Văn Hóa - Sài·gòn·eer https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture Sat, 29 Mar 2025 12:49:42 +0700 Joomla! - Open Source Content Management vi-vn Bên trong chợ ẩm thực ở xóm Hồi giáo lớn nhất Sài Gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17848-bên-trong-chợ-ẩm-thực-ở-xóm-hồi-giáo-lớn-nhất-sài-gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17848-bên-trong-chợ-ẩm-thực-ở-xóm-hồi-giáo-lớn-nhất-sài-gòn

Len lỏi dưới ánh nắng chiều qua con hẻm nhỏ trên đường Dương Bá Trạc (Quận 8), chúng tôi bắt gặp một lát cắt sinh động của đời sống cộng đồng Hồi giáo nơi đây. Không chỉ là không gian sinh hoạt tín ngưỡng, khu phố còn mở ra một thế giới ẩm thực phong phú — phản ánh sự giao thoa giữa các nền văn hóa cùng tồn tại và phát triển trong lòng thành phố.

Chỉ vào một dịp duy nhất trong năm, con hẻm vốn thường yên ắng trở nên nhộn nhịp hơn khi đón tiếp các tín hữu Hồi giáo tề tựu về đây để hòa mình vào không khí đặc biệt của tháng Ramadan.

Diễn ra vào tháng 9 của lịch Hijri, Ramadan là một trong những thánh lễ quan trọng nhất với đức tin Hồi giáo. Sự kiện đánh dấu thời điểm nhà tiên tri Muhammad nhận được những mặc khải đầu tiên của thánh kinh Quran. Với các tín hữu, đây là khoảng thời gian để thực hành chiêm nghiệm, kiềm chế và đổi mới tinh thần.

Tập trung gần 3.000 tín đồ, hẻm 157 Dương Bá Trạc là nơi sinh sống của cộng đồng người Hồi lớn nhất tại TP. HCM. Các cư dân nơi đây chủ yếu thuộc dân tộc Chăm di cư từ các tỉnh thành như An Giang, Châu Đốc, Ninh Thuận, v.v. Giáo khu mang lịch sử lâu đời với thánh đường Jamiul Anwar được xây dựng từ năm 1966 và sửa sang khang trang lại như hiện nay vào năm 2006.

Trong suốt tháng Ramadan, người Hồi giáo nhịn ăn từ bình minh đến hoàng hôn như một cách để bày tỏ lòng thành kính với bề trên cũng như rèn luyện ý chí, nuôi dưỡng sự biết ơn, trân trọng những bữa ăn thường ngày. Các tín đồ phải tuân thủ chế độ ăn Halal — thực phẩm đáp ứng tiêu chuẩn Hồi giáo, không chứa thịt heo, rượu và các thành phần bị cấm theo giáo lý. Chỉ sau khi mặt trời lặn, cộng đồng mới quây quần lại cùng nhau để dùng bữa xả chay, gọi là Iftar.

Để đáp ứng nhu cầu ăn uống của các giáo dân, quanh khu vực thánh đường đã hình thành một khu chợ dân sinh phục vụ ẩm thực Halal, hoạt động từ 3 đến 6 giờ chiều chỉ trong tháng Ramadan. Nhiều gian hàng nhỏ được dựng lên men theo mặt tường, các mặt hàng trải dài từ món Chăm truyền thống như cà ri, bánh rôti, bánh sakaya đến các món phổ thông như gỏi cuốn, xúc xích, v.v.

Đồ ăn được các hộ gia đình chế biến ngay trong bếp nhà và bày trí thịnh soạn, khiến hương thơm hấp dẫn lan tỏa vào từng ngóc ngách của con hẻm hẹp.

Những năm gần đây, khu chợ còn chào đón thêm sự có mặt của những vị khách ngoại đạo đến thưởng thức món ăn Halal và tìm hiểu phong tục Hồi giáo. Không gian ẩm thực của ngôi chợ trở thành một ô cửa sổ và cầu nối giữa những cộng đồng văn hóa khác nhau.

Xem thêm về khu chợ đặc biệt qua các hình ảnh sau:

]]>
info@saigoneer.com (Uyên Đỗ. Ảnh: Jimmy Art Devier.) Văn Hóa Tue, 25 Mar 2025 15:51:40 +0700
Viết cho cánh diều mùa hè chao lượn trên bầu trời Thủ Thiêm https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17516-viết-cho-cánh-diều-mùa-hè-chao-lượn-trên-bầu-trời-thủ-thiêm https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17516-viết-cho-cánh-diều-mùa-hè-chao-lượn-trên-bầu-trời-thủ-thiêm

Ta có thể dùng bao nhiêu mỹ từ thi vị để nói về cái nên thơ của thú thả diều, một trong những cách thanh thoát nhất để chiêm ngưỡng sức bật của làn gió, vốn tưởng chừng như vô hình kia.

Nói về diều, tôi thậm chí không biết nên bắt đầu từ đâu. Tôi có thể thảo mai sáng tạo ra một cổ ngữ đầy triết lý gì đấy, như “chính sợi dây neo đậu con diều xuống đất cũng cho nó tự do được bay bổng trên trời.” Hay tôi sẽ kể lại điển tích khi danh tướng Hàn Quốc Kim Yu-sin vực dậy tinh thần chiến sĩ bằng một quả cầu cháy rực đính sau diều, trấn an binh sĩ rằng điềm dữ đã qua đi, hoặc câu chuyện nhà hiền triết người Mỹ Ben Franklin thu thập điện lần đầu tiên bằng cách quấn chìa khóa quanh đuôi diều lúc trời bão. Còn nữa, lạ lùng thay, nhiều nhà cầm quyền trên thế giới cấm tiệt chuyện thả diều, như nhóm phiến quân Taliban, Trung Hoa thời Mao Trạch Đông, Nhật Bản thế kỉ 18, Ai Cập, v.v.

Nhưng thôi, tốt hơn hết ta nên đơn giản hóa suy nghĩ, vì đi thả diều ở Thủ Thiêm là một thú tiêu khiển rất giản đơn — chỉ cần có mặt ở bán đảo mỗi chiều khi cái nắng hanh bắt đầu tàn lụi. Hàng ghế nhựa đủ màu xếp thành hàng dọc những con đường lớn nằm mòn mỏi chờ cao ốc. Tấp nập người mua kẻ bán đủ thứ nước giải khát và đồ ăn vặt. Muốn chơi diều, ta có thể tự đem theo hoặc chọn mua ngay đây. Để đưa diều bay lên, người chơi chỉ cần chạy chục bước để vòng dây từ từ thả ra, nối con diều phấp phới trong gió. Có khi ta thậm chí chẳng cần diều nữa, chỉ cần ngồi ngả ra trên ghế tán gẫu với chiến hữu, ngắm hằng hà sa số những mảnh diều đủ màu chao lượn trên không trung.

Diều chẳng cần lời tán tụng. Khi chơi diều, chắc bạn chẳng bao giờ nghe tiếng ồ à trầm trồ như khi xem pháo hoa hay thể thao. Niềm vui ở đây hiện diện qua tiếng nói chuyện rôm rả và nụ cười hồn nhiên. Niềm vui giá cũng rất mềm. Có lẽ đây là khía cạnh tôi yêu nhất ở cánh diều. Sài Gòn là một thành phố đắt đỏ, càng đắt đỏ hơn đối với những gia đình đông con. Không phải ai cũng có nhiều tiền để ăn tiệm hay vào khu vui chơi, nhưng họ cũng có quyền được tận hưởng khí trời quang đãng, phải không? Thú chơi diều chẳng màng gì hết — từ gia thế, thu nhập, danh tiếng, cho đến những lỗi lầm quá khứ — dang tay chào đón mọi người. Khi thả diều, tôi chẳng bao giờ phải lo mình không được hoan nghênh. Trên đường chân trời Sài Gòn nhấp nhô đầy nhà cao tầng, cánh diều giăng ngang trời hệt như nét bút sáp con trẻ nguệch ngoạc nhưng cũng không kém phần đáng yêu.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Paul Christiansen.) Văn Hóa Fri, 21 Mar 2025 14:46:00 +0700
Chạy đua sinh con 'năm vàng': lộc trời cho hay hệ quả xã hội khó lường? https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17824-chạy-đua-sinh-con-năm-vàng-lộc-trời-cho-hay-hệ-quả-xã-hội-khó-lường https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17824-chạy-đua-sinh-con-năm-vàng-lộc-trời-cho-hay-hệ-quả-xã-hội-khó-lường

Năm 2013, Linh nằm thao thức trên gác mái căn nhà nhỏ nơi cô bé lớn lên ở Sài Gòn. Ngày mai là ngày đầu tiên cô bé đi học tiểu học, nhưng càng cố dỗ giấc, bụng cô bé càng nôn nao. Linh có chút lo lắng, nhưng mẹ cô bé đã trấn an: không sao đâu, con sẽ ổn thôi — vì con là một đứa trẻ đặc biệt.

Thực tế thì, Linh “đặc biệt” chẳng kém gì 110.708 bạn đồng trang lứa ở Sài Gòn. Tất cả đều chào đời vào năm 2007, năm Đinh Hợi, hay còn gọi là năm “heo vàng” — một trong những năm sinh được xem là may mắn bậc nhất. Cứ mỗi 60 năm, các bé heo vàng này lại “giáng trần,” là “lộc trời” hứa hẹn mang lại phú quý, thịnh vượng cho cả gia đình.

Để tiện diễn giải, trong bài viết này, tôi sẽ tạm giả định năm Dương lịch trùng với năm Âm lịch, dù trên thực tế, lịch Âm thường chậm hơn lịch Dương 1 đến 2 tháng.

Tử vi tướng số 101

Sau một thiên niên kỷ dưới ách đô hộ của Trung Quốc, Việt Nam tất yếu tiếp thu không ít nét văn hóa Trung Hoa vào đời sống của mình. Điều này thể hiện qua nhiều khía cạnh, ở nhiều cấp độ và dịp khác nhau — từ những ngày lễ náo nhiệt của Tết Nguyên đán, cho đến những thực tế nghiệt ngã hơn như tư tưởng trọng nam khinh nữ hay áp lực thành tích học tập nặng nề. Trong số những ảnh hưởng văn hóa ấy, có lẽ việc tiếp nhận hệ thống 12 con giáp là một trong những điều nhẹ nhàng và thú vị nhất.

Bất kỳ ai từng lướt qua một trang tử vi trên mạng đều có thể dễ dàng kể tên 12 con giáp: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tỵ, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Hệ thống này không chỉ phổ biến ở Trung Hoa mà còn được nhiều nền văn hóa châu Á tiếp nhận, đôi khi với những điều chỉnh để phù hợp với quan niệm và môi trường địa phương. 

Ở Việt Nam, trâu nước thay thế cho con trâu Sửu trong tử vi Trung Hoa, còn mèo lại được đưa vào thay vì thỏ, phản ánh sự gần gũi của hai loài này với đời sống người Việt. Người Hàn Quốc thì gọi Mùi là cừu thay vì dê, trong khi người Kazakhstan, một cách đầy khó hiểu, lại quyết định chọn ốc sên thay cho rồng.

Cũng như cung hoàng đạo phương Tây hay các nhóm tính cách MBTI, việc thỉnh thoảng tò mò về ý nghĩa đằng sau con giáp của mình hoàn toàn vô hại — miễn là ta không xem chúng như chân lý tuyệt đối. Nhưng với nhiều bậc cha mẹ Việt Nam, mọi chuyện không dừng lại ở mức giải trí. Họ sẵn sàng đào sâu vào từng chi tiết chiêm tinh, từ năm, tháng, ngày đến cả giờ sinh, chỉ để chắc chắn rằng con mình chào đời vào thời khắc thuận lợi nhất.

Trong văn hóa Trung Quốc, năm Rồng là năm được ưa chuộng nhất. Nguồn ảnh: The Economist.

Phong tục sinh con theo phong thủy ở Việt Nam được tạo quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau. Trước hết là yếu tố con giáp, đúng như George Orwell từng nói: “Mọi loài vật đều bình đẳng, nhưng một số loài thì bình đẳng hơn những loài khác.” Trong chu kỳ 12 năm, năm Thìn luôn chứng kiến mức sinh đột biến, bởi trong văn hóa Á Đông, rồng là biểu tượng của quyền lực, uy nghi và vương giả. Điều này lý giải vì sao các năm 2000 và 2012, năm Thìn, lại có số trẻ sơ sinh tăng vọt.

