần sông Tô Lịch, hai vị thần Long Nhãn-Như Nguyệt, truyện Rùa Thần giúp An Dương Vương xây thành Cổ Loa. Với các thần thoại mang đậm tính tâm linh như thế, Tạ Huy Long lựa chọn nét vẽ đan xen giữa thực và ảo, giữa yếu tố con người với thần linh, giao hòa đầy uyển chuyển.

Các nét vẽ đan xen giữa yếu tố thực và ảo, giao hòa giữa con người và thần linh.

Bên cạnh góc nhìn huyền ảo, Lĩnh Nam Chích Quái còn truyền tải ý nghĩa chân thực về văn hóa đời sống người Việt như sự tích về dưa hấu của Mai An Tiêm, nguồn gốc của Bánh Chưng, tục dâng trầu cau khi cưới hỏi. Tác phẩm cũng khẳng định niềm tin chiến thắng xâm lược của dân tộc, như câu chuyện về các vị tướng thần Trương Hống-Trương Hát, Hai Bà Trưng khởi nghĩa chống Bắc thuộc. Khi vẽ các vị danh tướng, hình ảnh được phóng đại bao trọn không gian, lấn át quân xâm lược. Khi vẽ về đời sống dân tộc, các bức vẽ minh họa thiên về chi tiết hơn để lột tả đời sống trù phú, thịnh vượng của người Việt cổ qua từng thời kì. 

Họa sĩ Tạ Huy Long đã thực hiện nhiều nghiên cứu để phác họa sinh động đời sống trù phú, ấm no của người Việt cổ. 

Các tranh vẽ trong sách cũng thể hiện sự giao thoa văn hóa của nước Việt qua từng thời kì. Tại buổi giao lưu với bạn đọc TP.HCM ở trung tâm Sách Kim Đồng vào tháng 6/2017, họa sĩ Tạ Huy Long cho biết rằng trước khi bắt tay vào sáng tạo, ngoài việc nắm rõ tình tiết câu chuyện, anh còn mày mò, nghiên cứu về các điệu múa Chăm, đi tìm dữ liệu về đồ họa ở nhiều nguồn như tranh dân gian Việt Nam và Trung Quốc, tranh Nhật Bản, cả tranh giả kim của phương Tây, tranh Thánh của Nga… nhằm đảm bảo từng hoa văn, câu chuyện ở mỗi thời kì được thể hiện một cách chi tiết và chính xác nhất.

Để hoàn thành hơn 200 bức tranh minh họa khổ lớn trong sách, họa sĩ Tạ Huy Long đã mất gần một năm ròng nghiên cứu và thực hiện. Kể về quá trình sáng tạo của mình, anh ví von nó giống như một cuộc chu du vào dòng chảy của lịch sử, bắt buộc người họa sĩ không thể vẽ theo cách mà mình đã quen tay. Cái khó nhất khi vẽ tranh liên hoàn, theo anh, chính là việc vận hành câu chuyện sao cho người đọc dễ tiếp cận nhất. 

Các nét vẽ thể hiện sự giao thoa văn hóa giữa các thời kỳ. 

Đánh giá về tác phẩm, cũng trong buổi tọa đàm, nhà văn Lưu Minh Sơn đã dành tặng lời khen họa sĩ Tạ Huy Long khi thành công đem đến một hướng tiếp cận mới, khiến cho cả những cô bé, cậu bé quàng khăn đỏ cũng muốn cầm trên tay cuốn sách huyền sử của dân tộc.

Lời Kết

Đọc Lĩnh Nam Chích Quái với phần minh hoạ được họa sĩ Tạ Huy Long như được bước lên một cỗ máy thời gian, du hành từ thời sơ khai đến thời cận đại. Không còn chỉ là những câu chuyện dài được truyền khẩu khó mường tượng, hình dung, Tạ Huy Long đã buộc người đọc phải đứng trong không gian ấy, chứng kiến từng giai thoại theo một cách hiện đại hơn rất nhiều. Đây sẽ là lựa chọn tuyệt vời cho những ngày cuối tháng 10, khi bạn cần một chút ma mị để đón lễ hội Halloween sắp đến.

]]>
info@saigoneer.com (Nhi Phạm. Ảnh: Alberto Prieto. ) Loạt Soạt Wed, 14 Aug 2024 11:10:00 +0700
Từ 3 hồi ký của Nguyễn Ngọc Ký, nhìn lại 70 năm giáo dục cho người khuyết tật tại Việt Nam https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17427-từ-3-hồi-ký-của-nguyễn-ngọc-ký,-nhìn-lại-70-năm-giáo-dục-cho-người-khuyết-tại-việt-nam https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17427-từ-3-hồi-ký-của-nguyễn-ngọc-ký,-nhìn-lại-70-năm-giáo-dục-cho-người-khuyết-tại-việt-nam

Trước khi biết đến câu nói “No limbs, no limits” của Nick Vujicic, thế hệ 8x, 9x ở Việt Nam đã lớn lên cùng một phiên bản truyền cảm hứng bình dị hơn: bài đọc “Bàn chân kỳ diệu” về Nguyễn Ngọc Ký trong sách giáo khoa tiếng Việt lớp 2. Hình ảnh cậu học trò ngồi trên nền đất, chân kẹp viên phấn bằng ngón cái và ngón trỏ, nắn nót viết từng chữ trên nền gạch đã tạo nên cảm xúc mạnh trong lòng những người đi dạy cũng như học sinh mới tập đọc.

Là một đứa trẻ sinh ra lành lặn, sống trong điều kiện đầy đủ, tôi từng ngán ngẩm khi nghe về các tấm gương vượt nghịch cảnh như trên, vì người lớn hay lấy ra răn đe với lý lẽ “người ta bị như vậy mà còn học giỏi, còn con thì chả vào đâu.” Việc bị nhồi nhét các câu chuyện truyền cảm hứng từ bé khiến tôi dần mệt mỏi trước thông điệp sáo rỗng “có ước mơ, có khát khao ắt mọi thứ sẽ thành.”

Thế nhưng, những hình ảnh về cậu học trò viết bằng chân vẫn để lại một ấn tượng mạnh trong tâm trí tôi. Một sự tò mò xen lẫn thán phục, tôi thắc mắc rằng: “Trong bối cảnh thiếu thốn của xã hội cũ, một người thiếu đôi tay đã học đại học thế nào và làm nhà giáo ra sao?” May mắn thay, nhờ ba tựa hồi ký mà nhà giáo để lại, tôi đã có được câu trả lời.

Chân dung nhà giáo Nguyễn Ngọc Ký.

Từ cơn sốt bại liệt lúc bốn tuổi đến đôi bàn chân kỳ diệu

Nguyễn Ngọc Ký sinh ngày 28/6/1947 tại vùng quê nghèo Hải Hậu, tỉnh Nam Định trong một gia đình có gồm năm người con. Là con út, chào đời trong hoàn cảnh gia đình khó khăn, cha mẹ tuổi cao, ông là niềm vui lớn của cả nhà và họ hàng. Tuy nhiên, niềm vui chẳng kéo dài được bao lâu thì năm lên 4 tuổi, cơn sốt bại liệt đã tước đi đôi tay của cậu bé nghịch ngợm.

Ôi, sao kỳ lạ thế này, hai cánh tay tôi bỗng trở nên nặng trịch. Tôi không còn đủ sức giơ nó lên nữa! Ít ngày sau người khoẻ hẳn, tôi dậy đi được. Nhưng đôi tay của tôi đã chẳng còn nguyên vẹn. Nó như hai cục thịt lủng lẳng đeo vào hai bên mình tôi. Tôi cảm thấy nặng như không phải chính tay của mình. Hồi đó tôi vừa tròn bốn tuổi.

Trong bối cảnh Việt Nam xóa sổ bệnh bại liệt đã được 20 năm, câu chuyện của Nguyễn Ngọc Ký mang tính lịch sử khi kể về thời kỳ y tế, môi trường chưa phát triển, về điều kiện khó khăn toàn dân phải hứng chịu trong giai đoạn chiến tranh. Tiếng khóc của người cha là nỗi đau của một gia đình khi có đứa con với cơ thể không còn lành lặn, khi cái nghèo ngày ấy đi liền với nỗi lo toan rằng con mình sẽ không thể lớn lên một cách độc lập:

- Thật ông trời không có mắt con ạ. Người ta có năm có mười thì tốt, mình có một thì trời lại bắt tội.
Nói đến đây tiếng bố tôi nhỏ dần và ngừng hẳn. Chắc bố tôi khóc. Rồi bố tôi lại ôm chặt tôi hơn, nói tiếp, giọng nghẹn lại:
- Sau này bố mẹ chết đi, con biết làm gì để sống!

Tôi Đi Học: Đi tìm con chữ trong những năm tháng chiến tranh

Có tên gốc là Những Năm Tháng Không Quên, quyển hồi ký đầu tiên được Nguyễn Ngọc Ký viết vào những ngày tháng khi còn là sinh viên Khoa Ngữ Văn Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội.

Ấy nhưng một phép màu, Nguyễn Ngọc Ký đã vượt qua kỳ vọng của gia đình. Ông nghe theo tiếng gọi con chữ ở lớp Bình Dân Học Vụ để rồi bắt đầu về nhà nguệch ngoạc, những nét chữ đầu tiên phủ kín đến tràn sân. Từ một cậu bé đến lớp với mục đích “cho có bạn có bè,” ông nỗ lực vươn lên thành học sinh xuất sắc, tham dự kỳ thi toán của tỉnh, rồi toàn quốc, được Chủ tịch Hồ Chí Minh hai lần trao tặng huân chương.

Hành trình ấy được ông thuật lại qua tự truyện đầu tay Tôi Đi Học — gồm nhiều mẩu chuyện từ lúc ông lọt lòng đến khi nhận được giấy báo trúng tuyển vào đại học, tạm biệt vùng quê Nam Định lên Hà Nội. Bằng giọng văn giản dị nhưng chan chứa niềm, ông dẫn dắt người đọc vào khung cảnh làng quê xưa vẫn còn tàn tích của chiến tranh, ở lớp học Bình Dân Học Vụ giữa lứa học sinh đủ tay, đủ chân, đủ tuổi đang ngồi học, có cậu bé cố đứng nép bên cửa lớp cố chỉ để rót được chữ vào tai.

Nguyễn Ngọc Ký tập viết chữ bằng chân tại lớp Bình Dân Học Vụ.

Thời điểm bấy giờ, trường học chỉ được thành lập trên những cơ sở xập xệ. Học sinh thường xuyên phải sơ tán sang cơ sở khác, đổi giờ học từ sáng thành đêm. Con đường đến trường của Ký cũng lắm gian nan khi toàn sỏi đá trơn trượt. Ông duy trì ngọn lửa đến trường không chỉ bằng sự ham học, bên cạnh ông còn có sự hỗ trợ của bao bạn bè thay phiên cõng, dìu khi đoạn đường trắc trở. Và cha mẹ của ông —  những người lao động nghèo — cũng đã gắng sức đồng hành bên con từ bữa ăn, giấc ngủ đến cả báo thức để con có được cái chữ, dù họ không biết ông sẽ có những bước tiến rất xa trong cuộc đời.

Sự quyết liệt của ông ngày ấy đã chinh phục được cô giáo Cương trẻ tuổi, đến mức cô phải bước vào nhà để xin bố mẹ cho cậu được đi học. Và rồi, cậu bé Ký được đặc cách ngồi ở tấm chiếu để tập viết những con chữ đầu tiên. Cô giáo ấy đã kiên nhẫn dìu dắt, đến tận nhà cậu vào những buổi vắng học và buổi chiều để uốn nắn từng nét chữ. Không phụ lòng cô Cương, Ký đã hoàn thành xuất sắc những nét chữ, những bài toán để bước vào lớp 1 chính thức ở trường tiểu học, được thầy cô, bạn bè dìu dắt trong việc học hành, vui chơi, cải thiện môi trường học tập thi cử khi đến lớp và thi học sinh giỏi.

Tác phẩm phản ánh tâm huyết của những nhà giáo khi chấp nhận và giúp cậu trò nhỏ phát huy tối đa khả năng, dù bối cảnh giáo dục ngày ấy gần như chỉ dành riêng cho những học sinh “lành lặn.” So với thời điểm hiện tại, khi chúng ta có những cơ sở giáo dục chuyên biệt cho người khuyết tật như Hy Vọng hay Niềm Tin, nỗ lực sáng các thầy cô ở vùng quê Hải Hậu tạo điều kiện để Ký hăng say học tập, bất kể thời tiết nóng bức, lạnh giá — là một nỗ lực vượt thời đại.

Hoàn thành trọn vẹn Tôi Đi Học, người ta không còn nhìn Nguyễn Ngọc Ký đơn thuần là tấm gương vượt qua nghịch cảnh, mà vỡ lẽ rằng: chính tư chất thông minh và sự bền bỉ trong học tập, cũng như sự san sẻ của cộng đồng, đã khiến ông có được cơ hội học hành, làm việc bình đẳng như bao người khác.

Tôi Học Đại Học: Hành trình trưởng thành trên mảnh đất thủ đô

Tự truyện thứ hai, Tôi Học Đại Học, phải mất đến hơn 40 năm để hoàn thành.

Những thông điệp trong Tôi Đi Học được củng cố qua Tôi Học Đại Học — tuyển tập về hành trình của Nguyễn Ngọc Ký tại giảng đường đại học trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Vì chăm lo công việc dạy học và chỉ có hai ngày thứ Bảy và Chủ Nhật để viết, tác phẩm mất đến bốn thập kỷ để thai nghén. Căn bệnh viêm cầu thận cấp và viêm khớp cũng khiến việc biết lách của ông chậm lại. Tuổi cao càng khiến việc nhớ lại ký ức có phần khó hơn. Dẫu vậy, ông vẫn vừa viết, vừa cố chắp nối lại những ký ức của thời kỳ chiến tranh của mình

Trải dài hơn 300 trang, lời tự sự của ông vẽ nên một bức tranh thời chiến gần gũi, thấm thía hơn rất nhiều. Câu chuyện mở đầu từ việc cậu sinh viên Ký phải bất đắc dĩ “nhảy tàu” để lên đường đi học. Dịch ghẻ ngứa khiến cơ thể ông lở loét, nằm viện dài ngày liên miên, nhưng ông vẫn chu toàn kết quả học tập. Người đọc thấy được tình người cũng những con người thời kỳ sơ tán, chiến tranh, của tình nghĩa vợ chồng.

Cuộc gặp của Nguyễn Ngọc Ký và cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng.

Qua câu chuyện về cuộc gặp gỡ của thầy với cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng, tình thân ấm áp giữa con người dành cho nhau, sự quan tâm tự nhiên như những người thân trong gia đình lại được khắc hoạ rõ nét hơn. Chính cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã định hướng cho cậu sinh viên Nguyễn Ngọc Ký khi ấy về việc về quê trở thành ông giáo làng gieo cái chữ cho lũ trẻ ở vùng quê khát chữ, đồng thời không ngừng nuôi dưỡng nguồn cảm hứng trong viết lách để trở thành nhà văn, nhà thơ.

Bác quay sang hỏi tôi về hướng công tác sắp tới. Sau khi nghe tôi trình bày các nguyện vọng, bác khe khẽ gật đầu: “[....] cái quan trọng của dạy văn là viết vào tâm hồn trẻ chứ đâu phải viết bảng. Ký cứ mạnh dạn thực hiện đi! Bác tin là cháu sẽ dạy tốt như đã học tốt bằng cách của riêng mình.”