Sau rồng, các bậc cha mẹ cũng ưa chuộng những con giáp gắn liền với gia súc như trâu, dê, gà và heo, vì tin rằng trẻ sinh vào những năm này sẽ thừa hưởng sự hiền lành, trung thành và bền bỉ của loài vật cầm tinh. Ngược lại, những con giáp kém được ưa chuộng hơn thường rơi vào thỏ (mèo), rắn và hổ. Người ta cho rằng thỏ và mèo quá nhút nhát, dễ nản chí, trong khi rắn gắn liền với sự xảo quyệt nên không được xem trọng. Riêng trường hợp tuổi hổ, quan niệm này chủ yếu áp dụng cho bé gái, vì nhiều người tin rằng con gái cầm tinh hổ sẽ có tính khí mạnh mẽ, khó tìm được người "đủ sức" làm đối trọng trong hôn nhân.

“Heo vàng” nhà ta

Khái niệm “heo vàng” không chỉ đơn thuần bắt nguồn từ sự tích 12 con giáp. Những năm như 2007 chỉ lặp lại mỗi 60 năm một lần theo chu kỳ can chi, một hệ thống tính thời gian có từ thế kỷ III sau Công nguyên. Chu kỳ này được hình thành từ sự kết hợp giữa thiên canđịa chi, hai yếu tố đan xen để xác định thứ tự các năm, từ đó tạo nên những năm đặc biệt như Đinh Hợi 2007.

Theo hệ thống can chi, thứ tự các năm trong chu kỳ được xác định bởi 12 địa chi, tương ứng với 12 con giáp, và 10 thiên can, đại diện cho năm nguyên tố ngũ hành—kim, mộc, thủy, hỏa, thổ—kết hợp với thuộc tính âm hoặc dương. Sự kết hợp này tạo ra 60 tên gọi khác nhau cho các năm, trong đó mỗi con giáp có thể mang một trong năm yếu tố ngũ hành và thuộc tính âm hoặc dương. Chẳng hạn, năm 2018 được gọi là Mậu Tuất, có nghĩa là năm Chó mệnh Thổ.

Trong các ngũ hành, kim luôn được các bậc phụ huynh săn đón nhất. Chữ “kim” không chỉ dùng để chỉ kim loại mà còn gắn liền với tiền bạc, của cải.  Do đó, Những năm bắt đầu bằng hai thiên can liên quan đến kim Canh (kim dương) và Tân (kim âm) — gần như luôn được xem là “năm vàng.” Chẳng hạn, chúng ta có năm 2000 (Canh Thìn) hội tụ cả hai yếu tố may mắn: vừa là năm kim, vừa là năm rồng. Một năm mang niềm vui cho những bậc cha mẹ tin vào phong thủy, nhưng lại là bài toán nan giải cho các bệnh viện.

Tóm tắt sơ lược về 12 con giáp và hệ thống can chi.

Hệ thống can chi có chiều sâu vô cùng phức tạp và khó có thể giải thích trọn vẹn trong khuôn khổ một bài viết. Nhưng về cơ bản, nó phản ánh sự cân bằng giữa âm và dương, trời và đất, 12 con giáp và ngũ hành. Hiểu được quy luật này, ta có thể xác định rằng năm 2007 (Đinh Hợi) là năm Heo mệnh Hỏa. Trái với suy nghĩ của nhiều người, hai yếu tố này không mang lại phú quý đến mức khiến các bậc phụ huynh đổ xô sinh con. Vậy vì sao nó vẫn được xem là “năm vàng”?

Có lẽ Linh thực sự đặc biệt, bởi năm sinh của em, Đinh Hợi, không chỉ là một con số trong chu kỳ 60 năm mà còn gắn liền với những biến động lịch sử. Trước năm 627 SCN, năm Đinh Hợi đơn thuần được xem là năm “Heo mệnh Hỏa” — không hơn không kém và không có ý nghĩa gì lớn lao. Điều này thay đổi khi Trung Quốc bước sang triều đại nhà Đường sau sự sụp đổ của nhà Tùy. Khi ấy, đất nước kiệt quệ vì thuế khóa nặng nề, chiến tranh liên miên và những công trình đồ sộ, đẩy xã hội vào một giai đoạn đầy bất ổn.

Hoàng đế Đường Cao Tổ, người sáng lập nhà Đường, đã thực hiện nhiều cải cách quan trọng trong thời gian trị vì, như giảm thuế, phân chia ruộng đất công bằng và bãi bỏ những luật lệ hà khắc. Những chính sách này nhanh chóng phát huy hiệu quả, tạo tiền đề cho triều đại của con trai ông, Đường Thái Tông, giai đoạn được xem là thời kỳ hoàng kim của Trung Quốc, thịnh vượng cả về kinh tế lẫn quân sự.

Nhờ sự phát triển rực rỡ này, người xưa bắt đầu gọi năm 627 SCN, thời điểm Đường Thái Tông lên ngôi, là năm “heo vàng” thay vì năm “Heo mệnh Hỏa” như thông thường. Tên gọi này dần được lưu truyền, và từ đó, những năm Đinh Hợi luôn được xem là đặc biệt may mắn.

Biểu đồ 10 thiên can (hàng thứ ba) và 12 địa chi. 

“Vàng” có chắc đã quý?

​​Nhiều bậc cha mẹ Việt Nam chạy theo niềm tìm sinh con đúng năm đẹp, nhưng thực tế, gần như không có nghiên cứu khoa học nào chứng minh những "năm vàng" mang lại lợi ích rõ ràng cho trẻ. Hầu hết phụ huynh chỉ tin theo quan niệm may mắn mà không thể chỉ ra cụ thể năm sinh ảnh hưởng thế nào đến thành tích học tập, trí tuệ, quan hệ xã hội hay cơ hội nghề nghiệp của con cái.

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Bá Minh từ Trung tâm Nghiên cứu Tiềm năng Con người Việt Nam, trong 40 năm nghiên cứu và tư vấn triết lý phương Đông cho các cặp vợ chồng, ông nhận thấy khoảng 50% phụ huynh có con trai sinh năm 2000 — một năm Thìn được coi là “vàng” — đã ly hôn hoặc ly thân. Nói về những người sinh năm 1952, cũng là một năm Thìn, ông chia sẻ: “Trong số tất cả bạn bè của tôi ở tuổi này thì họ rất vất vả trong cuộc sống, đa số 'thân lập thân,' rất ít người thành đạt.”

Ông cho rằng thời điểm tốt nhất để sinh con không phụ thuộc vào quy luật trời đất, mà nằm ở điều kiện của gia đình. Khi cha mẹ hạnh phúc, khỏe mạnh và vững vàng về tài chính, con cái cũng có nhiều cơ hội để lớn lên trong hạnh phúc, khỏe mạnh và thành công. Nghe có vẻ hiển nhiên, nhưng để có một đứa con "vàng," nhiều bậc phụ huynh sẵn sàng đánh cược mọi thứ — từ tiền bạc, thời gian cho đến cả sức khỏe của chính mình.

Phải mất nhiều thập kỷ mới biết được liệu sinh con theo năm đẹp có thực sự mang lại giàu sang và thành công hay không. Những đứa trẻ "vàng" rồi cũng phải tốt nghiệp, đi làm, thử vận may vé số hay mở startup — những chuyện mà ai cũng biết là... còn tùy duyên. Nhưng trong khi kết quả vẫn còn xa tít, hệ lụy của việc chạy theo năm đẹp đã lộ rõ ngay từ lúc những đứa trẻ này cất tiếng khóc chào đời.

Năm 2003, năm “dê vàng,” Bệnh viện Phụ sản Trung ương Hà Nội đón tổng cộng 14.000 ca sinh chỉ trong 9 tháng đầu năm — cao hơn trung bình những năm khác đến 3.000 ca. Trong 3 tháng cuối năm, danh sách chờ sinh đã có thêm 5.000 bà mẹ đăng ký, trong khi bệnh viện chỉ có vỏn vẹn 380 giường. Cơn sốt sinh con này khiến hệ thống y tế quá tải trầm trọng: sản phụ phải nằm chung giường, còn đội ngũ bác sĩ phải căng mình chăm sóc hàng trăm bà mẹ vừa sinh xong.

Bác sĩ Nguyễn Thị Thanh từ Bệnh viện Phụ sản Hà Nội nhận xét rằng bệnh nhân của bà đến từ đủ mọi tầng lớp, nhưng tất cả đều có chung một mục tiêu: nhất quyết phải sinh con tuổi Mùi trong năm 2003.

“Có gia đình dù đã đầy đủ cả trai lẫn gái vẫn muốn sinh thêm. Hoặc có người thể trạng không tốt, sinh con có thể gặp nguy hiểm, nhưng vì bị gia đình thúc ép đành phải sinh. Cá biệt, có đôi uyên ương chưa sẵn sàng tiến tới hôn nhân, nhưng vì muốn có ‘con dê vàng’ nên vội vàng cưới đầu năm để đến cuối năm sinh thằng cu. Không biết các cháu sau này có phú quý thật không, nhưng giờ thì không chỉ các bà mẹ, mà cả chúng tôi đều khổ.”

Đông chưa chắc đã vui

Dưới sức nặng của danh xưng “heo vàng” đặc biệt — chỉ xuất hiện một lần mỗi 60 năm — những đứa trẻ sinh năm 2007 như Linh có lẽ đã sớm phải đối mặt với áp lực cạnh tranh khốc liệt để có được một nền giáo dục chất lượng. Năm 2013, các trường tiểu học công lập ở Sài Gòn đón khoảng 110.709 học sinh lớp 1 mới, phần lớn là kết quả của cơn sốt sinh con năm Đinh Hợi – năm được cho là mang lại vận may.

Con số này tăng đến 40.804 em so với năm 2012, trong khi số lượng trường học và phòng học gần như không thay đổi. Phòng Giáo dục và Đào tạo Quận 9 buộc phải tận dụng cơ sở vật chất của các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông để đáp ứng làn sóng học sinh lớp 1. Tại quận Gò Vấp, các trường phải chấp nhận giải pháp nhồi nhét, nâng sĩ số mỗi lớp lên 45 đến 50 em.

Phòng học lớp 1 điển hình ở Việt Nam.

Vì quy luật tuần hoàn của 12 con giáp, vấn đề quá tải này không tự biến mất mà cứ thế tái diễn theo từng cấp học, cho đến khi lứa học sinh này tốt nghiệp. Điểm khác biệt duy nhất là đến lúc đó, áp lực lại đè nặng lên các trường trung học cơ sở và trung học phổ thông. Một học sinh Việt Nam điển hình sẽ trải qua 12 năm học trong hệ thống công lập: từ lớp 1 đến lớp 5 ở bậc tiểu học, từ lớp 6 đến lớp 9 ở bậc trung học cơ sở, và từ lớp 10 đến lớp 12 ở bậc trung học phổ thông.

Năm 2018, các trường trung học phổ thông phải gánh chịu áp lực từ lứa “dê vàng” sinh năm 2003, với 109.000 học sinh bước vào lớp 10 tại Hà Nội — tăng 24.000 em so với năm trước. Tương tự, các trường trung học cơ sở ở thủ đô cũng tiếp nhận khoảng 125.000 “heo vàng” sinh năm 2007, nhiều hơn 11.000 em so với số học sinh lớp 6 của năm trước.

Phải chen chúc trong một môi trường học tập quá tải chắc chắn không mấy dễ chịu, nhưng hệ quả nặng nề nhất của trào lưu sinh con theo phong thủy lại thể hiện rõ nhất ở kỳ thi tốt nghiệp năm nay, với sự góp mặt của thế hệ “rồng vàng” sinh năm 2000.

Trong hệ thống trường công ở Việt Nam, hầu hết học sinh được phân vào trường dựa trên địa chỉ hộ khẩu, tức là nếu có một trường gần nhà, các em gần như chắc chắn có suất học. Tuy nhiên, điều này lại dẫn đến một kỳ thi đại học khốc liệt, khi thí sinh trên cả nước có thể tự do lựa chọn trường theo nguyện vọng, bất kể vị trí địa lý. Tháng 6 năm nay, khoảng 925.000 thí sinh tham gia kỳ thi, so với 865.000 thí sinh vào năm 2017. Tổng cộng, thế hệ “rồng vàng” sinh năm 2000 phải cạnh tranh với nhiều hơn 60.000 đối thủ so với lứa đàn anh ngay trước đó.

Không loại trừ khả năng Linh vẫn học tập tốt trong lớp 49 bạn của mình. Thay vì thấy lớp học chật chội như các nhà thống kê, em có thể lại thấy đó là cơ hội để kết thêm nhiều bạn và tận hưởng 5 năm tiểu học đáng nhớ. Thay vì áp lực thi cử như các cán bộ tuyển sinh, em có thể xem đó là dịp để thử thách bản thân. Chúng ta không thể chắc chắn rằng năm sinh thực sự ảnh hưởng tích cực đến số phận của một đứa trẻ, nhưng cũng không dễ để bác bỏ hoàn toàn tác động của nó chỉ dựa trên số liệu vĩ mô.

Có lẽ mọi chuyện sẽ bớt phức tạp hơn nếu các bậc phụ huynh làm theo lời khuyên của nhà nghiên cứu Đỗ Bá Minh: chỉ cần cha mẹ hạnh phúc, khỏe mạnh và vững vàng về tài chính, con cái cũng sẽ có nhiều cơ hội để lớn lên được hạnh phúc, khỏe mạnh và thành công trong cuộc sống.

]]>
info@saigoneer.com (Khôi Phạm. Minh họa: Hannah Hoàng.) Văn Hóa Mon, 03 Feb 2025 12:51:40 +0700
Viết cho giai đoạn ẩm ương khi mọi vấn đề đều được hóa giải bằng câu 'Tết mà' https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17638-viết-cho-giai-đoạn-ẩm-ương-khi-mọi-vấn-đề-đều-được-hóa-giải-bằng-câu-tết-mà https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17638-viết-cho-giai-đoạn-ẩm-ương-khi-mọi-vấn-đề-đều-được-hóa-giải-bằng-câu-tết-mà

Tôi không ưa các thể loại lý do lý trấu.

Dối mình không tốt, dối người còn tệ hơn. Viện cớ bận bịu để từ chối kèo hay đổ thừa kẹt xe để đi trễ — cốt lõi của mọi sự biện minh là một lời nói dối.

Dẫu vậy, trong lòng tôi, chỉ có một lý do đủ sức mạnh để đánh bại tất cả: Tết mà. Cứ đến tháng Giêng, tháng Chạp, Tết Nguyên Đán mặc định trở thành nguồn cơn cho mọi trắc trở trong công việc lẫn đời sống của người Việt. Chị kế toán đi đẻ? Email “seen không rep”? Lô cốt xây hoài không xong? Săn sale cháy túi? 10 giờ sáng đã rượu chè? Trời ơi đang Tết Nhất mà em, du di cái nha! (ngoài ra còn có Trời ơi sắp Tết tới nơi rồi mà em! Trời ơi mới nghỉ Tết xong mà em!). Lỡ có làm phật ý ai? Lôi ngay Tết ra làm kim bài miễn tử. 

Tất nhiên, đằng sau cái hân hoan ngày Tết cũng có những hệ lụy trầm trọng hơn, như các loại tệ nạn xã hội, cờ bạc, chạy chọt, vân vân và mây mây, không thể cứ ỉ i “chuyện cũ mình bỏ qua, Tết này cùng cười lên ha ha” hết được. Nhưng trừ những trường hợp đó ra, sự hữu hiệu của “Tết mà” gần như dành cho mọi người. Trong khoảng một tháng, Tết giúp ta thoát khỏi sự kỳ vọng và nỗi thất vọng của thế gian. Thôi Tết rồi là đường cùng của kẻ đuối lý, mong đối phương “lòng từ bi bất ngờ” mà tha thứ cho lỗi lầm của mình.

Trong bối cảnh hiện đại, cái an yên ngày Tết ngày càng mất đi khi nhiều hàng quán mở cửa xuyên dịp lễ, người dân trong nước cũng ưa chuộng những chuyến đi du lịch nước ngoài thay vì ăn Tết tại nhà; mâm cỗ Tết truyền thống, đủ đầy dần bị thay thế bởi những món ngon nấu sẵn tiện lợi ngoài tiệm. Mỗi năm, người ta cứ nói với nhau “Tết giờ hết vui như xưa rồi,” nhưng tôi biết, Tết chỉ thực sự biến mất nếu một ngày tôi dùng lý do “Tết mà” chỉ để nhận lại phản hồi dửng dưng: “Thì sao?”

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.) Văn Hóa Thu, 30 Jan 2025 15:54:00 +0700
Tự chọn áo dài Tết, tôi tìm thấy mình trong hình ảnh nữ tính 'không truyền thống' https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17644-tự-chọn-áo-dài-tết,-tôi-tìm-thấy-mình-trong-hình-ảnh-nữ-tính-không-truyền-thống https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17644-tự-chọn-áo-dài-tết,-tôi-tìm-thấy-mình-trong-hình-ảnh-nữ-tính-không-truyền-thống

Trung học có lẽ là giai đoạn ẩm ương đối với hầu hết chúng ta, như những mô típ kinh điển trong các bộ phim tuổi mới lớn. Sinh ra và lớn lên tại Việt Nam và đã trải qua khoảng thời gian mài đũng quần ở đây, nét văn hóa từng làm tôi vô cùng chật vật chính là quy định mặc áo dài mỗi sáng thứ 2 chỉ áp dụng riêng cho học sinh nữ.

Quy định này là lý do duy nhất khiến tôi bị mời phụ huynh, vì hàng tuần liền tôi đã cố gắng lách luật. Thông thường, các bạn nữ dù có khó chịu với việc mặc áo dài cũng sẽ ngậm đắng nuốt cay tuân theo vì cố ý vi phạm chỉ gây phiền toái. Hành động cố ý không mặc đồng phục áo dài của tôi trong mắt thầy cô tôi như cái vẫy vùng để gây chú ý. Trên thực tế, việc tôi kiên trì “cúp” mặc áo dài không phải vì tôi ghét bỏ gì bộ trang phục, nó đến từ việc giáo viên liên tục cố gắng “đóng khung” chúng tôi vào hình ảnh nữ tính mà họ muốn khi chúng tôi mặc áo dài.

 

Tháng Giêng

2024

 
Áo dài truyền thống. Nguồn ảnh: Thanh Niên.
 

Tháng Giêng

2024

 
Tuy có nhiều phiên bản áo dài khác nhau nhưng các cơ sở trường học tại Việt Nam chỉ chấp nhận loại áo dài trắng, ôm sát cơ thể làm đồng phục cho nữ sinh.

Ngày nay áo dài được thiết kế và may dưới nhiều kiểu dáng và phong cách khác nhau, ngoài áo dài truyền thống, chúng ta còn có áo dài dáng suông, và cả áo dài cách tân với đủ màu sắc và loại vải. Tuy nhiên trong môi trường học đường, áo dài truyền thống vẫn luôn là dáng áo duy nhất được chấp nhận. Áo dài truyền thống bấy lâu nay vẫn luôn là dáng áo dài phổ biến nhất, nhưng form ôm sát của loại áo dài không thật sự dành cho tất cả mọi người. Cách áo ôm sát cơ thể, làm cho việc xoay sở hoạt động thường nhật khó khăn, cách áo thắt eo cũng gây nhiều khó khắn cho các bạn gái tuổi teen chưa có hình thể lý tưởng hay sự tự tin.

 

Tháng Giêng

2024

 
Áo dài dáng suông thể hiện sự diệu dàng nhưng vẫn mang giữ được kiểu dáng thoái mái. Nguồn ảnh: Thể thao và Văn hóa.

Lúc ấy tôi đang tuổi mới lớn, còn khổ sở với vấn đề cân nặng và cách nhìn nhận bản thân, tôi cảm thấy như mọi sự lo âu và khuyết điểm cơ thể mình đều bị phô bày cho cả thế giới thấy khi mặc áo dài đồng phục. Nhưng điều bực mình hơn cả có lẽ là những khuôn phép giáo điều mà giáo viên lúc ấy muốn áp đặt lên chúng tôi khi mặc áo dài. Các bạn nữ được dạy là phải ra vẻ e lệ và thanh nhã, đi đứng ăn nói nhỏ nhẹ và cố gắng tươi tỉnh xinh xắn nhất có thể khi mặc áo dài, hãy luôn tươi cười dù cảm thấy không thoải mái, bởi vì bài học ở đây là phụ nữ thì phải ưu tiên việc nhìn sao cho đẹp hơn là cảm thấy thoải mái với chính bản thân mình. Lúc ấy trong mắt tôi, áo dài chỉ là một công cụ dùng để áp đặt hình ảnh nữ tính truyền thống mà giáo viên cho rằng là lý tưởng lên chúng tôi, một cùm gông đặt ngoại hình của phụ nữ quan trọng hơn tất cả mọi phẩm chất khác.

Mùa xuân năm 2023, tôi cũng đã sắp 23 tuổi, một người bạn trong nhóm gợi ý cả bọn thuê áo dài mặc Tết năm ấy. Tôi ngạc nhiên vì trong nhóm chúng tôi chả có ai từng mặn mà với việc mặc áo dài. Tôi cũng hơi e ngại vì cứ nghĩ đến kỷ niệm không mấy tốt đẹp với áo dài ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng lần này, tôi tự nhủ, đã không còn giáo viên nào cố gắng bắt ép tôi đi đứng hay cư xử ra sao, tôi quyết định thử xem sao. Tốn một chút thời gian nhưng cuối cùng tôi cũng tìm được một bộ áo dài dáng suông màu xanh ngọc. Lúc khoác bộ áo dài lên người, tôi bất ngờ vì nó hợp tôi đến vậy. Thoải mái mà vẫn vui vẻ là hai tâm trạng mà trước đó tôi không nghĩ mặc áo dài có thể mang lại. Khoảnh khắc ấy khiến tôi thật sự hạnh phúc được mặc một bộ trang phục mà tôi từng cho rằng tượng trưng cho cái tính nữ học đường đầy bó buộc mà tôi chưa bao giờ thấy hợp với mình.

Suy cho cùng, có lẽ hành trình học yêu lại tà áo dài cũng là một phần của hành trình tìm kiếm danh tính — từ việc chật vật vì không thấy chính mình trong hình ảnh nữ tính truyền thống, tôi đã học cách trân trọng một nét văn hóa mặc áo dài mà không đánh mất bản thân.

]]>
info@saigoneer.com (Ngọc Hân. Ảnh: Yumi-kito.) Văn Hóa Wed, 29 Jan 2025 17:00:00 +0700
Nhà tôi có truyền thống đi 10 chùa vào mùng một. Liệu may mắn có nhân 10? https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17823-nhà-tôi-có-truyền-thống-đi-10-chùa-vào-mùng-một-liệu-may-mắn-có-nhân-10 https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17823-nhà-tôi-có-truyền-thống-đi-10-chùa-vào-mùng-một-liệu-may-mắn-có-nhân-10

“Mùng một tết cha, mùng hai tết mẹ, mùng ba tết thầy.”

Đối với nhiều gia đình, đây có lẽ là trình tự đi du xuân thường thấy vào mỗi dịp Tết Nguyên Đán: việc thăm hỏi, chúc tết sẽ bắt đầu từ gia đình bên nội, đến nhà ngoại, và cuối cùng là gia đình thầy cô. Còn đối với gia đình tôi, trước khi xuất phát đến nhà nội hay nhà ngoại, có một thủ tục trên hết mà chúng tôi cần hoàn thành, đó chính là phải viếng đủ 10 ngôi chùa để cầu bình an ngày đầu năm. 

Không rõ nét văn hóa này xuất hiện từ đâu, khi được tôi hỏi về nguồn gốc mẹ tôi cũng trả lời rất mơ hồ: “Mẹ nghe người ta nói vậy, rằng ngày mùng một nên viếng đủ 10 ngôi chùa để cầu bình an cho gia đình.” Nét văn hóa này được gọi là “Du xuân thập tự,” trong đó “du xuân” là đi chơi xuân, tham quan trong mùa xuân, còn “thập tự” chỉ việc ghé thăm 10 ngôi chùa hoặc đền (thập là mười, còn tự là chùa). Mỗi mùng một Tết, gia đình tôi giống như phải chạy đua với thời gian để có thể “nhét” đủ 10 ngôi chùa vào lịch trình du xuân — giống như đang hoàn thành KPI của sếp. 

Vốn từ lâu, người Việt cũng rất coi trọng việc đến thăm các đền thờ và chùa chiền vào đầu năm để cầu bình an, sức khỏe và tài lộc cho bản thân và gia đình. Đây cũng là dịp để tĩnh tâm, gạt bỏ lo toan và hướng đến những điều thiện lành. Ngoài việc dâng hương, cúng lễ, người Việt còn tham gia các hoạt động như xin lộc, xin chữ, hái lộc đầu xuân. 