Ngoài cuộc gặp gỡ mang tính đổi đời này, người đọc cũng có dịp diện kiến một vài nhân vật lừng lẫy trong khoa học và văn học Việt Nam thời chiến, như giáo sư Nguỵ Như Kon Tum — nhà khoa học vật lý, hiệu trưởng đầu tiên của Trường Đại học Tổng Hợp Hà Nội, hay buổi ghé thăm chia sẻ về nghề viết của nhà văn Nguyên Hồng với lớp Văn của trường thời bấy giờ.

Ở gần cuối sách, độc giả có dịp đồng hành cùng thầy Ký trong việc chăm chút cho đứa con tinh thần đầu tiên, chính là quyển tự truyện đầu tay Tôi Đi Học ngay tại văn phòng của Nhà Xuất Bản Kim Đồng. Chúng ta được dẫn dắt vào những ngày làm việc hối hả ở căn nhà cũ chật chội, ẩm mốc trong tiết trời nóng nực của Hà Nội.

Thời điểm chưa có máy vi tính, Nguyễn Ký đã trải chiếu, kẹp cây bút giữa đôi chân, để viết những dòng hồi tưởng về thuở ấu thơ đi học, lớn lên trong tình yêu thương, dìu dắt của thầy cô, bạn bè. Bản thảo ấy sẽ không được hoàn thành đúng tiến độ nếu không có người bạn đồng môn bên cạnh hỗ trợ, đọc lại và cùng viết. Họ cùng sóng đôi bên nhau, vừa cả lúc viết tự truyện cho đến khi cùng làm luận văn tốt nghiệp.

Về sau khi máy tính trở nên phổ biến, Nguyễn Ngọc Ký cũng tự tập luyện để sử dụng công cụ viết lách mới này.

Có lẽ vì thế mà quyển sách ban đầu có tựa đề Lớn Lên Trong Tình Yêu Thương, vì với ông, cuộc sống đã quá may mắn khi ban nhiều tình hỗ trợ, thương yêu từ tất cả mọi người, chỗ dựa tinh thần để ông có thể vươn xa hơn nữa.

Tâm Huyết Trao Đời: Lời tự sự chân thực về rào cản với người khuyết tật

Xuất bản năm 2013, Tâm Huyết Trao Đời là tự truyện cuối cùng của nhà giáo.

Nếu hai tự truyện về hành trình đi học là những mẩu chuyện chứa chan tình yêu thương với thầy cô, bạn bè, thì Tâm Huyết Trao Đời kể về hành trình đi dạy chứa nhiều thực tế gai góc. Nhà giáo phải đối mặt với những định kiến mà nhiều người khuyết tật khác gặp phải khi bước chân vào thị trường lao động.

Bất kể đã có giấy giới thiệu của Thủ tướng Phạm Văn Đồng, ông bị nơi tuyển dụng đầu tiên từ chối nhận việc. Và ngay cả khi tìm được lối vào môi trường sư phạm, không ít lần ông phải nghe những lời bán tán về khả năng của một giáo viên khuyết tật, nghi ngờ rằng ông “có thể làm nên điều gì tử tế cho lứa học sinh.” Họ cho rằng sự hiện hữu của ông chỉ đơn thuần là việc được ưu ái.

Trước ý tưởng mới của tôi, ông Phả một giây suy nghĩ rồi hỏi luôn: Sao? Anh dùng chân giơ lên bảng viết ư? Sao chuẩn được! Đấy là chưa nói đến chuyện mô phạm đó. Các anh biết rồi đấy. Người thầy khi lên lớp tất tất mọi cử chỉ, hành vi đều phải mẫu mực, phải mô phạm. Ông thầy không bao giờ cho phép mình làm bất cứ điều gì gây ra phản cảm trước mắt học trò. Đó là một nguyên tắc sư phạm bất di bất dịch mà ai cũng phải tuân thủ, anh Ký ạ.

Những khuôn mẫu như “chuẩn mực,” “mô phạm” được áp dụng để thiết lập rào cản, giới hạn một người khiếm khuyết có thể tiến xa được bao nhiêu, đạt được thành tựu gì trong cuộc sống. Và hơn cả câu châm chọc “thằng què” hay trò nghịch tay của bọn trẻ con, sự phân biệt ấy phơi bày thiếu sót lớn lao trong nhận thức của xã hội Việt Nam thời kỳ sau giải phóng. 

Độc giả được dịp đồng hành cùng Nguyễn Ngọc Ký trong việc giải quyết bài toán: làm sao có thể trở thành nhà giáo “chuẩn sư phạm”? Câu trả lời nằm ở việc soạn ba giáo án cho mỗi bài giảng, thiết kế tiết học trên lớp bằng câu hỏi lôi cuốn, và hệ thống ròng rọc do ông tự sáng chế để hiện nội dung bài học. Kết quả, những bài giảng “ít phấn,” “ít mô phạm” ấy của ông không những thành công trong việc khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh, mà còn được tuyên dương bởi đoàn thể địa phương nhờ tính chất sáng tạo. Từ đó, ông giúp phần nào tái định nghĩa quan niệm “cơ thể nguyên vẹn mới là chuẩn” của cộng đồng quanh mình lúc bấy giờ.

Sự hiện diện của Nguyễn Ngọc Ký là một ngọn hải đăng cho các học sinh mang khiếm khuyết về cơ thể.

Nửa sau của hồi ký là những mẩu chuyện về đời sống của ông khi bước xuống bục giảng, và trở về nhà trong vai trò của một người chồng, người cha. Người đọc không khỏi xúc động trước những dòng chữ chan chứa tình yêu ông dành cho gia đình, khi ông âu yếm ôm cô con gái Ngọc Ánh bằng “vòng chân” trong tiếng ru hời, hay khi ông thức dậy từ sáng tơ mơ để giặt tã và đỡ đần cho vợ. Qua đó, một hình ảnh bình dị hơn của nhà giáo, cũng như mưu cầu cơ bản của người khuyết tật được thể hiện. Đó khát khao yêu thương, khát khao sống trọn vẹn và xây dựng một tổ ấm hạnh phúc.

Ta cũng lại thấy tinh thần bền bỉ, giàu nghị lực của ông khi dùng chất thơ để vượt lên nỗi đau thể chất. Trong thời gian điều trị bệnh viêm cầu thận và suy thận, ông lại liên tục nghĩ ra ý tưởng để viết và nhờ người vợ chép lại cho mình. Giữa những lần nằm lọc máu đau đớn, ông sáng tác thêm rất nhiều tác phẩm thiếu nhi như câu đố và truyện cổ tích để tiếp tục truyền cảm hứng cho thế hệ tiếp theo từ giường bệnh.

Người vợ hiền là “đôi tay” cho ông.

Lời kết

Dù các tác phẩm khá trung thành với những mô típ như vượt hoàn cảnh khó khăn để truyền cảm hứng, nhưng tự truyện của Nguyễn Ngọc Ký không chỉ đơn thuần là bức chân dung về một tấm gương nghị lực. Hơn thế nữa, hành trình đi học và bước lên bục giảng của ông phản ánh tâm tư và mong mỏi thực sự của người khuyết tật trong xã hội: được hoà nhập và đóng góp hết sức mình cho cuộc đời.

]]>
info@saigoneer.com (Phạm Vĩnh Anh.) Loạt Soạt Fri, 06 Jan 2023 15:00:00 +0700
Am Mây Ngủ: Cuộc hòa thân đầy toan tính của Huyền Trân công chúa dưới góc nhìn của Thích Nhất Hạnh https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17413-am-mây-ngủ-cuộc-hòa-thân-đầy-toan-tính-của-huyền-trân-công-chúa-dưới-góc-nhìn-của-thích-nhất-hạnh https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17413-am-mây-ngủ-cuộc-hòa-thân-đầy-toan-tính-của-huyền-trân-công-chúa-dưới-góc-nhìn-của-thích-nhất-hạnh

"Nàng thấy sự sống của người dân Chàm không khác gì sự sống của người dân Việt, cả hai dân tộc cùng đau những nỗi đau như nhau, cùng buồn những nỗi buồn như nhau, cùng ao ước những nỗi ao ước như nhau.” 

Công chúa An Tư được vua Trần Thái Tông gả cho tướng giặc Thoát Hoan với mong muốn làm chậm bước tiến của ngoại xâm. Công nữ Ngọc Vạn của chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên bằng lòng gả đến Chân Lạp để tiếp tục công trình mở cõi của tổ tiên. Suốt chiều dài lịch sử, đã có biết bao “lá ngọc cành vàng” được sinh ra với số mệnh trả công ơn đất nước bằng cách trở thành sứ giả “hoà thân.” Khi học về sự nghiệp chống thù trong giặc ngoài của đấng nam nhi trong chính sử, có bao giờ bạn thắc mắc rằng trong tình cảnh ấy, các nàng công chúa sẽ có suy nghĩ gì, sẽ cảm thấy thế nào khi bằng lòng ra đi vạn dặm để giúp cha anh giành lấy nền hòa bình cho non sông?

Bắt đầu từ ý tưởng trên, tôi tìm thấy tập truyện Am Mây Ngủ của thiền sư Thích Nhất Hạnh. Dựa trên những tư liệu chính sử và dã sử như Đại Việt sử ký toàn thưTam Tổ Thực LụcAm Mây Ngủ kể về cuộc sát nhập của Đại Việt và Chiêm Thành (vương quốc Chăm Pa). Các tình tiết được thuật lại dưới góc nhìn giả tưởng của vị hoàng đế xuất gia, cũng như lối diễn giải mang triết lý Phật pháp của của vị thiền sư. Trong đó, công chúa Huyền Trân là “viên gạch” đầu tiên trong công trình đặt nền móng hòa bình của Trần Nhân Tông và nhà vua xứ Chiêm Thành Chế Mân (Jaya Simhavarman III).  

Khi Đại Việt còn nằm dưới sự thống trị của phương Bắc, Chiêm Thành đã nhiều lần mang quân đánh chiếm Nhật Nam, Cửu Chân nhưng đều bị Trung Hoa đánh bại, cũng vì vậy mà việc phân định ranh giới giữa hai nước là vấn đề hết sức phức tạp. Năm 981, sau khi giành được độc lập, Đại Cồ Việt lần đầu mang quân chinh phạt vương quốc Chiêm Thành sau nhiều lần xảy ra xung đột, đánh dấu thay đổi trong quan hệ bang giao hai nước. Chiêm Thành thần phục Đại Việt nhưng không hoàn toàn khuất phục và thường bỏ triều cống dưới thời Lý. Đến năm 1306, vua Chế Mân dâng hai châu Ô, Lý cho nhà Trần làm sính lễ cưới công chúa Huyền Trân, mối hòa hảo giữa hai nước được lập lại trong thời gian ngắn ngủi.

Sự hy sinh của nàng công chúa cho thời cuộc

Mở đầu cuốn sách là lời bạt cho thấy tấm lòng của Phật hoàng Nhân Tông và sứ mệnh của công chúa Huyền Trân — con gái ngài. Mười chương truyện là hành trình thực hiện sứ mệnh của Huyền Trân được sư ông làng Mai kể bằng giọng văn bình đạm của một thiền sư đã mang đến thông điệp thấm đượm lòng nhân ái và chất thiền của Phật giáo.

Phiên bản Huyền Trân công chúa được Am Mây Ngủ khắc hoạ từng hoài nghi bản thân chỉ là một món hàng đổi chác. Nhưng khi hiểu được tầm nhìn của vua cha, nàng bằng lòng đến Chiêm Thành với mong ước cuộc hôn nhân của nàng và vua Chiêm sẽ giúp xóa nhòa hận thù chất chứa trong lòng hai dân tộc bấy lâu. Nàng nỗ lực học tiếng Phạn và văn hóa Chiêm, nỗ lực hiểu và yêu thương dân Chiêm như dân Việt. Thế nhưng khi vua Chế Mân và thượng hoàng qua đời, triều đình hai nước không ai hiểu được tấm lòng đó của tiên đế và tiếp tục đẩy nhân dân hai nước vào cuộc chiến kéo dài. Điều đó khiến Huyền Trân đau lòng và cho rằng sự hy sinh của mình là vô nghĩa:

Mấy ai hiểu được lòng của Trúc Lâm đại sĩ. Ai cũng xưng là Phật tử nhưng mấy ai có được một trái tim và hai con mắt từ bi như ngài.

Trải qua bao e ngại, hạnh phúc, lo âu, thất vọng rồi lại hy vọng, Huyền Trân muốn được tái sinh trong một kiếp khác, làm một người thiếu phụ thôn quê, dân dã. Và mong ước đó của nàng đã hoàn thành. Đọc Am Mây Ngủ, tôi nhận ra số phân của Huyền Trân có chăng vẫn còn may mắn so với những công chúa khác trong lịch sử Việt Nam, bởi sau hàng loạt biến cố, nàng có cơ hội được sống một cuộc đời bình thường như mong ước và “đền trả công ơn đất nước” theo cách của một Phật tử.

Sau khi trở về từ đất Chiêm, Huyền Trân quyết định nương náu nơi cửa thiền với pháp danh Ni sư Hương Tràng. Nàng hiểu rằng khi nàng chăm sóc cho một chú tiểu tại chùa là đang chăm sóc cho thế tử Chế Đa Gia — đứa con trai mà nàng đã phải bỏ lại Chiêm Thành — và cũng là chăm sóc cho con dân Việt-Chiêm. Đó là cách Huyền Trân tiếp tục công trình của cha nàng.

Chiến tranh có thể được ngăn chặn bởi sự tôn trọng và thấu hiểu?

Ai cũng từng nghe đến câu phong dao: “Tiếc thay hột gạo trắng ngần / Đã vò nước đục laị vần lửa rơm,” ám chỉ không ai khác ngoài nàng công chúa Huyền Trân. Tư tưởng phân biệt “kinh-thượng” được thể hiện qua phép so sánh công chúa Huyền Trân với tư dung quý báu như vàng ngọc, bị gả đi làm vợ cho vua Chiêm Thành là “nước đục.” Trong khi ấy, khi nước Việt còn nằm dưới sự đô hộ của phương Bắc, người Chăm đã có những thành tựu về kinh tế, chính trị và văn hóa đáng kể. Hà cớ gì mà dân chúng ta lại xem thường họ? Quả nhiên, một mối quan hệ không có sự tôn trọng lẫn nhau thì không thể là mối quan hệ bền vững:

Người Đại Việt đã từng nguyền rủa nước Tống và người Nguyên vì sự hung dữ và óc xâm lược của những nước này. Vậy thì tại sao người Việt lại vẫn không thôi dòm ngó nước Chiêm và dở cái trò ỷ mạnh hiếp yếu?

Chính sự thiếu tôn trọng này đã dẫn đến cuộc giải cứu “bội tín” — cướp Huyền Trân từ đất Chiêm trở về Đại Việt. Trong Am Mây Ngủ, cuộc giải cứu đẫm máu được lướt qua nhẹ nhàng dưới góc nhìn của Huyền Trân như để tránh khơi dậy những vết thương, những mất mát của một đời người, của một dân tộc và để hận thù lịch sử được ngủ yên.