Mỗi năm, để hoàn thành chỉ tiêu 10 chùa đó, gia đình tôi phải lên kế hoạch rất kỹ lưỡng từ những ngày cuối tháng Chạp. Công đoạn này cũng tốn nhiều công sức như thiết kế một tour du lịch 3 ngày 2 đêm. Những lúc này, tôi thường là người tính toán và sắp xếp lịch trình cho cả nhà sao cho tối ưu nhất, dù không giỏi toán lắm, nhưng bù lại, tôi có điểm mạnh là thành thạo Google nên được mẹ giao cho nhiệm vụ quan trọng này: tính toán giờ xuất phát, thứ tự từng chùa sao cho hợp lý nhất, thời gian viếng mỗi chùa, v.v. Lựa chọn danh sách các ngôi chùa thường phụ thuộc vào sở thích và vị trí của các gia đình. Gu đi chùa của mẹ tôi cũng khá đa dạng, từ cả những tu viện lớn với lịch sử lâu đời cho đến những ngôi chùa nhỏ, ít người ở khu vực gần nhà. 

Sáng mùng một, gia đình tôi sẽ xúng xính váy áo và hoàn tất mọi nghi thức ở nhà như cúng giao thừa hay chúc tết trước mốc 8 giờ sáng để xuất phát đến ngôi chùa đầu tiên, với hi vọng rằng chúng tôi sẽ không bỏ cuộc trước cái nắng gắt buổi trưa, vì hầu hết thời gian cho chuyến du xuân này được dành cho việc di chuyển từ chùa này đến chùa khác, còn việc viếng mỗi chùa thường chỉ tốn vỏn vẹn 15 phút. 

Nếu nói tôi hoàn toàn tận hưởng việc phơi mình dưới nắng khi chạy từ địa điểm này đến địa điểm khác vào mùng một thì có lẽ là nói dối, nhưng tôi cũng không quá phản đối với việc phải thực hiện truyền thống này mỗi năm, vốn cái Tết của người Sài Gòn hay ít nhất là của gia đình tôi, cũng rất đơn giản và thường ít hoạt động tụ tập họ hàng, vậy nên tôi xem đây là dịp để gắn kết và du xuân cùng bố mẹ. 

Đôi khi tôi tự hỏi rằng liệu nếu đến viếng đủ 10 ngôi chùa thì may mắn có tăng thêm gấp 10? Nhưng tôi nghĩ rằng mình sẽ không đủ khách quan để có thể đánh giá giả thuyết đó, chẳng phải chúng ta thường có xu hướng nhớ về những thứ xui xẻo hay những điều tiêu cực nhiều hơn là những sự kiện tích cực sao? 

Tuy nhiên, nếu có cơ hội tiếp tục truyền thống này đến đời con cháu của mình, tôi sẽ chia đều chỉ tiêu  chùa này cho cả ba mùng đầu năm, hoặc giảm số lượng chùa phải viếng, chỉ cần đến vài chùa lấy may. Mẹ tôi cũng thường nói: “Giàu sang tại số, phú quý tại trời,” nên có lẽ may rủi cứ để ông trời quyết định, tôi chỉ cần may mắn của mình nhân lên 5 lần là đã dư dả rất nhiều rồi. May mắn đối với tôi những ngày này chỉ đơn giản là có thể ăn mừng một cái Tết trọn vẹn cùng với gia đình và được nghỉ ngơi để chuẩn bị cho một năm mới sắp đến.

]]>
info@saigoneer.com (Phương Nghi. Graphic by Dương Trương.) Văn Hóa Sun, 26 Jan 2025 21:00:00 +0700
Lát cắt văn hóa Chợ Lớn rực rỡ qua nghi thức 'khai quang điểm nhãn' lân sư rồng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17814-lát-cắt-văn-hóa-chợ-lớn-rực-rỡ-qua-nghi-thức-khai-quang-điểm-nhãn-lân-sư-rồng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17814-lát-cắt-văn-hóa-chợ-lớn-rực-rỡ-qua-nghi-thức-khai-quang-điểm-nhãn-lân-sư-rồng

Trong cái không khí chộn rộn vào những ngày giáp Tết, có muôn con đường được khoác lên tấm áo mới rực rỡ của dịp lễ hội, dệt nên bởi những nghệ nhân biểu diễn khéo léo và tài ba.

Chẳng phải tự dưng mà người ta vẫn hay truyền miệng nhau câu nói “nơi nào có người Hoa là có múa lân sư rồng.” Được trao tặng danh hiệu Di sản phi vật thể quốc gia, khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn từ lâu được xem như cái nôi nuôi dưỡng nhiều đoàn lân sư nổi tiếng xuyên suốt hàng chục năm qua.

Sài Gòn-Chợ Lớn là nơi nuôi dưỡng nghệ thuật múa lân sư rồng.

Trong văn hóa Trung Hoa, lân, sư và rồng là những linh vật biểu trưng cho sức mạnh, trí tuệ, và may mắn. Tiếng trống rộn ràng, cùng bước nhảy uyển chuyển của lân và rồng, được tin là có thể xua đuổi vận xui và đem lại tài lộc cho gia chủ. Biểu diễn lân sư rồng, do đó, thường xuất hiện trong các ngày lễ truyền thống, khai trương, động thổ hay những dấu mốc khởi đầu quan trọng khác.

Trước thềm Xuân Tiết (tương đương với Tết Nguyên đán), dịp lễ lớn nhất trong năm của cộng đồng người Hoa, những đoàn lân sư lại càng phải tăng tốc để chuẩn bị cho một mùa hoạt động bận rộn. Những bộ trang phục được chăm chút tỉ mỉ, những buổi tập luyện diễn ra ráo riết để từng kỹ thuật, bước nhảy được sống động. Nhưng nếu muốn một màn chào quân thuận lợi, các đoàn lân sư rồng trước hết phải thực hiện nghi thức “khai quang điểm nhãn.”

Khai quang điểm nhãn là truyền thống bắt nguồn từ niềm tin xưa rằng mọi vật đều có thể sở hữu linh hồn nếu được “đánh thức” đúng cách.

Chuyện kể, Lương Võ Đế, hoàng đế thời kỳ Nam Bắc triều ở Trung Quốc, là người rất sùng mộ thần linh nên hay mời nhiều danh họa về để trang hoàng đền chùa. Một lần, tại chùa An Lạc, họa sĩ Trương Tăng Dao đã vẽ bốn con rồng trắng trên tường nhưng quả quyết không vẽ mắt. Khi người dân gặng hỏi, ông mới hé lộ lý do: “Nếu vẽ mắt, rồng sẽ bay đi.”

Nghĩ rằng chỉ là chuyện hoang đường, mọi người nài nỉ ông hoàn thành bức vẽ để kiểm chứng. Cuối cùng, Trương Tăng Dao đồng mới ý chấm mắt cho hai con rồng. Ngay lập tức, sấm sét nổi lên, tường chùa bị phá vỡ, hai con rồng sống dậy rồi cưỡi mây bay lên trời. Hai con rồng chưa được vẽ mắt thì vẫn ở nguyên trên tường bất động.

Rồng bay lên trời.

Tích truyện cổ lưu truyền từ đời này sang đời khác, theo chân những người lữ hành tha hương khám phá miền đất mới, và dần trở thành một nét bản sắc trong tín ngưỡng thờ phụng. Từ đó, các vật lễ linh thiêng như tượng, tranh và tất nhiên, lân, sư, rồng thường được người Hoa thực hiện nghi khai quang điểm nhãn, tức “khơi mở, chấm mắt.” 

Sau khi được “mở mắt sống dậy,” những linh vật lân sư rồng mới có thể xuất hành biểu diễn và đem niềm vui, may mắn đến cho mọi nhà. Còn đối với đoàn lân, nghi thức khai quang điểm nhãn như để cầu mong cho một mùa làm ăn phát đạt, thịnh vượng.

Chú rồng ngậm ngọc quý thường xuất hiện trong các công trình và sinh hoạt văn hóa Trung Hoa.
Viên ngọc mà rồng ngậm, hạt minh châu, là biểu tượng của sức mạnh siêu nhiên và tài lộc.

Trên khắp thế giới và Việt Nam, mỗi đoàn lân đều tuân theo những phong tục riêng biệt tùy vào vùng miền và lịch sử hoạt động của mình. Một số đoàn chọn ngày cố định hằng năm để làm lễ, trong khi những đoàn khác chọn ngày lành tháng tốt dựa trên nhiều yếu tố như tuổi tác, thiên can, địa chi và phong thủy. Người thực hiện nghi thức thường là trưởng đoàn, các nhà tài trợ hoặc khách mời danh dự.

Nghi thức thường gồm hai phần: tại tư gia và tại đền chùa. Trước tiên, tại tư gia, đoàn lân sẽ lập bàn cúng, bày biện lễ vật như trái cây, heo quay, để các thành viên thắp nhang kính nhớ tổ nghề. Sau đó, đoàn lân sư rồng sẽ diễu hành đến đền chùa và thực hiện nghi lễ xin phước từ thần linh.

Bàn cúng tổ nghề.

Cuối cùng, nghi thức khai quang điểm nhãn chính thức sẽ được tiến hành — tùy vào từng đoàn mà có thể tổ chức tại chùa hoặc một địa điểm riêng biệt. Trong nghi lễ này, người chủ trì sẽ dùng cọ chấm châu sa hoặc mực đỏ, lần lượt điểm vào các bộ phận trên thân lân: mắt, trán, miệng và tai. Mỗi điểm chạm mang một ý nghĩa riêng: khai mắt để thấy rõ phúc lành, khai trán để đón nhận trí tuệ, khai miệng để cầu lời chúc phúc, và khai tai để nghe thấu lòng dân.

Cũng như nhiều đoàn lân khác, những ngày này, Tinh Anh Đường cũng tất bật sửa soạn cho dịp lễ sắp tới. Vào một ngày tháng Chạp âm lịch, các vũ sư, bằng hữu thân tín, cũng như những vị khách tứ xứ yêu thích nghệ thuật lân sư rồng đã tề tựu tại tư gia của đoàn để tham dự nghi lễ khai quang điểm nhãn. Theo lời kể của một vũ sư, đoàn Tinh Anh Đường được ông Triệu Di Văn thành lập vào năm 1954. Năm 2003, ông qua đời, để lại cho con trai là ông Triệu Di Tài kế thừa và phát huy truyền thống của đoàn cho đến ngày nay.

Tư gia của Tinh Anh Đường tại Quận 11.

Dịp khai quang lần này cũng đặc biệt hơn khi trùng với sự kiện kỷ niệm hơn 70 năm thành lập của đoàn Tinh Anh Đường. Theo chân hơn 80 vũ sư lân sư rồng, hãy cùng Saigoneer dạo bước qua phố phường Chợ Lớn và khám phá một lát cắt thú vị của đời sống người Hoa qua loạt ảnh sau:

Các vũ sư háo hức trong ngày trọng đại.

Trống cái và chập cheng được dùng để tạo bầu không khí sôi động.

Bắt đầu buổi lễ, các vũ sư sẽ lần lượt vào thắp nhang, sau đó mặc trang phục lân sư rồng vào để bái tổ.

Sau đó tất cả sẽ cùng đồng loạt lạy tổ.

Từ tư gia, đoàn lân sư rồng sẽ diễu hành đến Chùa Bà Thiên Hậu.

Đoàn diễu hành thu hút nhiều sự chú ý của người đi đường. Nhiều phụ huynh đã dắt con em mình đi theo đoàn.

Quãng đường diễu hành dài gần 2km nên các vũ sư không khỏi nhễ nhại mồ hôi.

Rồng khi đi đường bộ vẫn phải dừng đèn đỏ.

Người Hoa tin rằng trước các sự kiện lớn như khai trương hay động thổ, họ nên đến chùa Bà Thiên Hậu, vị thần bảo hộ biển cả, để cầu bình an.

Trang phục múa lân được xếp ngay ngắn trong lúc chờ đợi.

Từng tốp lân sư rồng sẽ vào chánh điện để làm lễ.

Các vũ sư chuẩn bị những lá bùa ghi những ký tự may mắn.

Một số sư phụ được mời từ các đoàn lân sư rồng ở Singapore, Malaysia, v.v. để chủ trì nghi thức.

Bùa được dán lên lân sư rồng.

Sau khi cầu may, nghi thức khai quang điểm nhãn của Tinh Anh Đường sẽ được hoàn thành tại tiệc riêng của đoàn.

]]>
info@saigoneer.com (Uyên Đỗ. Ảnh: Uyên Đỗ.) Văn Hóa Fri, 17 Jan 2025 12:10:36 +0700
Trăm năm lịch sử Việt Nam kể qua câu chuyện xổ số kiến thiết https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17795-trăm-năm-lịch-sử-việt-nam-kể-qua-câu-chuyện-xổ-số-kiến-thiết https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17795-trăm-năm-lịch-sử-việt-nam-kể-qua-câu-chuyện-xổ-số-kiến-thiết

Trải qua gần một thế kỷ tồn tại, những mẫu giấy và dãy số may rủi vẫn đóng một vai trò đặc biệt trong đời sống người Việt: vừa là chiếc phao níu giữ ước mơ “đổi vận” của người dân, vừa là tấm gương phản ánh thực tế xã hội đương thời.