Chính Huyền Trân cũng không hiểu được anh mình, tức vua Anh Tông, khi được cứu về từ đất Chiêm bằng một kế hoạch mà nàng không thể không nghe theo. Chính Huyền Trân còn cảm thấy nước Việt thật xa lạ: “Chính nước Đại Việt là nước của mình mà công chúa còn chưa biết rõ thì làm sao hiểu được dân Chiêm?” Khi Đại Việt xem mối hòa thân với Chiêm Thành là một cuộc “phấn son mở cõi,” lấy nước mắt má hồng để tô thắm non sông, thì với Chiêm Thành, đó là bước đánh đổi vì nền hòa bình, là khát vọng yên ổn của con dân. Đại Việt, trong khi bị tham vọng làm mờ mắt, đã quên mất sự quý giá của thái bình cùng nỗi thống khổ của cả người dân Việt và dân Chiêm.

Lời nhắc nhở về giá trị của hòa bình

Mối duyên nợ thấm mẫu máu đào giữa hai dân tộc Việt-Chiêm còn kéo dài đến nhiều thế kỷ về sau. Dưới góc nhìn của thiền sư Thích Nhất Hạnh, bi kịch này của hai dân tộc xuất phát từ việc thiếu thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau — Huyền Trân đã không thể hoàn thành công trình của thượng hoàng Nhân Tông là mang lại hòa bình cho hai nước bởi tham vọng của chính triều thần đôi bên. Sự thiếu thấu hiểu của những người kế thừa dành cho sự nghiệp của tiên đế là nguyên nhân dẫn đến sự sụp đổ của nền bang giao hai nước. Tuy nhiên, tác phẩm không phải là một lời biện minh cho những sai lầm trong quá khứ mà để nhắc nhở cho hiện tại.

Trong Am Mây Ngủ, Thích Nhất Hạnh không né tránh khi nói về quan hệ căng thẳng từ ngàn đời giữa Đại Việt và Chiêm Thành, cũng không che giấu tham vọng mở cõi của Đạt Việt và kế hoạch “giải cứu” Huyền Trân là biểu hiện của sự bội tín. Từ góc nhìn của tác giả, mối giao hảo ban đầu được xây dựng trên tình cảm giữa thượng hoàng Nhân Tông và vua Chế Mân, tuy nhiên quan lại triều đình Đại Việt lại có lòng tham khi tiếp nhận hai châu Ô, Lý và sau đó tiếp tục can thiệp vào triều đình xứ Chiêm nhằm bức họ lùi dần về phía Nam:

Vua nói rằng việc vua Chàm có ý định dâng hai châu Ô và Ri là do từ ý vua ấy đề nghị để bày tỏ thiện chí muốn xây dựng tình hữu nghị giữa hai nước chứ không phải chuyện mua bán. Trong triều có người vì tham đất nên tán thành chuyện thông gia giữa hai nước, nhưng riêng vua, vua không nghĩ như họ. Vua rất quan tâm đến hạnh phúc của công chúa và nghĩ rằng cuộc nhân duyên này có thể mở ra một chân trời ngoại giao mới, có rất nhiều hứa hẹn.

Cuộc thông hôn giữa Đại Việt và Chiêm Thành là nỗ lực giải quyết mâu thuẫn bằng con đường hòa bình, hai bên đều có được điều mình muốn, vì mục đích an cư, lạc nghiệp của nhân dân. Tuy nhiên, nỗ lực ngăn chặn chiến tranh đó đã thất bại và dẫn đến hệ quả là sự kiệt quệ của triều đình nhà Trần khiến Đại Việt, một lần nữa, phải chịu đựng sự đô hộ của phương Bắc. Quan hệ Việt-Chiêm là một lời nhắc nhở về giá trị của hòa bình và sức mạnh của liên minh hữu nghị.

Lời kết

Tôi cho rằng, thông điệp lớn nhất nằm ở phần phụ lục. Phụ lục niên biểu liệt kê các sự kiện trong vòng gần trăm năm của triều Trần, bắt đầu từ năm 1292 khi Thái tử Thuyên (tức vua Anh Tông, anh của Huyền Trân) lên ngôi Thái tử và kết thúc bằng sự kiện:

“Năm 1377, Vua Duệ Tông đem quân đi đánh Chiêm Thành bị phục kích chết trong thành Trà Bàn. Quân Đại Việt thua lớn. Cuối năm, chiến thuyền Chế Bồng Nga ra Thăng Long.

Ta thường nghe nói một nền hòa bình được hình thành từ nhiều cuộc chiến nhưng chiến tranh luôn luôn là điều vạn bất đắc dĩ. Sau khi “giải cứu” công chúa khỏi tập tục tuẫn táng cùng vua Chiêm, triều đình Đại Việt tiếp tục can thiệp sâu vào triều chính Chiêm Thành — bắt vua cũ, lập vua mới —  và đẩy nhân dân hai nước vào những cuộc chiến tranh vô nghĩa, thứ đã ngốn hết quốc lực và góp phần làm sụp đổ cả triều đại trăm năm.

Ta có thể đặt ra vô vàn giả thuyết, chẳng hạn như nếu vua Chế Mân không mất sớm, nếu Phật hoàng không viên tịch chỉ một thời gian ngắn sau đó, nếu vua Anh Tông và triều đình Đại Việt không mang lòng tham vọng mà can thiệp quá sâu vào chính sự Chiêm Thành thì liệu quan hệ ngoại giao hòa bình giữa hai nước có thể được duy trì, liệu lịch sử có rẽ theo một hướng khác? Tuy những giả thuyết tươi sáng ấy không thể thay đổi quá khứ nhưng tôi nhận ra, biết đâu ta có thể tìm ra cách giải quyết cho các vấn đề hiện tại và tương lai.

]]>
info@saigoneer.com (Thư Trịnh.) Loạt Soạt Mon, 28 Nov 2022 11:59:00 +0700
'Truyền Kỳ Mạn Lục' kể chuyện 'drama' tam giới li kì của văn học trung đại https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17371-truyền-kỳ-mạn-lục-kể-chuyện-drama-tam-giới-li-kì-của-văn-học-trung-đại https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17371-truyền-kỳ-mạn-lục-kể-chuyện-drama-tam-giới-li-kì-của-văn-học-trung-đại

“Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải.”

“Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa.” (Trích 'Truyện Người Con Gái Nam Xương')

Khó mà quên được loạt câu văn giàu nhịp điệu như thể là thơ mà Vũ Nương đã nói với Trương Sinh vì ai cũng ít nhất một lần thử học thuộc câu văn trên để chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp cấp 2. Phải có tình cảm mãnh liệt hay ức chế dồn nén thế nào để có thể tuôn ra được những hình ảnh ẩn dụ nối tiếp nhau, chạy thẳng vào lòng người đọc như một đoàn tàu lau về phía trước.

Tự xưa, nếu Tứ Thư, Ngũ Kinh là khuôn vàng thước ngọc để trui rèn kỷ cương và phẩm giá, thì những câu chuyện dân gian phủ màu thần bí lại giáo dục về nhân quả và lối sống con người. Truyền Kỳ Mạn Lục — 傳奇漫錄, tức “Ghi chép tản mạn những truyện lạ” — chính là một trong số đó.

Truyền kỳ chuyện phiên dịch

Với những đầu sách trung đại Việt Nam, tôi thường chú ý đến vị dịch giả hơn là tác giả, bởi việc dịch văn bản Hán-Nôm sang tiếng Việt hiện đại là hành trình không phải dịch giả nào cũng dám khởi hành. Truyền Kỳ Mạn Lục được Nguyễn Dữ chép lại vào thế kỷ 16 bằng chữ Hán rồi được dịch ra chữ Nôm, tức gần một thế kỷ trước khi Từ điển Việt - Bồ - La ra đời. Nhưng mãi đến 1943, tác phẩm này mới được chuyển ngữ sang chữ Quốc ngữ nhờ vào tài trí của dịch giả Trúc Khê.

Trúc Khê tên thật là Ngô Văn Triện, là một nhà báo, dịch giả, nhà văn và nhà cách mạng hoạt động chủ yếu ở Hà Nội. Ông được biết đến qua những truyện ký danh nhân Việt Nam, các biên khảo về lễ tục và lịch sử dân tộc. Các tác phẩm dịch thuật nổi tiếng của ông gồm: Binh Pháp Tôn Tử, Bao Công Kỳ Án, Tang Thương Ngẫu Lục, v.v. Và thật tiếc khi cái tên của ông lại không được nhắc nhiều ở Việt Nam như các tác phẩm ông đã dịch.

Quay trở lại với tác giả, Truyền Kỳ Mạn Lục là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ (hay Nguyễn Dư). Tác phẩm chép lại 20 truyện ly kỳ trong dân gian từ tỉnh Nghệ An ra Bắc, xảy ra từ thời Lý đến Lê Sơ tức ngót nghét 500 năm. Thân thế của Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác vẫn hãy còn là vấn đề cần bàn luận vì có bản chép là Nguyễn Dữ, bản khác là Nguyễn Dư.

Dù vậy, dân gian lưu truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống vào giai đoạn tồn tại cả triều Lê Trung Hưng và nhà Mạc. Trong thời kỳ loạn lạc, nhiễu nhương, ông chủ trương ẩn cư vào núi rừng. Không thể phủ nhận rằng 20 câu chuyện trong Truyền Kỳ Mạn Lục đã tồn tại trong các giai thoại dân gian trước đó. Nhưng chính tác giả là người đã khéo léo cài cắm những tích truyện cổ Trung Hoa, kèm với đó là quan điểm chính trị và nhân sinh quan của bản thân để làm nên một ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt.

Drama không chỉ ở cõi trần thế

Đọc 20 câu truyện TKML, lắm lúc tôi thầm thốt lên “Cái quỷ gì vậy?!” Thực vậy, thế giới trong TKML thật mà ngỡ là hư, khó mà biết đâu là âm là dương, thiên đàng địa ngục chỉ cách nhau một dấu chấm câu. Dẫu vậy, thật không khó để nhận ra bài học xuyên suốt tác phẩm là “thiện giả thiện báo, ác giả ác báo,” và càng thú vị hơn khi đọc những lời bình khuyết danh ở cuối mỗi truyện.

Dân gian Việt luôn có những cách rất sáng tạo để triệt cái ác tận gốc. Nói cách khác, người ác sẽ bị trừng phạt không phải trên thân xác, mà phải huỷ diệt cả linh hồn. Cái chết trong TKML chỉ nhẹ bằng một câu văn, linh hồn kẻ ác sau sẽ bị trừng trị thích đáng. Thế nhưng có phạt thì cũng có thưởng; truyện 'Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào' là truyện duy nhất lấy việc trọng thưởng người hiền làm chủ đề.

Sinh vào thời nhiều biến động, niềm tin của tác giả vào triều đình lẫn kẻ sĩ bị lung lay đến gốc rễ; và người dân đương thời cũng có chung nỗi niềm. Những vị thánh thần như Long Thần, Thuỷ Thần đều trở thành kẻ ác trong TKML. Các vị không chỉ lừa dân chúng lấy của cúng bái, mà còn chiếm nơi thờ tự các vị Thổ Thần hay Thành Hoàng để có thêm của cải. Lúc đó, các vị thần bị hại phải tìm đến người trần để đâm đơn kiện lên trời. Tinh thần “không tin được ai” này cũng có thể xem là một mắc xích trong chuỗi DNA của TKML.

Nhưng lớp nhân vật được khắc hoạ nhiều nhất trong TKML chính là người phụ nữ. Họ cũng có thể là người, là ma, là hoa, là tiên. Người phải chịu tủi nhục lẫn người được thăng hoa; người chung thuỷ sắc son lẫn “tiểu tam,” “trà xanh” không biết liêm sỉ; người chết trở thành quỷ ma bị yểm bùa cho tiêu biến, người gieo mình xuống sông thì trở thành ngọc nữ trong Thuỷ cung. Tỉ như 'Chuyện Người con gái Nam Xương' — ai đọc cũng phải “đến lạy” cái máu ghen và sự gia trưởng của Trương Sinh. Vì hắn mà học sinh bao thế hệ đã phải học thuộc lời oán của Vũ Nương!

Ấy mà với tôi, truyện ấn tượng hơn cả chính là 'Truyện Kỳ ngộ ở trại Tây,' vì câu chuyện kể về một “gia đình hai con vợ, chồng hạnh phúc” từ trong buồng lẫn ngoài hiên. Một chàng thư sinh và hai nàng “việc xuân chưa trải, nhuỵ thắm còn phong” cùng hưởng lạc thú, rồi tục ngâm cho nhau nghe những vần thơ dâm dấp, rồi một nàng ghen chỉ vì chàng lỡ khen nàng kia, rồi lại làm hoà, rồi chia phôi, rồi tới đoạn “twist” có-trời-mới-đoán-được ở cuối truyện. Ai mà ngờ một ấn phẩm từ trăm năm trước cũng có thể loại nội dung xấu hổ mà tôi vẫn hay thấy trên “chú chim xanh” ngày nay.

Lời kết

Qua Truyền Kỳ Mạn Lục, có thể thấy rõ quan niệm của người Việt rằng người chết cũng sống như người sống. Người dưới âm trên thiên cũng đều có những tham dục, thói hư tật xấu, tính khí khó đoán làm khổ cõi trần, nhưng rồi chuyện cũng đâu vào đó nhớ vào tài lực của người trần mắt thịt. Ấy là “có trời mà cũng có ta,” 20 câu truyện như truyền thêm niềm tin vào chính mình nơi nhân dân đang phải chịu quá nhiều lầm than của thời đại. Song, đây cũng là tác phẩm hiếm hoi soi vào chốn buồng the của nhân gian khiến độc giả hiện đại không khỏi ngạc nhiên trước sức “chịu chơi” của ông bà ta.

]]>
info@saigoneer.com (Yui Nguyễn. Ảnh bìa: Hannah Hoàng.) Loạt Soạt Fri, 23 Sep 2022 11:00:00 +0700
‘Hong Tay Khói Lạnh’ hay lời thì thầm của những khổ đau https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17342-nguyễn-ngọc-tư-hong-tay-khói-lạnh-tản-văn-review https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17342-nguyễn-ngọc-tư-hong-tay-khói-lạnh-tản-văn-review

“Má! Yêu Má!” 

Ba chữ tưởng chừng vô hại, thậm chí là dễ thương trong nhiều ngữ cảnh. Nhưng khi chị Nguyễn Ngọc Tư dùng ba chữ ấy để kết thúc một chương trong cuốn tản văn Hong Tay Khói Lạnh, chúng như thụi vào bụng tôi cái đau khổ của sự mất mát.

Hong Tay Khói Lạnh là tác phẩm mới nhất trong ngót nghét 30 tựa sách của Nguyễn Ngọc Tư. Chị đã từng đoạt những giải thưởng danh giá cả trong nước lẫn quốc tế với những tác phẩm nổi tiếng như Ngọn Đèn Không TắtCánh Đồng Bất Tận. Ấy vậy mà trên những bìa sách của chị, ít nhất là những cuốn tôi có, đoạn giới thiệu tác giả chỉ vỏn vẹn mấy dòng: “Sinh năm 1976. Hiện sống và viết tại Cà Mau.”

“Sinh năm 1976. Hiện sống và viết tại Cà Mau.” Ảnh: Nguyễn Ngọc Tư.

Hong Tay Khói Lạnh là tập tản văn ghi lại những câu chuyện của chị. Vẫn biết là những câu chuyện của chị Tư thường buồn. Nhưng trong những tập tản văn trước, đó là cái buồn man mác, nhẹ nhàng, vừa đủ để người ta cùng gặm nhấm, đồng cảm. Đến cuốn sách này, xuất bản năm ngoái khi đại dịch hãy còn hoành hành, nỗi buồn đã hóa thành tuyệt vọng. Cứ đi hết một chương là tôi lại tự hỏi: Chị, chị có ổn không?

Bản thân tôi vốn thích những thứ lạc quan nên cũng phải cố gắng lắm mới đọc hết cuốn sách. Dù vậy nhưng tôi vẫn biết rằng kiểu gì mình cũng phải đọc hết chứ không bỏ dở, đọc xong rồi còn muốn viết về nó nữa. Một phần vì tôi mê văn của chị Tư đã lâu, mê cái ngòi bút tinh tế và chân thực với không một chữ thừa. Đây, như cách mà chị bắt đầu chương “Việc nhà”:

Vô số động từ nằm giữa các dấu phẩy, các liên từ hoặc nhịu lẫn vào nhau đến không phân biệt nổi, và chị không biết khi nào thì chúng mới thôi tuôn ra. Theo thời gian, một số từ mới sinh sôi, rồi sao chép nhau xếp hàng vào mớ từ cũ. Tràn ra ngoài trang giấy, khó mà căn chỉnh chúng vào cột. Lổm nhổm khắp nơi, chúng mải mướt, nếu không phải nước thì là mồ hôi.

Chị chẳng cần nói việc nhà là những việc gì nhưng chỉ đọc vậy thôi là đã thấy mệt lắm rồi. Chị cũng là một người kể chuyện điêu luyện. Chỉ cần mấy câu thôi mà chị có thể xây dựng những tình cảnh éo le mà kết thúc thường không có hậu. Và cuốn Hong Tay Khói Lạnh lại đầy rẫy, đúng hơn là chỉ có, những câu chuyện như vậy. Như một người mới nhận tin mình sắp làm mẹ chẳng hạn:

Cùng lúc, chị biết mình có khối u chín muồi trong phổi và một đứa con vừa tượng hình. Ở bệnh viện nói chị hãy bỏ đứa con, nếu được sống lâu hơn. “Mẹ chọn con,” chị nói ở trong buồng vệ sinh bệnh viện, khi áp tay vào bụng.

Trong cuốn sách mỏng, cứ vài ba trang thì cái chết lại hiện lên một lần, nhưng không phải lúc nào cũng với đau thương. Nhiều nhân vật của chị Tư đón chào tử thần như một người quen, một sự giải thoát. Như cụ bà nằm im trên sàn nhà vệ sinh, miệng chẳng buồn kêu cứu dù đứa con trai đang ngồi phòng bên:

“Cây lược giắt trên miệng ống [bàn chải], mới một tuần đã nhớt thứ bợn keo vuốt tóc của thằng Bảo, và tuýp kem đánh răng không đậy nắp, đốm kem phía trên miệng khô quánh queo. Tật đụng đâu bày bừa ra đó, Bảo di truyền sang cả đứa nhỏ. Cái bản sao nọ cũng biết rải vỏ kẹo khắp nhà, cơm rơi bánh rớt suốt đường đôi chân gầy gò ấy đi qua.

“Mình thiệt là quá ớn chuyện đi thu dọn cho tụi nó rồi,” bà nghĩ, trong lúc chờ đám sương khỏa lên gương mặt phẳng lặng của mình.

Tôi bị cuốn theo cuốn sách cũng bởi vì chị Tư giúp tôi định nghĩa lại tản văn là gì. Trước đây tôi nghĩ nó là một thứ ghi lại những gì người viết trải nghiệm trong cuộc sống, nhưng chị đã khai sáng tôi rằng ảo tưởng cũng có thể là tản văn. Nửa đầu cuốn sách, tiêu đề “giả tưởng sau tận thế,” chị đưa người đọc xuống Ngầm — một thế giới mà con người chui vào lòng đất để tránh cái nắng chết chóc của mặt trời.

Trong Ngầm cũng có nắng, và mặt trời. Hết thảy đều được tái tạo sống động, y như thật… Mưa nắng được lập trình sẵn từ đầu năm, trước khi trình lên Hội đồng Ngầm, và làm sao cho không năm nào giống năm nào.

Và ở trong cái Ngầm ấy còn gì nữa ngoài những câu chuyện buồn thiu. Nào là những người nghèo sống trong xó xỉnh, nào là những cảnh tan đàn xẻ nghé, nào là những cái chết. Thế giới giả tưởng nhưng tôi ngờ những cái buồn là thật, là do chị lắng nghe ngoài đời rồi chắt chiu vào lòng, để rồi nặn lên từng con chữ, từng nỗi đau một.

Đến cuối sách, chị Tư hiện lên với những lời bộc bạch cá nhân. Không còn ẩn sau câu chuyện của một bà già từ con hay một cậu trai đang trốn chạy, chị chia sẻ, với tư cách là một người viết, về những “lời thì thầm”:

Chẳng có gì để dứt tôi ra khỏi lời thì thầm, khi tôi chơi trong vườn với các con mình, đưa chúng tới trường, khi ngồi trong buổi tiệc đông người… Âm thanh đó chỉ ngưng khi tôi viết ra xong câu chuyện của mình, để lại trong tôi không cơn trống rỗng. Thật may, có quá nhiều câu chuyện đang xếp hàng chờ được kể, và cũng chừng ấy lời thì thầm còn chờ để vẳng bên tôi…

“Hãy kể câu chuyện này ra, bởi bạn là nhà văn, đó là việc bạn phải làm, duy nhất. Và đó là thứ duy nhất làm nên một thế đứng kiêu hãnh, cho người viết.”

Đặt cuốn sách xuống, đọng lại trong tâm tôi không phải là những khổ đau, mà là những lời thì thầm. Lời văn của chị Tư đặt ra cho tôi một mẫu mực để noi theo và rèn luyện. Và những câu chuyện của chị cũng truyền cảm hứng để tôi tự xây dựng một thế giới giả tưởng — việc mà tôi chưa bao giờ làm — rồi truyền vào đó những câu chuyện của riêng mình.

]]>
info@saigoneer.com (Linh Phạm.) Loạt Soạt Tue, 09 Aug 2022 14:00:00 +0700
Tiểu thuyết 'Build Your House Around My Body': Một Việt Nam đan xen nhiều mảnh đời từ quá khứ đến hiện tại https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17331-một-việt-nam-đan-xen-nhiều-mảnh-đời-trải-dài-từ-quá-khứ-đến-hiện-tại https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17331-một-việt-nam-đan-xen-nhiều-mảnh-đời-trải-dài-từ-quá-khứ-đến-hiện-tại

Tại văn phòng Saigoneer, chúng tôi có chung một trăn trở về sự phổ biến của chủ đề chiến tranh trong văn học về Việt Nam. Đến tận ngày nay, các tác giả trong cộng đồng người Việt hải ngoại, ngay cả những cây bút trẻ, vẫn mãi miết cho ra mắt các tác phẩm xoay quanh chiến tranh và vết thương chiến tranh.

Tuy vậy, kho tàng văn học Việt Nam là tập hợp nhiều tiếng nói khác nhau, đại diện cho sự đa dạng cộng đồng. Những đầu sách yêu thích của tôi có thể kể đến The Mountains Sing and Things We Lost to the Water. Do đó, nhận định trên về chủ đề chiến tranh không mang sắc thái chỉ trích.

Build Your House Around My Body, mặt khác, đã thoát ly ra khỏi chủ đề muôn thuở này. Do đó, dù đây là tiểu thuyết đầu tay của Violet Kupersmith, sự đón nhận của khán giả dành cho tác phẩm này vượt ngoài mong đợi. Violet mang hai dòng máu Mỹ và Việt Nam và đã từng sinh sống ở Sài Gòn và Đà Lạt trước khi quay về Mỹ. Cô cũng từng dạy tiếng Anh cho học sinh người Việt ở đồng bằng sông Cửu Long thông qua Chương trình Học giả Fulbright.

Cuốn sách như một cuốn hồi ký của Violet về quãng thời gian cô ở Việt Nam. Điểm đặc biệt trong lối kể chuyện của cô là lối miêu tả bối cảnh sống động và chân thật. Nhờ vào lối miêu tả đó, tác phẩm vẫn hấp dẫn với bạn đọc qua hàng thập kỉ và thế hệ.

Vì dòng thời gian trong tác phẩm không được sắp xếp theo trình tự tiếp tuyến, độc giả sẽ xuất phát từ Sài Gòn những năm 2010 về tỉnh Gia Lai trong thập kỷ 80, và Đà Lạt những năm 1940 trước khi quay về thời điểm hiện tại. Cùng với nhiều các nhân vật độc đáo và riêng biệt, rất khó để miêu tả Build Your House Around My Body một cách đơn giản.

Nếu phải chọn một nhân vật chính, đó sẽ là Winnie Nguyễn (tên thật là Ngoan), là một người con lai Mỹ-Việt. Cuộc sống của cô thường rơi vào tình trạng mất phương hướng, khiến cô có xu hướng tự hủy hoại bản thân. Cô đến Sài Gòn vào những năm cuối những năm 2010 và được nhận vào một trung tâm Anh ngữ tên Achievement!. Thay vì đặt tâm huyết và nỗ lực vào công việc này, cô lại bị cuốn vào những thói quen xấu. Cuộc sống của Winnie có thể được tóm gọn trong những cụm từ như: nghiện rượu, những đêm buông thả trong hộp đêm, những quyết định đi-vào-lòng-đất của cô. Chuyện cứ tiếp diễn như thế đến trước khi cô quyết định biến mất trong một ngày nọ, đây cũng là một tình tiết cao trào trong truyện.

Một người nước ngoài sống ở Sài Gòn hoàn toàn có thể hiểu rõ được cuộc sống của Winnie. Cũng qua đó, họ có thể nhận thấy các khuôn mẫu mà xã hội dành cho người nước ngoài.

Ví dụ như nhà Cooks, một đôi vợ chồng người Mỹ - đồng nghiệp của Winnie ở Achievement! — người “chủ động giới thiệu họ là 'những người ngoại quốc tốt bụng.'” Họ học tiếng Việt, làm công tác thiện nguyện, tránh xa các địa điểm du lịch đại trà, lại còn thích tập yoga và ăn bánh mì chay. Thế nhưng, họ lại quay lưng với những món ăn đường phố và các sản phẩm địa phương.

Độc giả có thể cảm thấy Build Your House Around My Body mang nhiều sắc thái điện ảnh khác nhau. Những tình tiết xoáy vào những sự kiện khiến người xem xanh mặt như những phim trắng đen ngày trước. Nhất là tình tiết liên quan tới một cảnh sát “bê” thuốc trong một nhà vệ sinh ngập nước ở một quán karaoke.

“Bộ phim” còn sử dụng các yếu tố siêu nhiên, và đôi khi không khác một bộ phim kinh dị điển hình, cụ thể trong những đoạn miêu tả quá khứ đen tối. Việc này được thể hiện rõ nét nhất tại một ngôi làng xã la Kare, ở Gia Lai, nơi mà một người phụ nữ trẻ mất tích vào năm 1986. Tại đây, chúng ta sẽ nhìn thấy một xưởng cao su bỏ hoang, một con quỷ tưởng tượng, một nhà ngoại cảm đáng sợ (điều hành Công ty Trừ tà Sài Gòn), và một người lão bà kì quặc nuôi một con chó bị quỷ ám.

Tất cả những tuyến nhân vật này — bao gồm một cậu bé con lai Khmer- Pháp được gửi vào một trường học ở Đà Lạt ngay khi quân đội Nhật bản xâm lược — bất ngờ là đều giao nhau. Việc đọc cuốn tiểu thuyết như trải nghiệm một chuyến tàu lượn siêu tốc, một cảm giác rất phấn khích, một cảm giác hoàn toàn khác với bất kỳ câu chuyện kể ở Việt Nam nào mà tôi từng đọc.

Violet là một nhà văn tinh tế với lối tả cảnh đầy lôi cuốn. Ví dụ, trong những buổi đi dạo vu vơ, Winnie thường “chọn các quán cà phê nhỏ trong những con hẻm hẹp — một ngôi nhà với 4 chiếc bàn lấp đầy phòng khách, những đứa trẻ cởi truồng bò ngang dọc dưới chân, những hạt dưa — món ăn phụ mà cô ấy không bao giờ động vào — dần ỉu đi trong mấy tô nhựa màu đỏ cạnh vài cái gạt tàn mà mấy gã cởi trần chơi đánh bài không buồn đoái hoài tới, thay vào đó, họ toàn gảy tàn thuốc ra sàn.”

Hay, khi nhắc đến chuyện ăn uống, “luôn có mấy người trên góc đường bán món thịt heo quay chặt nhỏ hay bánh mì hay món súp óng ánh mỡ gà. Winnie tin rằng đây là cách tốt nhất để tận hưởng trọn vẹn thành phố ẩm ướt này, từng tấc một, và cô ấy làm việc này với tất cả năng lượng chưa bao giờ cô dành ra cho công việc giảng dạy chính của mình.”

Còn có cả những cách miêu tả thành phố hiện tại mà chắc chắn sẽ kích thích — hoặc thậm chí kích động — những dân cư ngoan cố sinh sống lâu năm ở đây. Ví dụ như Quận 2, một nơi làm cho nhân vật công an cảm thấy hoang mang: “phần như khu ổ chuột, phần lại có vẻ an toàn cho người nước ngoài, phần như khu ngoại ô cho những người Việt Nam giàu có muốn sống cuộc sống như người nước ngoài, và vỉa hè — nơi giao thoa của mọi phần kể trên.”

Hay trong sở thú, nơi “những con vật đờ đẫn, gầy trơ xương, lủi thủi trong những chuồng xi măng bẩn thỉu,” thảm hơn cả mấy khu ổ chuột ở Quận 12. Những hình ảnh trực quan và trần trụi đó mang lại cho cuốn sách nguồn năng lượng mạnh mẽ khiến cho độc giả cảm giác như bị hút vào trong khung cảnh truyện.

Nhìn chung, Build Your House Around Body là một cuốn tiểu thuyết thú vị, sầu thảm và đầy kịch tính, mở đường cho một tài năng văn chương lớn. Đây là cuốn sách đáng được lên kệ và chắc chắn sẽ để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học đương đại lấy Việt Nam làm đề tài.

]]>
info@saigoneer.com (Michael Tatarski. Đồ họa: Phan Nhi.) Loạt Soạt Thu, 21 Jul 2022 13:00:25 +0700
'Mùa Hè Bất Tận,' món quà của người từng trải cho thanh xuân hồn nhiên và nhiệt huyết https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/16892-mùa-hè-bất-tận,-món-quà-của-người-trưởng-thành-cho-thanh-xuân-hồn-nhiên-và-nhiệt-huyết https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/16892-mùa-hè-bất-tận,-món-quà-của-người-trưởng-thành-cho-thanh-xuân-hồn-nhiên-và-nhiệt-huyết

Mùa hè không phải một mùa dễ chịu với ánh nắng bỏng rát và những cơn mưa xối xả bất chợt, nhưng nó để lại cho chúng ta những kỷ niệm rất đẹp về năm tháng cắp sách đến trường. Cũng từng là một học sinh, nữ họa sĩ Lâm Hoàng Trúc đã cho ra đời tựa truyện mang tên Mùa Hè Bất Tận để khắc họa những trải nghiệm của riêng cô về khoảng hồi ức đặc biệt này. 