“Cô ơi, cậu ơi, ủng hộ giúp tôi một tờ.”

Vang lên từ thành thị đến miền quê, từ trong con hẻm đến quán nhỏ bên hiên chợ, lời rao đơn giản ấy từ lâu trở thành thứ trải nghiệm gắn liền với những sinh hoạt đường phố. Chẳng khó để bắt gặp cảnh người lao động vừa ngồi nhâm nhi cà phê sáng, vừa lựa vài tấm vé số ưng ý để “dằn túi” tựa một thói quen bắt đầu ngày mới; hay cảnh người đi đường háo hức tụ tập trước cửa đại lý để chờ xem kết quả xổ số giờ tan tầm.

Nguồn ảnh: Báo Tuổi Trẻ Thủ Đô.

Dù tỉ lệ trúng thưởng độc đắc nhỏ chỉ là một trên hàng triệu, xổ số kiến thiết vẫn mang sức hút khó cưỡng với một bộ phận lớn người dân. Mỗi ngày, doanh số bán vé mang về cho nền kinh tế nước nhà đến hàng trăm tỷ đồng, vượt cả những ngành hàng xa xỉ. Có lẽ vì xổ số là cuộc chơi nơi “chúng sinh bình đẳng” — không phân biệt người mua giàu, nghèo, cùng lời hứa hẹn “sang trang cuộc đời” mà người ta lại lan truyền những câu cửa miệng như “không cần trình độ, chỉ cần trời độ” hay “kiếm tiền tỷ không khó, năm giờ chiều là có” mỗi độ chiều chiều.

Nhân dịp những ngày Tết cận kề, tay vừa mua một tờ vé số cầu may, tôi viết bài viết này để nhìn lại hành trình của xổ số tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ đầy “hỷ nổ ái ố” của nó với người Việt trong những thập kỷ qua.

Lịch sử xổ số Việt Nam 

Khái niệm về xổ số hiện đại lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Khi đó, các tổ chức như trường học hay nhà thờ cần xin phép chính quyền để phát hành các đợt vé xổ số nhỏ lẻ nhằm gây quỹ cho hoạt động của mình.

Quảng cáo xổ số của viện Đông Dương học xá trên báo Hà thành Ngọ báo (1933)
Nguồn ảnh: Thư viện Quốc gia Việt Nam.

Chẳng hạn, trong quá trình trùng tu nhà thờ lớn Hà Nội bằng gạch, Tổng Giám mục đã đề nghị chính quyền bảo hộ Pháp cho phép tổ chức xổ số để huy động kinh phí. Sau hai lần bị từ chối, ông mới được chấp thuận và lần lượt mở hai đợt xổ số vào các năm 1883 và 1886, thu về khoảng 30.000 franc Pháp.

Đến năm 1902, tại Hội đấu xảo Hà Nội được tổ chức ở Cung đấu xảo, ban tổ chức lần đầu thử nghiệm hình thức xổ số vui chơi có thưởng. Kể từ đó, trong các kỳ đấu xảo những năm sau, việc phát hành xổ số trở thành hoạt động thường kỳ, số tiền thu được được sử dụng cho các mục đích xã hội.

Quảng cáo xổ số Đông Dương ở Hà Nội. Nguồn ảnh: trang Facebook France Indochine.

Xổ số chỉ thực sự được tổ chức trên quy mô lớn từ năm 1935 với sự ra đời của Loterie Indochinoise (vé số Đông Dương) do chính quyền Pháp phát hành trên ba lãnh thổ: Việt Nam, Campuchia và Lào. Là thủ đô của Liên bang Đông Dương, Hà Nội được chọn làm nơi quay số mở thưởng. Ban đầu, xổ số được tổ chức hạn chế, mỗi năm chỉ diễn ra một lần, với giá vé là 1 đồng bạc Đông Dương. Giải thưởng cao nhất lên đến 1 vạn đồng bạc, một số tiền rất lớn vào thời điểm đó, cùng với các giải phụ dành cho những người trúng thưởng.

Xổ số Đông Dương. Nguồn ảnh: trang Facebook France Indochine.

Do được phát hành trên phạm vi xuyên biên giới, thông tin trên vé được trình bày bằng nhiều ngôn ngữ, bao gồm tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Hoa và tiếng Khmer. Thiết kế trên vé thường mang hình ảnh các công trình kiến trúc đặc trưng hoặc nhân vật văn hóa tiêu biểu của các nước thuộc địa. Nhờ sức mua gia tăng đáng kể, tần suất phát hành sau đó được nâng lên bốn lần mỗi năm, cho đến khi chấm dứt vào năm 1944 do bối cảnh chính trị bất ổn dưới thời phát xít Nhật.

Mặt sau của một tờ vé số Đông Dương. Ảnh: Báo Tuổi Trẻ Thủ Đô.

Sau năm 1945, đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế chính trị, nhưng xổ số vẫn tồn tại như một điểm giao thoa kỳ lạ. Dù cơ cấu giải thưởng và cách thức tổ chức khác nhau, cả miền Nam và miền Bắc đều sử dụng vé số như một công cụ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong những bối cảnh kinh tế, xã hội riêng biệt. Cũng chính từ đây mà khái niệm “xổ số kiến thiết,” tức xổ số nhằm mục đích phục vụ lợi ích cộng đồng, ra đời.

Thư từ dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại được đóng dấu kêu gọi mua xổ số. Nguồn ảnh: Society of Indo-China Philatelists.

Tại miền Nam, vé số xuất hiện trở lại vào năm 1951, dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Ban đầu, loại hình này phục vụ chủ yếu cho tầng lớp thượng lưu. Vé được phát hành mỗi quý một lần với giá 10 đồng, giải thưởng độc đắc lên đến 1 triệu đồng. Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, xổ số trở nên phổ biến hơn, không còn giới hạn trong một nhóm nhỏ mà mở rộng ra các tầng lớp khác.

Xổ sổ miền Nam dưới thời Ngô Đình Diệm. Nguồn ảnh: chuyenxua.net

Để khuyến khích người dân tham gia, chính quyền miền Nam đã áp dụng nhiều biện pháp từ sáng tác nhạc cổ động, đến cho phép dùng vé số để thay tiền phạt hành chính. Mỗi tuần, sự kiện quay số còn được tổ chức trang trọng tại rạp hát Norodom, có các tiết mục tân nhạc và sự góp mặt của những ca sĩ nổi tiếng.

Ca khúc "Xổ số kiến thiết quốc gia" của nghệ sĩ Trần Văn Trạch.

Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, xổ số phải cạnh tranh với những trò chơi cá cược như số đề — vốn thu hút người nghèo nhờ mức đặt cược thấp, chỉ từ 1-2 đồng, và thời gian biết kết quả nhanh chóng.

Đến năm 1955, khi hai tụ điểm cá cược lớn là sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới bị đóng cửa, người dân không còn lựa chọn khác để tìm vận may. Từ đó, vé số bán chạy đến mức xuất hiện tình trạng đầu cơ, buôn bán chợ đen. Một tờ vé số chính thức có giá 10 đồng, nhưng trong những năm khan hiếm như 1963, người dân đã phải mua với giá chợ đen lên tới 13 đồng. Ngoài ra, vé số Tombola — do các trường học, tổ chức tôn giáo và tư nhân phát hành — cũng khá phổ biến với giải thưởng thường là hiện vật như xe đạp, máy may, hoặc nhu yếu phẩm thiết thực.

Nguồn ảnh: trang Facebook Lớp Học Vui Vẻ.

Trái ngược với mô hình xen lẫn tính giải trí như ở miền Nam, xổ số miền Bắc ra đời năm 1962 với chủ trương rất rõ ràng từ trung ương: xây dựng cơ sở hạ tầng miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam. Giá vé ở mức 2 hào với các giải thưởng có giá trị cao như xe máy Simson hay xe đạp Phượng Hoàng — những tài sản đáng mơ ước với người dân thời “bao cấp.”

Bố cục của vé số miền Bắc ở giai đoạn này chịu ảnh hưởng của vé số Liên Xô. Nguồn ảnh: Báo Tiền Phong.

Hoạt động phân phối vé số ở miền Bắc không dựa vào thị trường tự do, mà được tổ chức theo cách thức tập trung hơn. Vé được bán tại quầy đại lý và còn được phân phối trực tiếp đến các cơ quan, xí nghiệp để cán bộ, công nhân viên mua. Công tác quay thưởng diễn ra tại câu lạc bộ Đoàn Kết dưới sự giám sát của cả cơ quan chức năng.

Một cựu binh chia sẻ về cơn sốt vé số ở thủ đô lúc bấy giờ: “Đầu tiên là việc đi nhặt xổ số mỗi buổi chiều, nơi quay xổ số ngày ấy ở gần nhà hát lớn Hà Nội, độc đắc đâu thì không thấy, chỉ thấy vé số không trúng thưởng bay đầy vỉa hè tựa như lá sấu chiều mưa. Và chúng tôi thi nhau nhặt, mỗi ngày mỗi đứa cũng nhặt được chừng vài trăm tờ. Khi lượng vé số đã lên tới vài cân thì cũng vào khoảng gần ngày ông Táo về trời [...]” Dân chúng cuồng xổ số đến mức những ai không có tiền mua cũng ra nhặt vé như một biểu hiện của “hội chứng sợ bỏ lỡ.”

Bộ phim Người Cầu May châm biến thực trạng "nghiện" vé số lúc bấy giờ.

Triển khai nghiêm ngặt nhưng hệ thống xổ số miền Bắc cũng kéo theo một số hệ lụy tiêu cực như ở miền Nam. Trong bối cảnh kinh tế trình trệ, mọi mặt hàng đều được kiểm soát chặt chẽ bằng tem phiếu, xổ số nổi lên như một trong số ít loại hình tiêu dùng tự do — sự tự do ấy khiến một bộ phận người dân xem đây là "tấm vé" thoát nghèo và biến nhiều người con bạc bất đắc dĩ.

Bộ phim Người Cầu May của đạo diễn Tự Huy châm biếm hiện thực này qua nhân vật Khiển, một cán bộ về hưu mơ ước trúng xổ số độc đắc. Càng chơi, ông càng thua lỗ, nhưng vẫn không ngừng ám ảnh với những con số, đến mức đuổi theo đoàn xe đám ma để tìm cho đúng con số trời cho.

Xổ số nói gì về xã hội chúng ta?

Hậu thống nhất, hệ thống xổ số kiến thiết cả nước cũng được gộp chung lại thành một, với ba đơn vị chính đại diện cho ba miền Bắc-Trung-Nam. Từ đó đến nay, cục diện xổ số Việt Nam đã có nhiều thay đổi để đồng hành với những biến chuyển của xã hội.

Hãy thử quay về thập niên 80, khi ảnh hưởng từ giai đoạn cấm vận khiến việc mua sắm hàng hóa nhập khẩu là một điều vô cùng xa xỉ. Do đó, các đơn vị xổ số đã tạo thêm điều khoản “đặc quyền” dành cho ai trúng giải đặc biệt: họ được mua các mặt hàng ngoại nhập như tivi cát-sét, tủ lạnh,... với giá ưu đãi thấp hơn giá thị trường. Một giải thưởng cực kỳ được săn đón ngày ấy là chiếc xe Honda Super Cub 90, có giá trị lên đến 10 cây vàng, tương đương một căn hộ tập thể rộng 24m² ở Hà Nội thời bấy giờ. Được in lên các tờ vé số để thu hút người mua, chiếc xe này từ đó được toàn dân gọi là xe Honda DD, tức Honda “độc đắc.”

Xổ số với giải thưởng là hàng ngoại nhập (1987). Nguồn ảnh: Báo Giao Thông.

Thật khó có thể tượng tưởng một cơ cấu giải thưởng như vậy trong bối cảnh thương mại hiện tại, bởi chiếc xe máy cao cấp nhất cũng không thể nào so bì được với giá tiền của một căn hộ phố. Bây giờ, vé số được phát hành nhiều hơn, thường xuyên hơn, giải thưởng được ấn định bằng giá trị tiền mặt, người ta cũng không cần phải ngồi canh tivi, loa đài mà có thể dễ dàng lướt điện thoại để biết kết quả xổ sổ bất cứ lúc nào.