Ra mắt bạn đọc sau hơn ba năm ấp ủ, Mùa Hè Bất Tận là câu chuyện xoay quanh chủ đề thanh xuân, học đường. Truyện gây ấn tượng không chỉ nhờ những hình ảnh vẽ tay hết sức kỳ công, mà còn qua việc khai thác những thông điệp nhân văn về tình bạn, gia đình và cuộc sống.

Chân dung họa sĩ truyện tranh Lâm Hoàng Trúc.

Hiện thực trên trang giấy

Phiên bản đặc biệt của Mùa Hè Bất Tận chính thức được xuất bản ngày 18/6/2021. Câu chuyện lấy bối cảnh mùa hè năm 15 tuổi của hai đứa trẻ khác giới cùng tên Phương, cùng hoang mang trước ngưỡng cửa của cuộc đời. Khi ấy, những trái tim nhạy cảm tuổi niên thiếu đã sẵn sàng đập mạnh hơn để đi tìm tự do và tiếng nói riêng cho chính mình. 

Bìa bản phổ thông của Mùa Hè Bất Tận.

Nhiều độc giả Việt yêu truyện tranh made-in-Vietnam đã biết đến tên tuổi Lâm Hoàng Trúc từ năm 2018, khi cô “chào sân” với tác phẩm đầu tay Đường Hoa. Truyện kể về hành trình lập nghiệp ở thành phố của Trung, chàng trai miền Tây với hoài bão trở thành hoạ sĩ.

Khoảng thời gian ba năm giữa hai tác phẩm đã đánh dấu sự phát triển trong cách xây dựng câu chuyện và nhân vật của nữ hoạ sĩ. Nếu Đường Hoa là món quà cô gửi tặng cho tuổi trẻ cuồng nhiệt, thì Mùa Hè Bất Tận là cái nhìn sâu sắc về thế giới học đường, với màu sắc trầm buồn hơn. Đồng thời, mạng lưới nhân vật dày đặc hơn, các mối quan hệ nhiều đan xen hơn, tính cách, động cơ, hay quá khứ của nhân vật cũng phức tạp hơn. Nữ họa sĩ chia sẻ các nhân vật được lấy cảm hứng từ tính cách của bản thân và những người xung quanh.

Nhân vật nữ chính và mẹ.

Cô tiết lộ: “Nhân vật người mẹ là giống mình nhất. Cậu Phương con trai luôn dịu dàng nhưng hờ hững với mọi thứ là dựa trên ‘ông xã.’ Còn cô bé Phương là mình ở một phiên bản tuổi thơ khờ khạo.”

Nắm lấy tự do

Nữ hoạ sĩ cho biết, không phải vì lấy bối cảnh hiện thực mà câu chuyện trở nên đơn giản hơn. Kịch bản được Lâm Hoàng Trúc hoàn chỉnh trong mười ngày và dành trọn năm 2020 để vẽ. “Tâm tư của các nhân vật được đúc kết từ những năm tháng học trò của mình, những chiêm nghiệm về sự sống, cái chết, tình cảm gia đình và tình bạn.”

Bên cạnh đó, Lâm Hoàng Trúc còn nhấn mạnh thông điệp về sự ích kỷ: “Ai cũng muốn được kiểm soát. Mỗi người đều khao khát sự tự do, nhưng lại thiếu sự đồng cảm và vị tha với người khác.”

Phân đoạn yêu thích của tác giả trong truyện.

Cũng vì vậy, nữ hoạ sĩ rất tâm đắc những những phân cảnh nơi nhân vật tự quyết định vận mệnh của mình. Trích đoạn mà cô yêu thích nhất là khi nhân vật Phương rời bỏ trường thi trong cơn mưa rồi chạy đến bầu trời mây trắng trong chương 6. “Mình đọc đi đọc lại đoạn đó và tự nhủ: ‘Dù chỉ là trên trang giấy, mình cũng đã làm được điều mình hằng mong muốn. Đó là nắm lấy tự do!’”

Tâm huyết và uy tín

Lướt qua vài khung tranh trong Mùa Hè Bất Tận, nhiều bạn đọc sẽ bất ngờ trước cách "tỉa hình" tỉ mỉ, đòi hỏi tâm huyết rất lớn từ tác giả. Thực tế, mỗi trang truyện đều được Hoàng Trúc vẽ hoàn toàn bằng tay trên giấy khổ A3. Lý do nữ họa sĩ làm khó mình đến vậy là bởi cô cảm giác việc dùng các công cụ thủ công sẽ kéo người nghệ sĩ đến gần hơn với bản chất vấn đề.

Tâm tư của các nhân vật được đúc kết từ những năm tháng học trò của mình, những chiêm nghiệm về sự sống, cái chết, tình cảm gia đình và tình bạn.

Cô giải thích: “Đối mặt với một trang giấy trắng tinh và mỗi cây bút chì là một áp lực cực kỳ lớn, bởi mỗi dụng cụ đều là một tài nguyên. Nó cho mình ý chí để tạo ra ‘một thứ xứng đáng’ với tất cả những sự hao tốn đó. Sự mỏng manh của giấy cũng khiến mình quý trọng thành quả lao động hơn.”

Những khung tranh được cô vẽ bằng tay.

Tuy nhiên, đó chỉ là một phần thử thách trước khi tác phẩm được phát hành. Theo Lâm Hoàng Trúc, cô và nhà xuất bản đã có lúc bất đồng quan điểm vì người biên tập cho rằng nhân vật cô giáo có lời thoại không đúng với chuẩn mực nghề nghiệp.

“Theo mình, việc cố tạo ra hình ảnh tốt đẹp về ngành giáo dục đồng nghĩa với sự vô cảm. Ép nhà giáo phải luôn cư xử đúng mực, bất chấp mọi hoàn cảnh, là dồn họ vào chân tường. Tuy nhiên, sau nhiều lần chỉnh sửa và cân nhắc, mình thấy tác phẩm này cũng không phải để lên án, thậm chí có thể khiến độc giả ác cảm với nghề giáo. Mình phải lựa chọn giữa việc sa lầy vào hiện thực xã hội và tô hồng cuộc sống. Nó giống như đi trên dây vậy, rớt qua bên nào cũng đều dở cả,” cô nói.

Khung cảnh nên thơ thân thuộc với tuổi học trò làm nền cho tập truyện.

Với nỗ lực lớn trong thời gian dài, cả tác giả lẫn tác phẩm đều nhận được sự ủng hộ nồng nhiệt của bạn đọc. Cô nhận định đó là nhờ sự uy tín và rõ ràng trong quá trình làm việc. Trên fanpage hơn 23.000 người theo dõi, nữ hoạ sĩ thường xuyên cập nhật tiến độ sáng tác để người hâm mộ có thể cảm nhận về dự án sắp ra mắt.

“Độc giả nhìn thấy công trình phát triển và hoàn thiện dần, có lẽ điều đó khiến họ cảm thấy dự án này thật đáng đồng tiền bát gạo. Họ thấy đẹp hay xấu thì mình không dám tự đánh giá. Nếu người ta thích thì mình rất vui, còn không thì mình phải cố gắng thêm,” cô vui vẻ nói.

Bản đặc biệt của Mùa Hè Bất Tận.

Nối tiếp Mùa Hè Bất Tận, Lâm Hoàng Trúc bật mí cô sẽ làm một tác phẩm về lịch sử và một bộ truyện hành động. Lịch sử là thử thách cho mọi nhà sáng tạo, còn hành động là thể loại cô yêu thích nhất. “Một cái để mình chinh phục, một cái để thỏa mãn bản thân,” cô họa sĩ tươi cười. Chưa biết khi nào những bộ truyện này mới ra mắt, nhưng những người theo dõi Lâm Hoàng Trúc có thể tin chắc rằng cô sẽ dốc hết tâm sức cho từng tác phẩm của mình.

Phiên bản đặc biệt của tập truyện ra mắt vào ngày 18/6/2021. Phiên bản phổ thông phát hành toàn quốc vào ngày 30/6/2021. Bạn đọc tìm hiểu thêm thông tin phát hành của Mùa Hè Bất Tận tại đây

[Ảnh sử dụng trong bài do nhân vật cung cấp]

]]>
info@saigoneer.com (Mầm. ) Loạt Soạt Mon, 11 Jul 2022 10:30:00 +0700
Từ Huấn Lục: Hoàng thái hậu Từ Dụ và những lời dạy còn sống mãi https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17311-từ-huấn-lục-hoàng-thái-hậu-từ-dụ-và-những-lời-dạy-còn-sống-mãi https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17311-từ-huấn-lục-hoàng-thái-hậu-từ-dụ-và-những-lời-dạy-còn-sống-mãi

“Ta nhân lúc giải phiền muộn xin mệnh xa giá đi bắn chim, nếu hợp hoàn cảnh thì cho, không hợp thì không, không nói nhiều lời. Mỗi khi thường răn về số lần, mẹ nghiêm và từ như thế.” 

Việc dưỡng dục con cái thời nào cũng là một chủ đề đau đầu, bởi đó là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển của những thế hệ đi sau. Ở Việt Nam, khó có ai vượt qua được Hoàng Thái hậu Từ Dụ về cung cách giáo huấn. Đó cũng là lý do bệnh viện phụ sản nổi tiếng nhất Sài Gòn, bệnh viện Từ Dũ, được đặt theo tên của bà.

Chỗ dựa cho bậc đế vương

Những lời răn dạy con cháu của bà đã được đích thân vua Tự Đức ghi chép lại, tập hợp thành sách có nhan đề Từ Huấn Lục (chép những lời giáo huấn của Đức Từ). Thông qua tác phẩm này, hậu thế không chỉ hiểu thêm về những giá trị sống của vương triều Nguyễn, mà còn hiểu hơn cách hoàng gia nhìn nhận Nho giáo.

Vua Tự Đức được biết đến là một vị hoàng đế có đức tính khiêm nhường và dũng cảm thừa nhận những thiếu sót bản thân. Đó cũng là lý do ông đặt cho lăng của mình cái tên Khiêm Lăng, cũng là quần thể lăng mộ lớn nhất thời Nguyễn. Trong khu lăng mộ của ông, còn có lăng của người mẹ đáng kính là bà Từ Dụ.

Là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn, Tự Đức trị vì trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước; kể đến như biến loạn trong nội bộ gia đình khiến ông mang tiếng là người giết anh. Liên quan đến vận mệnh đất nước, ông đã rơi vào thế phải nhượng bộ trước người Pháp, gây nên nhiều bất bình trong lòng dân chúng. Là một người đa cảm, những biến cố này khiến vị hoàng đế phải tìm chỗ dựa tinh thần nơi người thân, bà Từ Dụ. Vì thế, cũng là lẽ dĩ nhiên khi ông dành thời gian ghi chép lại những lời răn của mẫu hậu.

Vua Tự Đức (trái) và Hoàng thái hậu Từ Dụ (phải).

Dù không trực tiếp can dự vào triều chính, bà luôn tự nhận thấy mình có phần trách nhiệm trước tình hình đất nước. Xuất thân từ một gia đình gia giáo tại Gò Công, từ nhỏ bà đã am tường kinh sử, hiểu biết lễ nghi. Tiếng thơm của bà lan đến Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, vợ vua Gia Long. Và từ đó (năm 1858), bậc mẫu nghi đã luôn phải cáng đáng chuyện chính sự cũng như hậu cung.

Một thoáng cung đình qua 225 lời răn dạy

“Vạn vật đều nhờ cái khí trời đất để phát triển, thật dễ tốt tươi. Dù cho con người hết sức tưới thì vạn chẳng được một.” Tư tưởng sống thuận theo chữ thời này có thể nói là tinh thần xuyên suốt 225 lời răn dạy của bà được vua Tự Đức ghi lại.

Theo ghi chép của vua Tự Đức, hoàng thái hậu mỗi sáng sớm đều chu đáo răn dạy ông một lời, nhưng không sao thuật lại hết. Chỉ những chuyện truyền hỏi riêng trong cung mà người ngoài không được nghe được kể khái quát. Mục đích là chuẩn bị cho về sau “soạn sử lấy làm gốc cho tiện.” So sánh với Đại Nam thực lục, nhóm nghiên cứu nhận thấy những chuyện không được ghi lại chủ yếu rơi vào việc phê phán quan lại tham nhũng.

Điểm qua bốn tập ghi chép làm nên Từ Huấn Lục, chúng ta dễ nhận ra những chủ đề bà hay bàn luận cùng nhà vua:

  • Thể hiện tình yêu với nhân dân, cầu cho mưa thuận gió hoà dân chúng ấm no,
  • Đề cao lối sống tiết kiệm và phê phán những hoàng thân, công chúa chỉ biết hưởng lộc,
  • Phê phán quan lại tham nhũng và những người họ ngoại của hoàng gia ỷ thế làm càn,
  • Rút ra những bài học từ những tích truyện xưa từ sử Trung Hoa, lên án những hủ tục và chủ trương cấm thuốc phiện.
Thuốc phiện cấm hay thả lỏng cả hai đều khó. Dụ rằng: Cấm tuy chẳng thể ngưng được hết nhưng dân còn sợ chẳng dám làm thế nào thì làm, còn hơn chẳng cấm, dân không có gì phải sợ ngại vậy. Đến như vận chưa đắc lợi thì làm sao cũng chả được thoả ý, đến nay cái tổn thất chẳng biết hết thảy bao nhiêu. Há chút ít thuế đây mà có thể giúp nó vậy ư? Cấm là đúng.

Bà không phải lúc nào cũng là người chủ động răn dạy hoàng đế. Có những đoạn được mở đầu bằng “Ta tâu,” “Lại tâu rằng,” nhưng những cụm từ như “Lại kính vâng lời dạy rằng,” “Mẹ ta dạy,” “Lại nghe lúc Thánh mẫu…,” lại phổ biến hơn xuyên suốt tác phẩm. Những lúc vua bẩm tâu về tình hình sức khoẻ của bà, bà thường hay xem nhẹ bệnh tình mà quay sang lo cho dân chúng. Tính cách này cũng xuất phát từ lối sống tiết kiệm, vị tha từ nhỏ của bà. Dường như chỉ có “quốc thái dân an” mới có thể chữa bà khỏi những căn bệnh.

Toàn bộ văn bản Hán Nôm của bốn cuốn ghi chép làm nên Từ Huấn Lục đều được đưa vào sách.

Do triều Nguyễn có luật không cho người ngoài dòng tộc lên nắm quyền, những dòng họ bên ngoại của hoàng gia luôn là vấn đề nhức nhối chốn hậu cung. Ở mỗi lần phê phán một vị hoàng thân hay vị quan họ ngoại, vua Tự Đức luôn bẩm tâu rõ tình hình, công trạng cũng như tội lỗi. Những lúc này, vị Thánh mẫu hiền từ đã khoác lên mình một bức màn nghiêm minh. Thế nhưng, thay vì khép tội, bà chỉ thường chốt hạ bằng một câu hỏi tu từ, hoặc chí ít là vua Tự Đức đã chép lại như thế.

Kính được dạy rằng: Phàm công chúa lấy chồng cần phải phụ thờ ông gia, bà gia, phải vấn an tặng biếu như nhà sĩ phu, há có thể vì là con gái hoàng gia mà trái lễ sao.

Tình cảm nhất phải kể đến những đoạn hai mẹ con tâm tình, điểm qua những tích truyện cổ trong sử Trung Hoa, nhất là Tam Quốc Chí. Bà thường nhớ lại những giai thoại xưa, thi thoảng liên hệ đến những quyết định của ba đời vua Nguyễn trước đó. Từ đó, bà đưa ra những nhận định liệu những giá trị sống lúc xưa có còn hợp với thời cuộc lúc bấy giờ, đôi khi còn cảm thương cho cố nhân mà mất ngủ. Những lời dạy ấy cũng đã phần nào phản ánh quan điểm của bà và vua Tự Đức về Nho giáo, vốn được triều đình nhà Nguyễn tôn vinh qua mọi đời vua.

Đọc sử đến đoạn Đường Thái Tôn yêu tất cả các con, đến nỗi nhiều con phản bội tranh giành ngôi, Thái Tôn muốn tự vẫn, được cười mà dụ rằng: Thái Tôn anh minh, nhiều lần khéo cư xử, chỉ riêng việc gia đình cớ sao lại không khéo xử trí, bởi vì do chìm đắm trong tình yêu riêng mà đến nỗi như vậy.

Lời kết

Từ Huấn Lục là một tư liệu quý cho việc nghiên cứu về văn hoá và giáo huấn trong cung đình triều Nguyễn. Qua tác phẩm, người đọc không chỉ thấm thía tình mẫu tử giữa bậc mẫu nghi và đế vương, mà còn hiểu hơn về thái độ và tâm tư của triều đình Nguyễn trong thời “tiến thoái lưỡng nan.” Với văn phong gần gũi nhưng đỗi nghiêm trang được dịch từ Hán Nôm, chắc chắn mỗi độc giả đều sẽ tìm thấy điều mình quan tâm trong tác phẩm này.

]]>
info@saigoneer.com (Yui Nguyễn. Ảnh bìa: Phan Nhi.) Loạt Soạt Fri, 01 Jul 2022 12:00:00 +0700
The Magic Fish: Danh tính, gia đình, 'come out' với cha mẹ qua góc nhìn cổ tích https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17301-the-magic-fish-danh-tính,-gia-đình,-come-out-với-cha-mẹ-qua-góc-nhìn-cổ-tích https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17301-the-magic-fish-danh-tính,-gia-đình,-come-out-với-cha-mẹ-qua-góc-nhìn-cổ-tích

Những điều chúng ta không thể diễn đạt thành lời đôi khi lại là chất liệu tuyệt vời nhất để viết nên một câu chuyện. Truyện cổ tích như một phiên bản đầy đủ của một câu tục ngữ được tiền nhân gửi gắm những giá trị, kỳ vọng và kinh nghiệm về tình yêu, mất mát, khao khát, số phận và những khó khăn gian khổ. Trẻ em thường tìm hiểu về thế giới người lớn thông qua những câu chuyện này, và sẽ luôn ghi nhớ bài học rút ra từ đó cả khi đã trưởng thành.

Những câu chuyện cổ tích về tình thân gia đình

Đó cũng là tiền đề của The Magic Fish, tiểu thuyết minh họa (graphic novel) của tác giả người Mỹ gốc Việt Trung Lê Nguyễn. Nhìn chung, The Magic Fish là câu chuyện về Tiến và những trăn trở của cậu bé trong việc "công khai" tính dục với cha mẹ. Không chỉ lo sợ rằng mẹ sẽ không chấp nhận con người thật của mình, Tiến còn phải đối đầu với những định kiến hiện hữu trong xã hội Mỹ. Việc cha mẹ Tiến là người tị nạn nhập cư, cùng rào cản ngôn ngữ giữa hai thế hệ càng khiến Tiến khó giải bày tâm sự. Cậu đành tự mình lên kế hoạch trong khi mẹ cậu, bà Helen, vẫn đang đau đáu nhớ về cội nguồn, gia đình và văn hóa quê hương.

Để khai thác chủ đề đa chiều này, Trung Lê đã chọn ba câu chuyện cổ tích: Tấm Cám, Nàng Tiên Cá, và một chuyện kết hợp của Công Chúa Lốm Đốm (Allerleirauh) và Công Chúa Áo Rách (Tattercoats). Trong những lần Tiến cùng mẹ đọc truyện, độc giả có thể nhận ra cuộc đời của hai mẹ con trải ra song song với những số phận trong truyện: Allerleirauh luôn thấy mình cần phải che giấu con người thật của mình trước người cô yêu; Tấm luôn phải chịu tủi nhục sau khi mẹ cô qua đời; nàng tiên cá Ondine hy sinh bản thân để tìm kiếm một cuộc sống mới ở bên kia mép nước.

Tình tiết của tiểu thuyết lấy phần lớn cảm hứng từ Tấm Cám.

Tuy nhiên, Trung Lê không để những câu chuyện cổ tích kể hết về cuộc đời của mẹ con Helen và Tiến. Bởi sự tương đồng giữa cổ tích và đời thực chỉ để tô điểm cho nội tâm phức tạp của hai nhân vật. Ngay cả những chi tiết nhỏ cũng tạo được sức hút khi được liên hệ với các chi tiết hư cấu. Chẳng hạn, chiếc váy dạ hội trong truyện cổ tích cũng có vai trò quan trọng tương đương chiếc áo khoác của Tiến, được chính bà Helen, vốn là thợ may, làm cho con trai mình. Bức tường giữa những cổ tích và mạch truyện chính dường như đã được phá bỏ một cách tinh tế, mà chính độc giả phải tự trải nghiệm mới thấy hết được màu nhiệm.

Tác giả hoàn toàn dựa vào hội thoại và trích đoạn từ những câu chuyện cổ tích để xây dựng tình tiết cho The Magic Fish. Cách tiếp cận này khiến tác phẩm có nhịp độ nhanh, và đầy kịch tính, nhưng dẫn đến một vấn đề: làm thế nào để độc giả phân biệt được ba câu chuyện cổ tích với mạch truyện chính? Đó là qua màu sắc. Mỗi phân đoạn được gắn với một gam màu cơ bản: đỏ, vàng và xanh, khiến từng trang giấy và khung hình như xem bằng một chiếc kính vạn hoa.

Ba câu chuyện được phân biệt bằng ba màu sắc cơ bản.

Thú vị thay, việc sử dụng bảng màu đơn sắc lại làm bật lên những hiệu ứng trong tranh. Phần lớn các trang minh hoạ được Trung Lê thực hiện thủ công, chỉ có phần kết được hoàn thành bằng phần mềm kỹ thuật số để đẩy kịp tiến độ. Dù các phân cảnh không dày đặc và khuôn mặt nhân vật được vẽ theo phong cách hoạt hình, những chi tiết như tóc, hoa ăn trên quần áo vẫn được đầu tư hết sức tỉ mỉ.

“Mục tiêu của mình [khi bắt đầu thực The Magic Fish] là viết nên một mẩu chuyện thật nhỏ nhặt. Điều kỳ lạ là khi viết về các nhóm thiểu số trong xã hội, người ta luôn mong đợi mình phải chế ra một cái gì đó thật sâu sắc về nó. Phải có thật nhiều tầng nghĩa, mọi chi tiết đều phải xoay quanh chuyện 'sống bên lề xã hội.' Tất cả những câu chuyện của người di dân đều có mô-típ như vậy.” — Trung Lê viết trong phần chia sẻ của tác giả.

Anh cho biết, anh muốn thoát khoải mô-típ quen thuộc ấy để có thể “khám phá thêm những khía cạnh khác xung quanh chủ đề đó.” Chẳng hạn, việc các nhân vật nỗ lực vượt qua rào cản ngôn ngữ để thảo luận về tình yêu với nhau làm cho tác phẩm trở nên độc đáo và đồng thời mang tính phổ quát hơn. Đây vốn là câu chuyện dành cho các gia đình nhập cư và các thành viên của cộng đồng LGBTQ+. Dù vậy, cũng như những câu chuyện cổ tích, chủ đề này đã vượt ra ngoài giới hạn về thế hệ, địa lý và xuất thân, và gây được tiếng vang với nhiều đối tượng độc giả khác nhau.

Điều kỳ lạ là khi viết về các nhóm thiểu số trong xã hội, người ta luôn mong đợi mình phải chế ra một cái gì đó thật sâu sắc về nó.

Độc giả không mất nhiều thời gian để hoàn thành The Magic Fish, nhưng sẽ dễ bỏ qua những chi tiết mà Trung Lê đã chăm chút trong tác phẩm. Trong phần “Between Words and Pictures” ở cuối sách, anh đã chia sẻ hành trình vẽ minh hoạ và xâu chuỗi nên tác phẩm. Cụ thể, trí tưởng tượng của nhân vật sẽ quyết định bối cảnh của câu chuyện cổ tích, và phần minh hoạ cũng phải thể hiện sao cho tương xứng.

Câu chuyện Tấm Cám, qua lăng kính của chị bà Helen, được thuật lại với nét kiến trúc và trang phục được thiết kế theo phong cách Đông Dương ở Việt Nam những năm 1950. Trong khi những câu chuyện Tiến kể được ảnh hưởng bởi văn hoá đại chúng phương Tây giữa cuối những năm 1990. Trung Lê đã nghiên cứu kỹ lưỡng những chi tiết và hoạ tiết lịch sử trước khi vẽ nên những bộ cánh dạ hội trong tác phẩm.

Theo thời gian, những câu chuyện cổ tích sẽ luôn được kể lại với bối cảnh khác để phù hợp với những thế hệ mới. Những câu chuyện xoay quanh chủ đề xu hướng tính dục và những chật vật của người nhập cư cũng đã được kể lại vô vàn lần. Tuy vậy, với hình thức sáng tạo và giọng văn tươi mới, thân tình, The Magic Fish đã mang lại cho độc giả một trải nghiệm đọc hoàn toàn mới lạ.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Lê Thái Hoàng Nguyên.) Loạt Soạt Tue, 21 Jun 2022 15:00:00 +0700
Học giả Hà Văn Tấn đưa ta 'Theo Dấu Các Văn Hoá Cổ' https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17282-học-giả-hà-văn-tấn-đưa-ta-theo-dấu-các-văn-hoá-cổ https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17282-học-giả-hà-văn-tấn-đưa-ta-theo-dấu-các-văn-hoá-cổ

Nguồn gốc luôn là một phạm trù làm con người đảo điên, ở mọi thời đại và trên mọi phương diện: từ nhân chủng, văn hoá lẫn tâm linh. Một cá nhân sẽ ít nhất một lần tự vấn về nguồn gốc của bản thân, gia đình, dân tộc và nhân loại. Vậy người Việt Nam chúng ta đến từ đâu?

Người mang ánh sáng từ sâu dưới lòng đất

Ngoài những sự tích trong huyền sử dân tộc, chúng ta có thể tìm thấy mối liên hệ với tổ tiên qua những di chỉ khảo cổ trải dài mảnh đất chữ S. Dù vậy, khảo cổ học không phải là ngành được đông đảo học sinh quan tâm. Bao nhiêu người sẽ chọn vào ngành khảo cổ học sau khi tốt nghiệp phổ thông?

Thế nhưng, ít ai biết Việt Nam là cái nôi đã sản sinh ra những cái tên xuất chúng trong ngành khảo cổ với sức ảnh hưởng vươn ra phạm vi khu vực. Không thể không kể đến học giả Hà Văn Tấn, một trong “tứ trụ” của làng sử học Việt Nam. Và Theo Dấu Các Văn Hoá Cổ là tập hợp những nghiên cứu của thầy ở từng thời kỳ khảo cổ học: Thời đại đồ đá, thời đại kim khí và thời đại lịch sử. Từ đó, độc giả sẽ hiểu rõ những biến chuyển của văn hóa Việt Nam cũng như trong khu vực Đông Nam Á.

GS Hà Văn Tấn.

Không chỉ là một nhà khảo cổ tâm huyết, GS Hà Văn Tấn còn là một cây bút tài hoa với những câu chữ đưa người đọc, dù không hiểu sâu về khảo cổ, trở về Việt Nam thời hồng hoang. Nguyên là Viện trưởng Viện Khảo cổ học với hơn nửa cuộc đời giảng dạy ở Đại học Tổng hợp, ông không chỉ mang ánh sáng đến vùng hiểu biết bị vùi dưới hàng lớp đất, mà còn là “người đưa đò” của bao thế hệ học giả sau này.

Những nghiên cứu của ông tích hợp và phản biện những quan điểm Tây lẫn Đông phương. Độc giả hẳn sẽ có một cái nhìn bao quát về không khí học thuật thời trước về những văn hoá cổ từng tồn tại trên Việt Nam.

Mảnh ghép mang tên Việt Nam

Không gian thế giới tiền sử không vận hành bên trong khuôn khổ của những biên giới như ngày nay. Đối với Hà Văn Tấn, muốn hiểu được Việt Nam cổ đại, chúng ta phải nhìn rộng ra cả Đông Nam Á và Trung Hoa. Việc kiến tạo không gian nguyên thuỷ, do đó, là bước tối quan trọng để chúng ta tránh áp đặt những tư duy hiện đại khi nghiên cứu văn hoá cổ.

Từng dẫn dắt nhiều đoàn khảo cổ ở khu vực Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, những chia sẻ của giáo sư về một cuộc khai quật sẽ cho chúng ta hiểu thêm về đặc điểm địa chất ở Việt Nam. Không dừng lại ở đó, thầy còn bình giảng về địa chất thế giới, từ những tảng băng vĩnh cửu ở Iceland đến tầng đất ở Nam Trung Quốc. Từ đó, thầy rút ra những nhận xét, tán thành lẫn bác bỏ, về cuộc thiên di của người tiền sử trên thế giới, lẫn Việt Nam.

Những công cụ cuội thuộc phạm vi văn hoá Sơn Vi được tìm thấy ở Cầu Đen, đồi Công Nghiệp trên dãy Hoàng Liên Sơn.

Qua loạt bài viết phân tích những di chỉ khảo cổ ở Phùng Nguyên, Hoà Bình, Sơn Vi, v.v. độc giả dễ dàng nhận thấy những đặc điểm tương đồng với những hiện vật ở các nước Đông Dương. Ở mỗi bài luận, độc giả sẽ từ từ bóc tách từng lớp của cuộc sống nguyên thuỷ: từ ADN, công cụ sinh tồn, lối sống, chế độ dinh dưỡng, thậm chí là phạm vi ảnh hưởng của từng văn hoá cổ trong khu vực. Những bài viết đầu sách dẫu có nặng kiến thức khảo cổ, địa chất, song được thầy viết vô cùng dễ hiểu cùng chú thích kỹ lưỡng.

Một số hoa văn trên đồ gốm văn hoá Phùng Nguyên và trên đồ đồng văn hoá Đông Sơn.
a, e: Trên đồ gốm Phùng Nguyên và Gò Bông; g: Trên cán dao găm đồng ở Đông Sơn; h: Trên trống đồng; i: Trên thố đồng ở Việt Khê; k: Trên bình đồng ở Việt Khê.

Độc giả cảm tưởng như vừa được đi một vòng Trái Đất cách đây trăm nghìn năm rồi về lại Việt Nam trước khi Hùng Vương lập nước. Và đó là cách mà thầy Hà Văn Tấn đã đưa Việt Nam lên bản đồ thế giới.

Bỏ lại con đường thiên di

Bài viết "Về Vấn Đề Người Indonésien Và Loại Hình Indonésien Trong Thời Đại Nguyên Thuỷ Việt Nam" sẽ đi sâu vào luận điểm người Việt Nam là chủng tộc sinh ra từ tộc Mongoloïd da vàng và Australo-Négroïde da sẫm màu. Tuy nhiên, khi so sánh với những đặc điểm nhân chủng của những hộp sọ và xương người ở các di chỉ Việt Nam, GS Hà Văn Tấn đã đến một giải thuyết:

Có thể nói sự hình thành người Việt hiện đại là một quá trình Mongoloïde hoá lâu dài mà trong đó yếu tố Mongoloïde càng ngày càng tăng trưởng.