Nhìn lại, có lẽ thứ duy nhất chẳng thay đổi mấy là chính là mối quan hệ phức tạp của người Việt với xổ số. Thời nào cũng vậy, những tấm vé nhỏ bé là con dao hai lưỡi — không ít trường hợp dành dụm cả gia sản mua vé sổ để rồi lâm vào cảnh nợ nần, gia đình tan nát; song chúng cũng mang theo hy vọng, niềm tin về một tương lai tương sáng hơn cho cả người bán lẫn người mua.

Một tờ vé số đặc biệt được in vài ngày trước ngày thống nhất đất nước.
Kỳ xổ số này không bao giờ được quay mở. Nguồn ảnh: Báo Tuổi Trẻ.

Nhưng lớn hơn cả vận mệnh của mỗi cá nhân, tôi cho rằng vai trò bất ngờ nhất của xổ số chính là trở thành một phương tiện ghi dấu dòng chảy lịch sử đất nước — một lát cắt của đời sống, một hơi thở của thời đại, gói ghém vừa vặn trong một mảnh giấy, gói ghém vừa vặn trong một mảnh giấy giờ đây gấp gọn trong túi áo mỗi người.

]]>
info@saigoneer.com (Uyên Đỗ. Ảnh bìa: Ngọc Tạ.) Văn Hóa Fri, 20 Dec 2024 16:35:36 +0700
Đặc sắc lễ hội đua ghe ngo — hơi thở tâm linh của cộng đồng Khmer Sóc Trăng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17778-ghe-ngo-hơi-thở-tâm-linh-xứ-chùa-vàng-sóc-trăng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17778-ghe-ngo-hơi-thở-tâm-linh-xứ-chùa-vàng-sóc-trăng

Đến với Sóc Trăng vào một ngày tháng 10 oi nóng, chúng tôi còn đang phân vân không biết khám phá gì tại xứ sở chùa vàng của Việt Nam, thì anh chủ homestay nhiệt tình rủ đi giải nhiệt bên dòng sông Maspéro. Và từ đó, chúng tôi được hòa mình vào một nhịp sống đặc biệt chỉ diễn ra một lần trong năm của vùng đất này: đua ghe ngo.

Trong phố…

Khoảng 5h chiều bên bờ sông Maspéro, không khí bỗng trở nên nhộn nhịp khi những thanh niên từ khắp nơi tụ về. Họ í ới gọi nhau bằng tiếng Khmer — thứ ngôn ngữ xa lạ với tôi và hai người bạn nhiếp ảnh gia người Đức. Đây là các vận động viên của chùa Sangker, những người sẽ tham gia tranh tài trong cuộc đua ghe ngo sắp tới.

5h chiều bên sông Maspéro.

Lễ hội đua ghe ngo có nguồn gốc từ hoạt động quân sự ở xứ Ba Sắc (nay là Sóc Trăng) vào năm 1528. Lúc đó, một vị lãnh chúa đã thành lập ba đội quân thủy chiến để diễn tập vào dịp lễ cúng trăng, trong đó có hai đội sử dụng thuyền giống ghe ngo ngày nay. Ban đầu, các cuộc diễn tập này nhằm bảo vệ vùng đất, nhưng sau thời gian, khi đất nước yên bình, hoạt động quân sự này chuyển thành một hoạt động văn hóa cộng đồng.

Đến năm 1888, chính quyền đã chính thức khôi phục hoạt động này và tổ chức vào dịp lễ Óoc Om Bóc — lễ cúng trăng của người Khmer. Sau mỗi vụ thu hoạch lúa, người Khmer tổ chức lễ tạ ơn các vị thần như thần mặt trăng, thần đất, thần nước vì đã giúp đỡ mùa màng bội thu. Theo thời gian, lễ đua ghe ngo đã trở thành một phần quan trọng trong lễ hội Óoc Om Bóc, vừa mang giá trị tỏ lòng biết ơn đến thiên nhiên vừa là dịp để mọi người tề tựu, vui chơi.

Toàn đội hình xếp thành 2 hàng, mỗi hàng 50 người và cùng nhau khởi động trước khi xuống ghe.

Sau nửa giờ tập trung, đội hình hơn 100 người bắt đầu khởi động theo tiếng còi nhịp nhàng, tất cả đều nghiêm túc trong trang phục đồng nhất in tên chùa mà mình đại diện. Mỗi buổi tập chia thành hai nhóm luân phiên, với mỗi thuyền chứa khoảng 50 tay chèo, thực hiện 8–10 vòng xuôi ngược. Bên cạnh đội chính còn có đội hậu cần lo việc chuẩn bị bữa tối, may đồng phục, tiếp nước và chăm sóc y tế.

Mỗi chiếc ghe được lắp đặt 24 đến 27 thanh ngang, mỗi thanh vừa cho hai người ngồi, tổng thể có thể chứa từ 40 đến 60 người chèo và chỉ huy. Điểm đặc biệt là luôn có ba vị trí điều khiển chính: người ngồi mũi phụ trách phần tâm linh và chỉ đạo kỹ thuật tổng thể, người ngồi giữa và cuối ghe có nhiệm vụ thổi còi điều chỉnh nhịp bơi.

Khi con nước lên cũng chính là lúc ghe ngo thuận dòng được mang đến đúng vị trí đội hình luyện tập. Một nhà sư bắc loa lên điểm danh từng tay chèo sẽ xuống ghe cho đợt luyện tập đầu tiên. Không ai bảo ai, người sắp xếp mái chèo, người bắc thang, tay này dìu dắt tay kia xuống ghe.

Khi ghe đến, nhóm đầu tiên sẽ xuống và luyện tập trước trong nhóm còn lại dõi theo cổ vũ trên bờ.

Khoảnh khắc tiếng còi vang lên, mái chèo đồng loạt đập xuống mặt nước, tạo nên những đợt sóng bọt trắng xóa đập vào mạn thuyền. Trên bờ, đội cổ vũ đánh trống không ngừng, hòa quyện với tiếng reo hò của đám trẻ và tiếng hô nhịp của người chỉ huy trên ghe. Các đội thuộc những ngôi chùa trong trung tâm thành phố có được lợi thế đặc biệt khi được luyện tập ngay trên dòng sông Maspéro — nơi sẽ diễn ra cuộc đua chính thức. Nhờ đó, họ có thể cảm nhận được nhịp độ dòng chảy để phân bố lực một cách hiệu quả.

Đoàn ghe từ xa nhìn như một con rắn khổng lồ trên mặt nước.

Các vị sư là những thủ lĩnh tinh thần của từng đội đua.

Cứ thế, họ mải miết đi từ đầu sông đến cuối sông rồi quay đầu, mỗi lượt đi-về sẽ nghỉ ngơi độ chừng 5–10 phút sau đó lại tiếp tục lượt đi-về mới; đội hình đầu tiên sẽ luyện tập trong tầm 2–3 lượt và sau đó lên bờ thay phiên cho đội hình thứ 2. Khi trời sập tối cũng chính là lúc các tay chèo lên bờ và cùng nhau dùng bữa. Bữa ăn cũng chỉ đạm bạc có hôm là mì gói và trứng, hôm thì cháo trắng và muối giản đơn. Theo Hoàng Tín, một tay chèo trẻ chia sẻ: “Tuy ăn đạm bạc vì điều kiện kinh tế có hạn nhưng chưa bữa ăn nào không vui vì tinh thần.” Dùng bữa xong, từng người một ra về với lời í ới hẹn nhau ngày mai lại luyện tập.

Tiếng trống và hò reo cổ vũ vang không ngớt từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc luyện tập.

Nụ cười sảng khoái sau một ngày luyện tập hết mình của các tay chèo.

Tò mò về những chiếc ghe ngo rực rỡ sắc màu và muốn tìm hiểu cách luyện tập của các đội ở xa sông nước, chúng tôi quyết định đến thăm huyện Châu Thành, cách trung tâm thành phố khoảng nửa giờ đi xe.

Ngoài huyện…

Sau một ngày tản mạn trong các phum sóc (xóm, làng) trải nghiệm đời sống dân dã của bà con Khmer, đúng 5h chiều, chúng tôi bị cuốn theo dòng người đến chùa Phnoroka để tập đua ghe. Vừa bước đến cổng chùa, phía bên tay phải của chúng tôi là một nhà xưởng rộng rãi với 2 chiếc ghe, 1 đã hoàn thiện và 1 đang dở dang.

May mắn thay, chúng tôi được chứng kiến những công đoạn cuối cùng trong việc đóng một chiếc ghe ngo mới. Theo các thợ mộc giàu kinh nghiệm, ghe ngo ngày xưa được làm từ một thân cây khoét ruột nguyên khối. Nhưng ngày nay, do khó tìm được những thân cây sao đủ to và dài, người Khmer đã chuyển sang kỹ thuật ghép ván, một phương pháp đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mỉ không kém.

Bên trong xưởng làm ghe ngo của chùa Phnoroka.

Chiếc ghe ngo không đơn thuần là một phương tiện đua tài, mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và danh dự. Mỗi chiếc ghe đại diện cho một ngôi chùa và cả cộng đồng phum sóc (xóm, làng) người Khmer. Vì thế, mỗi cuộc đua không chỉ là cuộc tranh tài giữa các tay chèo, mà còn là sự so tài giữa các ngôi chùa, là nơi gửi gắm niềm tin và hy vọng của cả một vùng đất. Chiến thắng của ghe ngo không chỉ mang lại vinh quang cho đội đua mà còn làm rạng danh cả một cộng đồng.

Loanh quanh trong xưởng một lúc lâu, chúng tôi hỏi người dân xung quanh rằng gần đây không có sông thì làm sao có thể luyện tập. Ngay lập tức, họ dắt chúng tôi men theo một lối nhỏ bên hông xưởng để vòng ra sau chùa. Một hồ nước lớn hiện ra với 2 bộ khung ghe như bộ khung xương của một loài cá lớn đang nằm im lìm trên mặt nước. Nếu không thể luyện tập trên một dòng sông thì đây là một giải pháp thay thế.

Họ là những vận động viên nghiệp dư nhưng đầy kỷ luật khi không bao giờ bỏ qua phần khởi động.

Các tay chèo lần lượt ngồi vào vị trí và tiến hành chèo theo động lệnh. Khác với ngày hôm qua khi xem luyện tập trên sông Maspéro, hôm nay chúng tôi có dịp chứng kiến tận mắt từng động tác, cơ bắp của họ được hiển lộ, mồ hôi hòa lẫn với bọt nước trắng tung tóe nhưng không một ai than vãn hoặc rời vị trí. Nhìn cách mà mỗi người nỗ lực đến tiếng còi cuối cùng cũng đủ cho chúng tôi hiểu ý chí, lòng quyết tâm cao độ vì “màu cờ sắc áo” của họ.

Người chỉ huy nhịp nhàng thổi còi hiệu, tay không ngừng cử động nhịp nhàng để bắt nhịp cho các tay chèo.

Thế giới tâm linh của ghe ngo

Việc chọn biểu tượng ghe ngo cũng liên quan đến địa danh, hay quan niệm truyền thống của mỗi chùa. Mỗi chiếc ghe là một tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa và tâm linh. Biểu tượng trang trí trên ghe không chỉ thể hiện bản sắc của từng ngôi chùa mà còn ẩn chứa những ý nghĩa thiêng liêng. Thường thấy nhất là hình tượng những loài vật biểu trưng cho sức mạnh và tốc độ: rắn thần Naga uyển chuyển lượn sóng hai bên thân ghe, Rồng (Neak) oai nghiêm, Hổ (Khla) dũng mãnh, Voi (Đom Rây) hùng tráng, hay Sư tử (Reach Cha Sây) uy vệ. Đặc biệt, mỗi chiếc ghe còn được bảo hộ bởi các vị thần như Srey Khmav, Konseng Sorya, Kontong Khiev.

Đội của chùa Phnoroka chọn bạch hổ làm linh vật cho ghe của mình.

Để tạo nên một chiếc ghe ngo vừa bền vững vừa nhanh nhẹn, người Khmer khéo léo ghép từng mảnh ván và gia cố bằng “cây cần câu” — một hoặc hai cây gỗ sao cứng cáp đường kính khoảng 0,2m được cột chặt vào giữa ghe. Những cây gỗ này không chỉ đóng vai trò như đòn bẩy giúp ghe lướt nhanh mà còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Việc lắp đặt chúng phải được thực hiện vào giờ lành, bởi những người thợ khỏe mạnh, đạo đức và am hiểu về ghe ngo. Thông thường việc nối hai cây này vào ghe được tiến hành vào giờ tốt, có thể cùng ngày với lễ xuống ghe (hạ thủy), người nối cũng phải là người khỏe mạnh, có đạo đức và sự am hiểu về văn hóa.