Thầy điểm qua những học thuyết nhân học có ảnh hưởng trong giới học thuật thế kỷ 20, phân tích điểm đúng cũng như điểm thiếu cơ sở của từng cái. Nhưng thầy không để độc giả lạc trong mớ bòng bong câu chữ cao siêu, mà luôn nhắc họ phải “tiếp đất” khi xem xét và thảo luận những chủ đề về con người cổ đại. Những kết luận của thầy luôn mở ra một câu hỏi mới mời gọi thế hệ sau tiếp tục nghiên cứu vấn đề đặt ra. Bởi lẽ, mỗi ngày đều có một thứ mới được đào lên để thử thách tất cả những hiểu biết của con người hiện đại.

Số đo và chỉ số các xương sọ Indonésien nguyên thuỷ ở Việt Nam.

Đọc xong Theo Dấu Các Văn Hoá Cổ, độc giả sẽ cảm thấy câu hỏi “người Việt Nam đến từ đâu?” không còn quan trọng nữa. Thay vào đó là một niềm hân hoan sáng ngời khi hiểu ra rằng: Con người không nhất thiết phải phân biệt tôi và bạn. Với những ai đam mê những bí ẩn dưới lòng đất, cuốn sách này sẽ là tạo dựng một nền móng vững chãi để những công trình nghiên cứu trong tương lai vươn lên.

Ở cuối quyển sách, độc giả sẽ tìm thấy “tâm thư” của giáo sư gửi đến bạn đọc. Và mỗi người sẽ có một cảm nhận khác nhau sau khi hoàn thành hành trình hơn 600 trang qua miền lãng quên.

]]>
info@saigoneer.com (Yui Nguyễn. ) Loạt Soạt Tue, 31 May 2022 06:00:00 +0700
'Time Is a Mother' – Những dấu chấm hỏi đặt giữa cuộc đời https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17260-time-is-a-mother-–-những-dấu-chấm-hỏi-đặt-giữa-cuộc-đời https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/17260-time-is-a-mother-–-những-dấu-chấm-hỏi-đặt-giữa-cuộc-đời

Phải chăng danh tiếng khó là bạn đồng hành cùng người làm thơ?

Có lẽ phần lớn độc giả sẽ bối rối khi phải kể tên năm nhà thơ đương thời. Và có người sẽ thừa nhận là cả năm qua chưa đọc một tập thơ nào. Nhưng tôi nghĩ rằng nếu hỏi người Việt Nam tập thơ tiếng Anh họ đọc gần đây là của tác giả nào thì phần lớn sẽ trả lời Ocean Vương.

Đầu tiên, Ocean Vương là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất thi đàn Mỹ hiện nay. Sau khi được vinh danh tại giải thưởng Genius Grant của quỹ MacArthur và giải thưởng T.S Eliot, tên tuổi của anh có thể ví như một ngôi sao nhạc rock. Thế nhưng, thơ ca là một môn nghệ thuật tương đối khép kín. Ngay cả khi liên tục được giới chuyên môn đánh giá cao trong gần một thập kỷ, tên tuổi Ocean Vương vẫn chưa gây tiếng vang trong văn hóa đại chúng.

Cho đến năm 2019, cuốn tiểu thuyết Một Thoáng Ta Rực Rỡ Ở Nhân Gian đã mang đến cho anh sức ảnh hưởng mà ít có nhà thơ nào trước đó từng đạt được. Không những thế, Ocean còn được làm khách mời trên chương trình truyền hình đêm khuya. Với sự chú ý từ Hollywood, dự án chuyển thể tác phẩm thành phim điện ảnh cũng đã được công bố. Do đó, không có gì ngạc nhiên khi tập thơ thứ hai của anh, có tựa là Time Is a Mother, là một trong những tác phẩm được mong đợi nhất trong những năm gần đây. Thậm chí, một số nhà xuất bản lớn vốn không dành nhiều ưu ái cho thơ ca cũng quan tâm đến tập thơ này.

Ocean Vương ở nhà cùng chó cưng Tofu. Hình ảnh do Aram Boghosian thực hiện và đăng trên Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian.

Ở Việt Nam, Ocean Vương nhanh chóng trở thành nhà thơ được nhắc đến nhiều nhất trên truyền thông. Ocean sinh ra tại Sài Gòn, vì thế tác phẩm của anh mang âm hưởng lịch sử và văn hóa Việt Nam. Mối liên kết của nhà thơ với quê hương càng được thắt chặt khi tiểu thuyết của anh được Hội nhà văn chuyển ngữ và xuất bản với tựa đề Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian. Trong vài thập kỷ vừa qua, những cây bút khắp nơi trên thế giới vẫn tiếp tục khai thác nhiều khía cạnh về Việt Nam. Một số nhà văn hải ngoại thành công có thể kể đến như Việt Thanh Nguyễn, Thi Bui, Kim Thúy. Nối tiếp thành công của họ, những tác phẩm của Ocean Vương đã trở thành nguồn cảm hứng cho độc giả khắp năm châu.

Danh tiếng của nhà thơ sẽ thu hút thêm nhiều đối tượng độc giả tìm đọc Time Is a Mother. Điều này cũng đồng nghĩa với việc tác phẩm sẽ nhận được nhiều kỳ vọng khác nhau. Có người sẽ tập trung vào cách thể hiện cái tôi của Ocean khi là người Mỹ gốc Việt; có người sẽ nhấn mạnh ý nghĩa của tập thơ đối với cộng đồng LGBTQ+. Cách tác giả khai thác chủ đề về những chứng nghiện cũng để lại nhiều suy ngẫm trong lòng độc giả. Đồng thời, nỗi đau mất mát chất chứa trong từng trang sách sẽ nhận được sự đồng cảm sâu sắc từ người đọc. Với ngôn từ điêu luyện và tinh tế, Ocean dễ dàng khai thác nhiều chủ đề nhạy cảm khấc nhau. Chất giọng của ảnh cũng là “chất keo” kết nối những con người tuy rất khác nhau nhưng có chung niềm yêu thích thơ ca.

… stop writing

about your mother they said

but I can never take out

the rose at it blooms back as my own

Trong các tác phẩm, người đọc đã có nhiều dịp gặp gỡ mẹ của Ocean Vương qua nhân vật mang tên Rose. Đến Time Is a Mother, Ocean tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ của mình và người mẹ quá cố. Hình ảnh người mẹ ẩn hiện trong anh tựa như một gương mặt bên cửa sổ, hay dấu vân tay vị thánh phương nào để lại.

Hình bóng của người mẹ xuất hiện nhiều lần xuyên suốt tác phẩm, và được khắc họa sâu đậm trong một bài thơ dài ở cuối tập thơ. Nhưng Ocean Vương không thể hiện nỗi đau buồn, mất mát và thương tiếc qua những suy nghĩ về mẹ mình. Nỗi khắc khoải của anh hiện lên trong những câu chuyện về bạn bè và người thân, cũng như về chính cuộc đời hữu hạn của mình. Cách diễn tả của nhà thơ cũng rất đa dạng, vì thế Time Is a Mother không thiếu những mỹ từ về cái chết cũng như khao khát bức ra khỏi sự hữu hạn của cuộc sống. Nhưng bên cạnh đó, người đọc cũng sẽ trầm ngâm trước cách phản ứng đẫm mùi nhục dục của một nhân vật sau cái chết của một người tình. Mỗi trang thơ giở qua đều vương lại nỗi thống khổ không thể nào nguôi. Người đọc nhận ra những mảng ký ức ấy hợp thành một bóng đen bao phủ lấy niềm vui sống của tác giả:

Maybe,

like you, I was one of those people

whose loves the world most

when I’m rock-bottom in my fast car

going nowhere.

Cái chết trong thơ của Ocean Vương hầu như luôn gắn liền với bạo lực, vì anh nhắc tới những cái chết là hệ quả của bạo lực. Nhưng không phải thương tích nào do bạo lực gây ra cũng dẫn tới cái chết. Bạo lực là căn tính không thể tách rời của tình dục, tình yêu, thiên nhiên, lịch sử và văn hóa. Nhà thơ thường xuyên xem xét căn tính này trong tương quan với các khái niệm đại diện cho nước Mỹ. Ví dụ như trong bài thơ 'Old Glory', độc giả có thể cảm nhận được dã tính trong tiếng lóng của người Mỹ.

Bài thơ nhắc đến Tamir Rice, người đã bỏ mạng vì hành vi tàn bạo của cảnh sát, và hàng trăm người da màu bị treo cổ ở California từ thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20. Vấn đề bạo lực ở nước Mỹ đã tồn tại từ rất lâu và dường như khó có thể ngừng tiếp diễn. Ở thời điểm hiện tại, vấn đề này được đàm luận trong thơ ca nhiều hơn trong các không gian khác. Và Ocean Vương cũng đóng góp vào đấy góc nhìn của riêng mình. Trong 'American Legend,' nước Mỹ hiện lên chân thật qua những hình ảnh mang phong cách Americana điển hình như là bãi cỏ rộng lớn và chú chó xù già. Giữa khung cảnh ấy, nhà thơ đã phải đâm sầm chiếc xe Ford của mình để có thể xóa bỏ khoảng cách với bố anh và trao ông cái ôm đầu tiên sau rất nhiều năm.

Một chủ đề lớn khác trong tập thơ là chứng nghiện thuốc. Nhưng Ocean Vương không tiếp cận từ góc độ là nguyên nhân dẫn đến cái chết, mà tập trung vào quá trình phục hồi của người nghiện. Các bài thơ được viết ở thì quá khứ, vì thế hẳn sẽ có độc giả liên hệ câu chuyện của nhân vật với trải nghiệm của tác giả trong đời thực. Nhưng cho dù nhân vật có phải là hóa thân của tác giả hay không, thì người đọc vẫn cảm nhận được những thay đổi về thể chất và tinh thần của bệnh nhân trong thời gian cai nghiện:

I’ll learn to swim

when I’m out once

& for all

the body floats

for a reason maybe

we can swim right up

to it grab on

kick us back

to shore Peter I think

I’m doing it right

now finally maybe

I’m winning even

if it just looks like

my fingers are shaking

Độc giả đã biết Ocean Vương qua các tác phẩm trước sẽ thấy quen thuộc với những chủ đề thường được lặp lại trong thơ của anh. Nhưng văn phong của tác giả đã được mài giũa sắc bén hơn, thẳng thắn hơn, và ngày càng có nhiều yếu tố hài đen sâu cay. Anh vẫn là bậc thầy về những dòng thơ đứt đoạn có thể phân thích theo nhiều nghĩa khác nhau, và thường xuyên sử dụng hình ảnh có sức tác động mạnh đến cảm xúc độc giả. Cũng vì vậy, thơ Ocean Vương nhìn chung là khó đọc với những ai chưa tiếp cận nhiều với thơ hiện đại.

So với Trời Đêm Những Vết Thương Xuyên Thấu, nhiều bài thơ trong Time Is a Mother không mang tính đối thoại nhưng dễ phân tích cú pháp hơn. Đặc biệt là vì có những câu thơ riêng lẻ sâu sắc như lời cách ngôn. Ocean thử thách trí tưởng tượng và nhân sinh quan của độc giả ở nhiều tình huống: Điều tuyệt vời gì bạn có thể làm khi đứng yên một mình trước gương? Sẽ thế nào nếu được sinh ra ở một trại tế bần đang cháy? Liệu ký ức của một bài hát có phải là cái bóng của âm thanh?

Những ý thơ thú vị và dễ cảm thụ ấy dự sẽ sớm “xâm chiếm” Instagram và trở thành dòng caption tăng tương tác cho nhiều bài đăng.

Độc giả không thể tiếp cận Time Is a Mother cùng một cách với các thể loại văn học khác được viết theo lối tự sự. Để có thể cảm được tập thơ này, tôi sẽ trích dẫn lời khuyên của Andrew Limbong, người dẫn chương trình Book of the Day (Mỗi ngày một quyển sách) trên Đài Phát thanh Công cộng Quốc gia của Mỹ, rằng hãy quên mọi thứ trường học dạy bạn về thơ ca và tự mình đến với tác phẩm, bởi vì “bạn cũng đâu cần phải biết kỹ thuật quay phim mới có thể thưởng thức một bộ phim đúng không nào?”

Tôi biết đến thơ của Ocean Vương vào năm 2013. Khi đó, tôi chưa chuyển đến Việt Nam và không có bất kỳ mối liên hệ cá nhân nào với các chủ đề trong tác phẩm của anh. Tôi chỉ đơn giản là ấn tượng với cách nhà thơ đặt quyền lực bên cạnh cái đẹp trong những phép ẩn dụ tài tình, cũng như giọng văn tâm tình nhưng đầy nội lực. Là một trong những bạn đọc chứng kiến ​​hành trình sáng tác của nhà thơ để có được danh tiếng như ngày hôm nay, tôi không khỏi vui mừng và ngưỡng mộ. Có điều, tôi vẫn chưa quen tai khi nghe bạn bè và người lạ tình cờ nhắc đến Ocean Vương, mặc dù biết rằng mối quan tâm của họ chỉ là hứng thú nhất thời.

Sau khi nhận học bổng Ruth Lilly/Sargent Rosenberg Fellow vào năm 2014, Ocean Vương đã bay đến Miami để tham gia hoạt động đọc sách và các sự kiện khác. Trùng hợp là tôi cũng theo học cao học ngành nghiên cứu thơ ca tại đó. Tôi ước gì khi ấy đã hỏi nhà thơ rằng anh có cảm nghĩ gì về thành công của mình trong tương lai, hay có lời nhắn gì đến nhóm độc giả đa dạng sẽ tìm đến với thơ của anh vì lối viết độc đáo. Nhưng cho dù tài năng Ocean Vương là điều không thể nghi ngờ, ai biết trước được nhà thơ sẽ gặt hái được gì trong tương lai cơ chứ?

Thay vào đó, tôi hỏi là làm sao anh có thể tách bản ngã của mình ra khỏi tác phẩm. Ocean mượn một câu nói của nhà thơ Merwin để trả lời tôi rằng: “Công việc sáng tác như thể thêu một sợi chỉ lên một tấm vải. Mỗi lần mũi kim xuyên sợi chỉ ấy qua tấm vải, bản ngã của mình sẽ theo đó nhuộm màu cho sợi vải; người làm thơ không thể tháo rời sợi chỉ mình đã thêu." Nhà thơ nói thêm rằng những ai có thể vượt qua giới hạn của bản thân mà không lạc mất đường chỉ ấy sẽ “ đưa ta đến một phát hiện mới… cũng chính là một câu hỏi mới. Và những câu hỏi hay nhất luôn đáng giá hơn câu trả lời.”