Điểm nhấn ấn tượng nhất trên mỗi chiếc ghe là đôi mắt được chạm nổi bằng gỗ ở hai bên đầu ghe. Theo Lĩnh Nam chích quái, đôi mắt này không chỉ để xua đuổi thủy quái, mà còn giúp ghe “nhìn thấy đường” và tránh được hiểm nguy. Nghệ thuật tạo hình này, tương tự như trên những chiếc ghe trong lễ hội nước ở hồ Tonlé Sap (Campuchia), làm cho ghe ngo trở nên sinh động và linh thiêng.

Mâm lễ vật dâng thần linh.

Lễ hạ thủy là nghi thức quan trọng đánh dấu sự ra đời của một chiếc ghe ngo. Trung tâm của buổi lễ là Slath thor, vật phẩm cúng được làm từ quả dừa (Slath thor Đôn) hoặc thân cây chuối (Slathor Chek), được cắm nhang và nến. Thầy cúng cẩn thận đặt Slath thor dọc hai bên ghe, tại vị trí của các tay chèo. Những mâm lễ vật gồm bánh trái, đầu heo hoặc gà vịt được trang trọng bày biện ở đầu ghe, giữa ghe và mũi ghe. Khi giờ lành điểm, vị sư cả hoặc người đứng đầu ban quản trị chùa sẽ chủ trì buổi lễ, thành tâm khấn nguyện các vị thần bảo hộ. Trong không khí trang nghiêm, vị sư cả cầm bình bát nước thơm từ sáp hoa, đi một vòng quanh ghe vẩy nước thanh tịnh, cầu bình an và sức mạnh cho các tay chèo đang đứng vòng quanh.

Tiếp đến là nghi thức cúng đầu ghe với phần trình diễn âm nhạc đặc sắc. Dàn nhạc lễ gồm 5–7 người, sử dụng các nhạc cụ truyền thống như Khưm, Cha pây Đon veng, sáo, trống dặm, đàn cò, đàn nhị và cồng. Ba đến năm bản nhạc cúng được trình tấu trước khi bước vào phần hát lễ. Các bài hát được thực hiện theo trình tự nghiêm ngặt: Sene Kru (cúng bề trên), Chom riêng berk both Tuk Ngua (khúc mở đầu) và Run Tua (hát theo dàn), với lời ca phù hợp với biểu tượng thiêng của từng phum sóc.

Chi tiết hoa văn độc đáo trên ghe ngo. Ảnh: Trần Trung Nhân qua báo Thanh Niên.

Trong quan niệm của người Khmer, mỗi chiếc ghe đều có vị thần hộ mệnh riêng, không chỉ định đoạt sức mạnh của ghe mà còn bảo vệ an toàn cho các tay chèo. Niềm tin này thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người với thế giới tâm linh trong văn hóa Khmer. Ghe ngo, vì thế, trở thành vật thiêng chỉ dùng trong thi đấu, và mọi hoạt động liên quan đều phải được thực hiện theo nghi lễ cầu xin phù hợp — từ lễ xin cây trong rừng, lễ khởi công cho đến lễ khánh thành và đưa ghe về nhà ghe.

Và rồi, cuộc đua bắt đầu và tìm ra người chiến thắng trong vài giờ ngắn ngủi thế nhưng cái bầu không khí nôn nao từ vài tháng chuẩn bị trước đó mới khiến cho vùng đất này càng thêm sống động. Chúng tôi đến Sóc Trăng với tâm thế của những người lữ khách không định hướng, nhưng ra về với sự vấn vương dang dở và lời hứa hẹn quay lại vào mỗi độ tháng Mười. Khi những cơn mưa cuối mùa nhường chỗ cho nắng hanh vàng, khi vầng trăng dần tròn đầy và nước sông dâng cao, cũng là lúc cả vùng đất này sống trong sự phấn khích từ những xóm làng nhỏ bé đến phố thị nhộn nhịp. Tất cả hoà chung một nhịp đập, hướng về dòng sông thiêng nơi từng chiếc ghe chở hy vọng và niềm tin của bà con Khmer sẽ tề tựu.

]]>
info@saigoneer.com (Dương Nhi. Ảnh: Tobias Loehr.) Văn Hóa Tue, 03 Dec 2024 16:41:26 +0700
Lắng nghe hồn quê Nam Bộ qua điệu đờn ca tài tử miệt vườn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17775-lắng-nghe-hồn-quê-nam-bộ-qua-điệu-đờn-ca-tài-tử-miệt-vườn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17775-lắng-nghe-hồn-quê-nam-bộ-qua-điệu-đờn-ca-tài-tử-miệt-vườn

“Không phải là điều gì xa lạ nhưng cũng vài năm không nghe lại, giờ vô tình bắt gặp cảnh quê làm tôi thấy mê cái điệu đờn ca tài tử của miền Tây mình vô cùng.”

Đó là một buổi chiều tà, tía chèo xuồng chở tôi đi thăm ruộng dừa ở phía bên kia sông, nằm khuất trong mấy con rạch nhỏ. Thỉnh thoảng cha tôi vẫn thích chèo ghe thay vì đi xe, dù giao thông đã thuận lợi hơn hồi đó rất nhiều, vì cảnh sông nước hữu tình mà bình yên lắm. Vô tình, dưới hàng bần xanh xen trong đám dừa nước cạnh bờ sông, chúng tôi bắt gặp cảnh đờn ca tài tử trên ghe. Những con người đậm chất Nam Bộ nhâm nhi ly rượu đế giữa miệt sông nước, với những món dân dã; rồi ca mấy bài ca đã quen, đã thuộc nằm lòng, làm tôi thấy khoái cái điệu hò, điệu đờn của thú vui này lắm.

Thế là tôi, một đứa con của miền Tây sông nước, chắc đã nghe đờn ca tài tử từ trong bụng mẹ, giờ phải hỏi thăm, phải nghe kể nhiều chuyện từ những người lớn để hiểu về loại hình văn nghệ độc đáo này.

Đờn ca tài tử trong lối sống Nam Bộ. Nguồn ảnh: Thông tấn xã Việt Nam.

Lâu thật lâu hồi đó, đờn ca tài tử ra đời

Đờn ca tài tử là một loại hình nghệ thuật đặc trưng của miệt vườn sông nước phương Nam, ra đời vào cuối thế kỷ XIX, được giới bình dân tìm tòi sáng tác và trình diễn sau những giờ lao động vất vả.

Theo những thông tin từ thuở sơ khai được bà con đất phương Nam kể lại, đờn ca tài tử bắt nguồn từ nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và âm nhạc của các tỉnh Nam Trung Bộ. Các nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn khi phong trào Cần Vương tiến vào Nam đã đem truyền thống ca Huế vào vùng Nam Bộ. Từ đó, những “ngón đờn” điêu luyện của nghệ nhân đã ăn sâu vào máu thịt người dân nơi đây.

Âm sắc của đờn ca tài tử mang nét đặc trưng riêng, không hòa lẫn với bất kỳ loại hình âm nhạc nào khác. Đi kèm với đó là ngôn ngữ dân dã, thấm đượm sắc thái địa phương, góp phần nghệ thuật hóa nét mộc mạc, giản dị của tiếng Nam Bộ, làm bật lên vẻ trữ tình độc đáo. Thời kỳ sơ khai, đờn ca tài tử chủ yếu được trình diễn bởi ban nhạc gồm bộ tứ tuyệt, bao gồm bốn loại đàn: đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu. Tuy nhiên, về sau, với sự cách tân, bộ tứ này không còn luôn xuất hiện cùng nhau trong mọi buổi diễn. Tùy vào hoàn cảnh, số lượng nhạc cụ có thể được điều chỉnh, và đàn bầu đôi khi được thay thế bằng guitar phím lõm.

Một ban nhạc đờn ca tài tử Sài Gòn năm 1911. Nguồn ảnh: Wikipedia.

Đến đầu thế kỷ XX, đờn ca tài tử trở thành một phong trào ca nhạc phổ thông tại miền Nam, nhất là tại các địa phương như: Bạc Liêu, Vĩnh Long, Long An, Mỹ Tho, Sài Gòn, v.v. Bạc Liêu là một trong những cái nôi lớn của đờn ca tài tử Nam Bộ. Đến thập niên cuối thế kỷ XIX, ông Lê Tài Khí, với tên thường gọi Nhạc Khị, là người đầu tiên đứng ra thành lập Ban cổ nhạc Bạc Liêu.

Ông đã ra công hiệu đính, hệ thống hai mươi bản tổ, phân chia các bản nhạc cổ của đờn ca tài tử làm bốn loại: Sáu Bắc, Ba Nam, Bốn Oán, Bảy Bài. Ông còn sáng tác những bản mới, bốn bản: ‘Ngự giá đăng lâu,’ ‘Minh hoàng thưởng nguyệt,’ ‘Phò mã giao duyên,’ và ‘Ái tử kê’ của ông đã được giới cổ nhạc tôn xưng là Tứ Bửu (bốn món báu vật) của đờn ca tài tử.

‘Dạ cổ hoài lang’ của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, thể hiện bởi nhạc sư Ba Tu và nghệ sĩ Bích Phượng.

Trong rất nhiều loạt bản nhạc khác nhau, ‘Dạ cổ hoài lang’ của Cao Văn Lầu như một điểm sáng trứ danh. Như nhà nghiên cứu Phan Thanh Nhàn đã nói: “Nó đã đi vào cuộc sống nhân quần như một tất yếu của nghệ thuật. Nó trong sáng, bình dị lạ thường. Nó đã và đang xâm thực vào hồn người và ở đó nó đã mọc rễ... Ở thế kỷ này, nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã dành cho thế hệ người Việt đương đại ‘Dạ cổ hoài lang.’ Khúc nhạc ấy đã cắm một cột mốc vào lịch sử và phát sáng như một ngôi sao trên bầu trời âm nhạc Việt Nam.” Từ miệt vườn cây trái hay đồng nước mênh mông, người Nam bộ từ trẻ đến già đều có thể hát vài câu trong bài ‘Dạ cổ hoài lang.’

Nhạc cụ đờn ca tài tử. Nguồn ảnh: Thông tấn xã Việt Nam.

Tại quê hương tôi, đờn ca tài tử thường được thực hành trong các nhóm nhỏ, câu lạc bộ hoặc gia đình. Khác với độc tấu, hình thức phổ biến là song tấu, tam tấu hoặc hòa tấu. Dàn nhạc thường quây quần trên bộ ván hoặc chiếu, trong khi người ca có thể trình diễn theo bản gốc cố định hoặc sáng tạo thêm vào lời ca.

Học đờn ca tài tử không phải quá khó, nhưng để thành thạo thì cần sự kiên trì. Tôi vẫn có thể hát được vài bài quen thuộc, nếu được hướng dẫn về nhịp và cách luyến láy. Tuy nhiên, để theo đuổi bộ môn này một cách bài bản, người nghệ sĩ cần ít nhất 3 năm rèn luyện những kỹ thuật cơ bản như: rao, rung, nhấn, khảy, búng, phi, vê, láy, day, chớp, chụp, v.v. Cùng với đó là học cách biểu diễn độc chiếc, tam tấu, tứ tấu hay ngũ tấu với các loại nhạc cụ khác nhau.

Người học ca, dù đơn ca hay song ca, cần nắm vững các bài bản truyền thống trước khi sáng tạo thêm những nhấn nhá, luyến láy tinh tế, sao cho vừa giữ được hồn bài gốc, vừa tạo được nét riêng.

Từ làng quê ra thế giới

Đờn ca tài tử từ lâu đã ăn sâu vào máu thịt của người dân Nam bộ. Tiếng đờn, tiếng ca được cất lên từ các sân khấu khác nhau — trong các lễ hội linh đình, trang trọng đến những không gian bình dân, dưới những gốc dừa hay trên những con đò — một cách rất ngẫu hứng.

Bước sang thế kỷ 20, đờn ca tài tử phát triển mạnh mẽ, lan rộng khắp các tỉnh thành trên cả nước. Loại hình nghệ thuật này kế thừa âm điệu của nhạc tuồng Bắc, nhạc cung đình Huế và nhạc lễ Nam Bộ, tạo nên sự đa dạng nhưng vẫn giữ được nét riêng biệt. Có lẽ chính vì thế, đờn ca tài tử như một dòng chảy gắn liền với lịch sử di cư của người Việt từ Bắc vào Nam, dễ dàng dung hòa với âm nhạc vùng miền nơi nó đặt chân đến.