Trên tinh thần đó, Time Is a Mother không đi tìm câu trả lời mà chỉ đặt ra thêm nhiều câu hỏi. Cho dù đó là những điều độc giả đang hỏi, chưa hỏi, hay không định hỏi đều không sao cả, vì từng câu hỏi đều được Ocean Vương đan dệt thành tấm nhiễu điều để bạn yêu thơ phủ lên “giá gương” trong tâm hồn mình.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen.) Loạt Soạt Thu, 05 May 2022 11:29:55 +0700
Văn minh nước Mỹ qua lăng kính Việt trong 'Bướm vàng' https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/16652-tủ-sách-urbanist-văn-minh-nước-mỹ-qua-lăng-kính-việt-trong-bướm-vàng https://saigoneer.com/vn/loạt-soạt-bookshelf/16652-tủ-sách-urbanist-văn-minh-nước-mỹ-qua-lăng-kính-việt-trong-bướm-vàng

Hãy đọc những gì bạn không biết, bởi vì nếu biết rồi thì bạn đã có thể hình dung và thấu hiểu nó; nhưng với những gì bạn chưa từng hình dung ra được, hãy khám phá để được dắt đến một thế giới chưa hề có trong trí tưởng tượng khiến bạn bất thình lình kêu lên “Ồ, tuyệt!” 

Mặc dù có những tương đồng về văn hóa, ngôn ngữ và lịch sử, vẫn có một khoảng cách lớn giữa người Việt trong nước và cộng đồng người Việt di dân. Khoảng cách này rõ ràng là do sự thiếu quan tâm từ các độc giả trong nước đối với các tác phẩm văn học được viết bởi tác giả hải ngoại về quá trình di dân và hội nhập cuộc sống mới của người Việt. Đối với một số người, những câu chuyện này quá lạ lẫm họ không đồng cảm được. Đối với những người khác, họ có thành kiến không mấy công bằng về cuộc sống và quyền lợi mà người Việt hải ngoại đang trải nghiệm và điều này làm họ dè bỉu.

Nhà văn Thanhhà Lại giải thích với Saigoneer rằng không ai biết trước cuộc đời mình sẽ ra sao, hay được chọn lấy hoàn cảnh mà mình được sinh ra, và cũng không ai biết vận mệnh nào lại khiến một người lớn lên ở Sài gòn thay vì phải bỏ xứ đi Mỹ trên một chiếc xuồng xộc xệch. Tuy Lại Thanhhà không viết riêng cho nhóm độc giả nào, tiểu thuyết mới nhất của cô, Bướm Vàng, cho độc giả trong nước cơ hội “hình dung thế nào là bỏ xứ ra đi…Đây là cánh cửa mở ra cho bạn nhìn thấy kinh nghiệm của người khác.” Một cách giản dị, cô cũng nói thêm, “Nếu tiểu thuyết đó hay, là nó hay, vậy thì đọc nó đi.”

Nước Mỹ trong mắt người Việt

Bướm Vàng là câu chuyện về một cô gái Việt 18 tuổi tên Hằng, đến Texas năm 1981 để tìm đứa em trai tên Linh mà 6 năm trước cô đã sơ ý để nó bị phi cơ bốc đi Mỹ theo Chiến Dịch Baby Lift. Sau khi chiến tranh kết thúc, Hằng và gia đình phải sống kham khổ và hy sinh nhiều thứ để cô có thể thực hiện cuộc hành trình gian truân đi tìm em.

Thế nhưng cuộc hạnh ngộ không phải là khoảnh khắc thần tiên trong chuyện cổ tích mà cô đã tưởng tượng. Cậu em rời quê hương khi còn là một nhóc tì mới chập chững biết đi và vì thế có rất ít ký ức về gia đình của mình ở Sài Gòn. Thật dễ hiểu khi cậu hiện giờ mang tên Mỹ, cuộc sống của cậu xoay quanh bầy ngựa, trại chăn nuôi gia súc, và những thứ khác thuộc văn minh Mỹ quốc. Hằng hiểu điều đó nhưng không nản lòng trước thái độ đối kháng của cậu trong việc chấp nhận chị mình và thế giới mà chị mình biểu hiện.

Câu chuyện xảy ra ở một thị trấn thôn quê bang Texas, nhộn nhịp với các trận thao diễn quẳng thòng lọng và cưỡi bò mộng vào nửa đêm của các chàng cao-bồi, những lễ hội với vô số món ăn chiên giòn đầy mỡ, vào thời mà tiếng nhạc rap bắt đầu rầm rập phát ra từ radio của các chiếc xe bán tải. Các chương sách mô tả văn hóa Mỹ từ góc nhìn rất Việt Nam của Hằng.

Nhà văn Thanhhà Lại. Ảnh: Paula Landry.

Thanhhà cho biết cô có óc song ngữ, cô suy nghĩ bằng tiếng Việt khi viết từ quan điểm của Hằng, nhưng việc chuyển ngữ lại xảy ra trước khi cô gõ bàn phím. Điều này tạo nên những mô tả phong phú, đầy thi vị và giàu ẩn dụ vốn có trong tiếng Việt. Ria mép trở thành “hai con sâu rọm màu cam bò ngoe nguẩy quanh miệng chàng cao-bồi,” và một “giàn khoan kỳ quặc đứng thẳng người như đang sục tìm những quái thú săn mồi, rồi cúi gập, đứng, cúi, cứ thế, liên tục. Cũng không khác một con hươu cao cổ bằng kim loại đang khát khô.”

Người ta diễn đạt những gì họ thấy bằng ngôn ngữ, nhưng đôi khi ngôn ngữ của một người cũng định hình cách nhìn của họ. Điều này chính là cách Hằng diễn đạt sự kỳ lạ của văn minh Mỹ. Thí dụ như cách cô nhận xét về tên của LeeRoy — một thanh niên 18 tuổi ôm mộng thành cao-bồi — nhân vật liên quan đến câu chuyện của cô. Theo cô, tên của anh chàng này nghe như Ly Roi, cái roi làm bằng ly thủy tinh (do đó dễ vỡ). Cô hy vọng ý nghĩa của tên này trong tiếng Anh cứng cáp hơn thế, như các tên của con trai Việt Nam: Dũng, Minh, Quang, Phú, Cường.

Sự pha trộn giữa tiếng Anh và tiếng Việt tạo ra những trường hợp trào lộng, hài hước cho độc giả. Hằng nói tiếng Anh bằng cách phát âm của tiếng Việt. Thí dụ, cô nói “Du ri-eo cao-bồi? Du đu nót nô.” Thay vì “You are [a] real cowboy? You do not know.” Kỹ thuật sáng tác này khắc họa được nét riêng của Hằng và làm độc giả thấy rõ những rào cản văn hóa mà cô phải đối phó. Thanhhà rải khắp các trang sách những câu Tiếng Việt bao gồm lời nhạc của Trịnh Công Sơn, tăng thêm nét chân thật cho nhân vật Hằng và làm quà tặng cho độc giả Việt.

Khác với quyển tiểu thuyết đầu tiên của Thanhhà, Từ trong ra ngoài rồi bắt đầu lại (Inside out and back again), đã đạt giải thưởng National Book Award và Newbery Honor — tác phẩm này không mảy may dựa trên kinh nghiệm di dân của cô. Tuy Thanhhà đã sống ở Texas một thời gian, nhưng khác với nhân vật Hằng, cô thuộc làn sóng tị nạn đầu tiên ra đi ngay sau khi chiến tranh kết thúc. Nguồn cảm hứng ban đầu của tác phẩm này xuất phát từ một bức ảnh (không thấy mặt nhân vật) mà cô nhìn thấy trong những năm làm phóng viên, sau đó được phát triển lên trong quá trình nghiên cứu tư liệu.

Óc tưởng tượng phong phú tài tình của Thanhhà cũng đóng góp rất nhiều vào quá trình sáng tác quyển tiểu thuyết. Nhật báo quận Cam nơi cô làm việc thường giao cho cô viết về những câu chuyện của người tị nạn Việt Nam khi đến đất Mỹ. Tuy có nhiều lý do phức tạp hơn chuyện ai cũng muốn hưởng "tự do", nhưng không ai muốn nói ra những đau đớn sâu xa hoặc những điều riêng tư xảy ra trong hành trình của họ. Thanhhà hiểu được sự ngần ngại của họ. Nhưng trong tiểu thuyết không có những giới hạn như vậy. Cô giải thích: “Trong tiểu thuyết, tôi phải mở bung cánh cửa tâm tư của cô gái này và xâm nhập vào thâm cung ký ức nhân vật. Ngay cả những kỷ niệm mà chính cô ấy không muốn thừa nhận, là độc giả bạn biết được chúng, đó là nhờ sự kỳ diệu của sáng tác — bạn được biết những điều mà thậm chí nhân vật cũng không muốn nghĩ đến.”

Cuộc sống cần chút hài hước

Phần ký ức khủng khiếp mà Hằng không muốn nghĩ đến bao gồm những tên cướp biển Thái Lan, đói khát, bệnh tật, và những chấn thương thể chất cũng như tâm lý — tất cả chi tiết đều dựa trên các tình cảnh mà những người tị nạn đã phải chịu đựng. Tuy nhiên Thanhhà nói với Saigoneer “Coi như tôi đã làm nên tên tuổi mình bằng cách đưa sự dí dỏm vào những câu chuyện thật kinh hoàng và thảm khốc, do tôi nghĩ chúng gắn kết với nhau, chúng ta cần đau thương lẫn hài hước để mà sống tiếp.”

Tính hài hước trong Bướm Vàng phần nhiều được nhân vật LeeRoy đảm nhiệm. Anh ta quyết tâm trở thành cao-bồi dù lớn lên trong một gia đình trí thức vùng Đông Mỹ. Có vẻ như anh ta theo triết lý “chân giả thành chân thật.” Sau khi tốt nghiệp trung học, học thuộc lòng tiếng lóng của dân cao-bồi từ sách vở, sắm quần áo cao-bồi hào nhoáng và dĩ nhiên không thực tiễn, anh lên đường và cố gắng xâm nhập vào thế giới của dân cao bồi. Anh ta tình cờ gặp Hằng rồi chọn việc quét dọn chuồng ngựa và cuốn bó đống cỏ khô nơi Hằng làm việc, đơn giản chỉ để được gần gũi cô trong lúc cô bám sát cậu em trai lì lợm được nhận nuôi bởi một phụ nữ Mỹ da trắng sống ở cuối đường.

LeeRoy là một chàng trai hoạt ngôn, hay nhai rào rạo rau cần tây (“Tôi thích mấy thứ này lắm, nó giúp tôi được nhuận trường”); hay buông ra những thành ngữ chẳng biết là học được ở đâu (“Em làm tim tôi nhảy khỏi họng”); khoác lác làm nhàm (“Hồi học Đệ nhất tôi đã viết tiểu luận về giá trị địa chất, lịch sử và chính trị của hẻm núi Palo Duro, đủ dài để in thành sách đó”). Mặc dù đã cố giấu đi, nhưng cách hành xử của cậu vẫn thể hiện được tính cách thật thà và tốt bụng, một phần được khuyến khích bởi tình yêu thầm kín dành cho Hằng. Mối tình kỳ lạ này đã nảy nở và biến Bướm Vàng thành câu chuyện về sự hồi phục tâm lý thay vì là về nỗi đau. Thanhhà giải thích: “Đây là câu chuyện về sự chữa lành vết thương, không phải về những chấn thương tâm lý. Chấn thương tâm lý chỉ là nguyên do vì sao cô ấy phải chữa lành vết thương.”

Vết thương rồi cũng sẽ lành thôi

Trong cuộc gặp với chúng tôi, nhà văn đã chia sẻ một câu chuyện tươi sáng gợi đến đề tài “chữa lành tổn thương”: Tuy Thanhhà cho rằng giải thưởng National Book Award không mấy thay đổi quá trình viết văn của cô — dù sao thì cô đã sáng tác trong thầm lặng hơn cả một thập niên — nhưng sự nghiệp viết văn đã tạo cơ hội cho cô được đến thăm các lớp học trên khắp nước Mỹ để trò chuyện với các học sinh đã trải qua nhiều tuần lễ đọc hiểu và thảo luận tiểu thuyết Từ trong ra ngoài rồi bắt đầu lại.

Khi cô bước vào các lớp học, các học sinh cấp hai và cấp ba tưởng sẽ gặp một nhân vật mỏng manh và dễ bị bắt nạt mà các em đã biết qua trong tác phẩm. Nhưng đó là Thanhhà của 44 năm trước. Đâu rồi lũ bắt nạt và sự kỳ thị đã làm cô khốn khổ khi vừa đặt chân đến nước Mỹ? Cô không còn nghĩ đến chúng nữa. Cuộc sống vẫn luôn tiếp diễn và có biết bao điều phải lo, thời gian đâu mà bận tâm về quá khứ chứ: “Những điều đó không ăn nhập gì nữa.” Thay vào đó, các em học sinh đã gặp một nhà văn cực kỳ sôi nổi và hài hước, đầy tự tin trong cuộc sống và công việc của mình.

Nhà văn Thanhhà hồi học lớp 1. Hình ảnh được chụp tại Sài Gòn.

Vậy thì viết ra những câu chuyện đó để làm chi khi mà những căng thẳng trong lòng không còn dày vò tác giả nữa? Thanhhà giải thích, đối với những người Mỹ gốc Việt, những câu chuyện đó là cửa sổ mở ra cho thấy những gì cha mẹ họ [nhóm người thuộc thế hệ di dân thứ nhất] đã trải qua. Những câu chuyện đó có thể gợi mở đối thoại và cho phép người ta nhìn vào sự thật quá đau thương đến nỗi không thể tự dưng mang ra mà nói. Còn đối với thế hệ cha mẹ [khi đọc được những điều tác giả đã viết xuống], sẽ thấy rằng “kinh nghiệm của mình có giá trị, và có người đã viết nó ra.”

Ngoài nét sắc sảo và và tính giải trí cao, thì đối với những ai không có mối quan hệ cụ thể với Việt Nam, tác phẩm của Thanhhà cũng đưa ra nhiều bài học về sự đồng cảm mà đến giờ vẫn rất cần thiết, nhất là ở những nơi mà các làn sóng di dân vẫn còn tiếp diễn. Suy niệm về thành công của người Việt khắp nơi trên thế giới, cả trong sự nghiệp và cuộc sống cá nhân, Thanhhà nói cô hy vọng câu chuyện của họ có thể giúp các người khác nhìn thấy hình ảnh mới của dân tị nạn, và “không chỉ nhìn vào người đang đứng trước mặt bạn mà hãy hình dung những gì sẽ xảy ra trong 50 năm nữa.”

Khi bạn thấy chính mình đang tưởng tượng về những gì sẽ xảy ra cho các nhân vật sau khi chương cuối kết thúc, đó là một trong những dấu hiệu rõ ràng nhất cho biết nó là một quyển sách hay. Bướm Vàng khiến độc giả suy ngẫm. Hằng, LeeRoy và Linh đang ở đâu vào năm 2020? Thanhhà có một vài ý tưởng, nhưng quan trọng hơn, bạn cũng có những suy niệm của riêng mình, vì cô đã tạo ra những nhân vật đáng mến và độc đáo, họ vương vấn tâm tư bạn rõ lâu sau khi quyển sách đã được gấp lại. Mặc dù Thanhhà thừa nhận sách giống như con cái mình, và không nên cưng đứa nào hơn đứa nào, cô cho biết mình thích Bướm Vàng nhất. Sự ưu ái của tác giả cũng dễ hiểu thôi, vì sách mang đến cho mọi đối tượng độc giả thật nhiều điều thú vị và nhận thức sâu sắc.

Bạn có thể tìm mua Bướm Vàng trong các hiệu sách ở nước ngoài, hoặc tải phiên bản điện tử từ các đơn vị bán lẻ như Amazon.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Chuyển ngữ: Trần Thị NgH. Ảnh bìa: Hannah Hoàng. ) Loạt Soạt Fri, 13 Nov 2020 11:55:43 +0700