Sự xuất hiện của các danh ca nổi tiếng cũng góp phần làm đờn ca tài tử thêm sức sống. Trong đó, những nữ nghệ nhân như NNƯT Thanh Tuyết, NNƯT Kim Thanh và Ngọc Đặng, với giọng ca với giọng ca giàu cảm xúc, đã chinh phục khán giả qua nhiều thế hệ. Giọng hát của họ không chỉ bảo tồn mà còn tôn vinh giá trị của dòng nhạc Nam Bộ, đưa nghệ thuật đờn ca tài tử đến gần hơn với công chúng cả nước.

Nhạc tài tử được trình diễn lần đầu tiên tại Pháp năm 1900 trên sân khấu Nhà hát Đông Dương trong Hội chợ Thế giới Paris.
Cléo de Merode múa ở giữa, bên phải là ban nhạc tài tử. Nguồn ảnh: Parisen Images.

Không chỉ nổi danh trong nước, vào khoảng hơn 100 năm trước đã xuất hiện trên sân khấu Paris và Marseille (Pháp). Nhóm đờn ca tài tử do ông Nguyễn Tống Triều làm trưởng nhóm sang Pháp dự Hội chợ thế giới Paris năm 1900. Ở đó, ban nhạc của những người An Nam này đã đệm ‘Vũ khúc Đông Dương’ cho vũ công Cléo de Mérode múa. Sau Hội chợ thế giới Paris, đoàn tài tử Mỹ Tho của ông Nguyễn Tống Triều còn được mời sang Pháp biểu diễn tại Hội chợ thuộc địa 1906 (Marseille) và cũng gặt hái được những thành công vang dội.

Sau khi được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể vào ngày 5/12/2013, đờn ca tài tử được giữ gìn và truyền dạy cho các thế hệ kế tiếp bởi người dân và các nghệ sĩ, nghệ nhân. Các địa phương ở Nam Bộ từ cấp xã, phường, thị trấn đến cấp tỉnh, thành đang có nhiều cố gắng để bảo tồn và phát huy giá trị di sản.

Nhiều câu lạc bộ, nhóm sinh hoạt đờn ca tài tử được thành lập. Các cuộc thi, liên hoan đờn ca tài tử thường xuyên được tổ chức. Festival đờn ca tài tử hiện được tổ chức luân phiên ở 21 tỉnh thành phía Nam, là sân chơi cho các tỉnh, thành giao lưu, trao đổi và học hỏi. Đờn ca tài tử còn gắn liền với phát triển du lịch ở miền Tây.

Doodle tôn vinh nghệ thuật đờn ca tài tử của Google ngày 5/12/2023 nhân kỷ niệm 10 năm UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nguồn ảnh: Google Doodle.

Có lẽ bởi trong đờn ca tài tử, ta bắt gặp đủ loại tình cảm thiêng liêng: tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình giữa cha mẹ và con cái, tình bạn tri kỷ, và cả tình anh em máu mủ ruột rà. Ca từ và nhạc điệu, giữa người ca và người đờn, như hòa quyện vào nhau, khiến những ai đã trót yêu mảnh đất miền Tây cũng phải thấm thía. Với tôi, những câu chuyện vui hồi nhỏ ngồi nghe ông nội hát đơn ca tài tử, theo ghe cha đi thăm ruộng bắt cá chài tôm, cảnh tượng bữa chiều quê với mâm nhậu dân dã cùng những người thân quen xóm giềng ngồi nhâm nhi vừa đờn ca, vừa nói chuyện thân tình đã đậm sâu trong ký ức.

Thời ấy làm gì có karaoke, cũng chẳng phải nhà nào cũng sắm đủ nhạc cụ. Vậy đó mà với cái chén đôi đũa, chiếc thùng nhựa là đủ để “ban nhạc miệt vườn” hoà tấu, cùng ca cùng hò sảng khoái. Với tôi đờn ca tài tử là một ngôn ngữ đậm đà nói lên tính cách người miền Tây hào sảng, chân chất. Ở đâu cũng có thể ca, dễ vui, dễ truyền và dễ tiếp chuyện nhau.

Bộ tem “Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.” Nguồn ảnh: viettimes.

Đờn ca tài tử giữa dòng chảy hiện đại

Chẳng dễ dàng để những giá trị truyền thống của đờn ca tài tử có thể hòa cùng nhịp điệu của thời đại mới. Nhưng tôi vẫn luôn cảm nhận những điều tưởng chừng chỉ có thể sống cùng thế hệ trước vẫn đang len lỏi vào cuộc sống hiện đại.

Hiện nay nếu muốn học đờn ca tài tử, có rất nhiều chương trình bài bản với các giảng viên là nghệ sĩ có tâm và có tài. Chẳng hạn như đều đặn mỗi cuối tuần tại Trung tâm Văn hóa quận Ninh Kiều, các học viên lại đến lớp học miễn phí của Nghệ nhân Ưu tú Ái Hằng. Đây là lớp học khá đặc biệt với “biên độ tuổi” của học viên khá rộng, từ vài tuổi đến hơn 70 tuổi. Người học đến từ nhiều ngành nghề, độ tuổi — có người vì yêu thích, có người học để hỗ trợ công việc. Dẫu khác biệt về mục đích, họ đều chung niềm đam mê và tâm huyết với bộ môn này. Còn ở Sài Gòn, có Câu lạc bộ Đờn ca tài tử với 2.000 nghệ sĩ gạo cội đang hoạt động tích để xây dựng điểm biểu diễn đờn ca tài tử định kỳ để phục vụ người dân và du khách.

Bản phối hiện đại của ca khúc ‘Dạ cổ hoài lang’ trong chương trình Anh Trai Vượt Ngàn Chông Gai (2024).

Đáng chú ý, nhiều trường học cũng đưa đờn ca tài tử vào chương trình ngoại khóa để giới thiệu đến thế hệ trẻ. Như hoạt động học đờn ca tài tử của học sinh Trường THPT Nguyễn Chí Thanh (xã Trường Tây, Hòa Thành, Tây Ninh) là một ví dụ. Những lớp học này không chỉ giúp các em hiểu hơn về văn hóa dân tộc mà còn khơi dậy niềm đam mê với nghệ thuật truyền thống. 

Cá nhân tôi từng xúc động khi xem những thước phim nói về đờn ca tài tử trong chương trình truyền hình thực tế 2 ngày 1 đêm mà mình luôn yêu thích. Những câu chuyện lịch sử, âm thanh quen thuộc của nét đặc sắc miền sông nước được tái hiện và trân trọng. Tất cả làm tôi càng tin rằng, dù ở những năm tháng hiện đại, nhiều dòng âm nhạc phù hợp với thị hiếu người trẻ xuất hiện, thì đờn ca tài tử vẫn sẽ tồn tại ở đó, trọn vẹn trong từng ca từ, thanh âm.

]]>
info@saigoneer.com (Thảo Nguyên. Ảnh bìa: Ngọc Tạ.) Văn Hóa Fri, 29 Nov 2024 15:51:41 +0700
Hồi tưởng về văn hóa chợ quê xưa chân chất trong thời đại thương mại điện tử https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17766-hồi-tưởng-về-văn-hóa-chợ-quê-xưa-chân-chất-trong-thời-đại-thương-mại-điện-tử https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17766-hồi-tưởng-về-văn-hóa-chợ-quê-xưa-chân-chất-trong-thời-đại-thương-mại-điện-tử

Bền bỉ tồn tại trong cuộc sống thường nhật, những ngôi chợ quê cũ không đơn thuần chỉ là nơi mua bán, mà còn là những mảnh ghép khó phai về tuổi thơ, những vui vầy sắm sửa ngày lễ và cả những câu chuyện khó nhọc về kiếp mưu sinh của bao nhiêu mảnh đời. 

Dù là kiểu buôn bán “chất phố” hay là “rặc” phong cách của người vùng quê thì chợ nào cũng có những nếp văn hoá thật đẹp. Nhưng so với chợ Sài Gòn luôn nhộn nhịp với những gian hàng xum xuê, đầy đủ sản vật từ khắp mọi nơi quy về đất phố, thì chợ quê trong ký ức của tôi đượm chất dân dã và mộc mạc hơn biết bao.

Rời mảnh đất quê hương cũng đã mấy năm, chợ với tôi không còn là một hình ảnh quen thuộc mỗi ngày như hồi còn nhỏ, lẽo đẽo theo mẹ lựa bó rau, con cá nơi hàng quen của thím Ba, dì Bảy. Giờ đây khi những cửa hàng tiện lợi, siêu thị mọc lên khắp mọi nẻo đường, len lỏi về các ngóc ngách của quê hương, dường như sự sầm uất của chợ quê cũng đã bớt đi nhiều, nhưng ý nghĩa của nó đối với bao thế hệ thì vẫn còn đậm đà lắm.

Mỗi lần có dịp trở về nhà, sáng sớm tôi lại cùng mẹ trên con xe quen thuộc, ghé ăn một tô cháo lòng nóng hổi ở đầu chợ, rồi đi vòng khắp chợ quê để mua đủ mấy món ngon chỉ chợ quê mới có. 

Tôi nhớ hoài con đường đi học mấy năm cấp 1 cấp 2 đều đi ngang chợ làng, nên dường như tôi thuộc nằm lòng từng khu hàng quán bán món gì của ai. Đâu chỉ là tô cháo lòng, mà bánh bao, bánh mì, bánh đúc, bánh canh, chè ngọt, tàu hủ thơm — mấy vị ngon đó dễ gì mà tôi quên được. Chỉ là giờ đây chợ cũng khác xưa nhiều, có cô chú còn giữ hàng quán ngày xưa, có người cũng đã vắng bóng mấy năm, nên nếu có thèm thì chỉ có thể nhớ vậy thôi.

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, chợ được định nghĩa là “nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày, buổi nhất định.” Nhưng xét diện mạo mới của chợ trong đời sống hiện này, có thể thấy tình hình thực tế đã vượt xa định nghĩa ở trên. Chợ có sự phát triển nhanh chóng từ lúc sơ khai, tự phát đến mức độ có tổ chức, quy mô và được kiểm soát bởi địa phương.

Chợ cũng đi vào nền văn học Việt, trở thành một đề tài diễn tả biết bao tâm trạng của con người. Như khi Nguyễn Trãi lắng nghe những thanh âm một đời sống hòa bình, no ấm của muôn dân, chợ đã xuất hiện: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ” (Bảo kính cảnh giới số 43). Hay sau này, Nguyễn Khuyến, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam đã như hoạ nên một bức tranh chợ Đồng, thể hiện tình cảm của ông với quê hương:

“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm cũ hỏi lung tung.”

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ thì đã mở đầu bài thơ ‘Chợ Tết’ bằng những câu thơ ấm áp, đầy màu sắc:

“Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.”

Qua đó cũng thấy được chợ truyền thống mang đậm nét văn hóa làng xã. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng chợ không chỉ nằm trong phạm trù kinh tế đơn thuần, mà còn có sự giao lưu tình cảm gắn liền với các giá trị ứng xử trong văn hóa người Việt. Có lẽ vì thế mà khi đi du lịch, người ta sẽ thường ghé thăm chợ vì ngoài việc mua được sản vật địa phương còn là cách cảm nhận nền, nếp văn minh của địa phương đó, cốt cách đôn hậu của con người ở một vùng đất.

Mỗi dịp vài người bạn về quê tôi chơi, tôi nhất định phải dẫn đi trải nghiệm chợ quê, ngắm nghía hàng quán, sống cùng nhịp sống thường nhật, và ăn những món ăn đặc sản, dân dã khiến tụi nó dễ hình dung hơn về nơi tôi lớn lên. Khi được nhắc lại, tụi bạn tôi lại thèm tô cháo lòng nóng hổi đầu chợ.

Thế mới thấy muốn hiểu về một vùng đất dễ dàng hơn thì cứ đi chợ sẽ rõ. Không chỉ chợ quen ở quê, mà khi ghé thăm chợ ở nơi khác qua những lần du lịch, công tác, tôi đều bắt gặp những sản vật đậm phong vị vùng miền, bó rau rừng không rõ hết tên, giọt mật ong bạc hà núi đá, cái bánh bò thốt nốt, dĩa bánh tằm cay hay nắm xôi vò thơm mùi nước cốt dừa. Chợ như một tấm bản đồ ẩm thực thu nhỏ, gói trọn hết món ngon ở một vùng đất, dù bình dị nhưng lại rất đặc biệt.

Tất nhiên đã nhắc đến chợ thì người ta sẽ nghĩ ngay đến ẩm thực nhưng với tôi thì có một điều cũng không thể không nhắc đến, đó là âm thanh chợ. Những thanh âm quen thuộc được tạo nên bởi ngôn ngữ đậm chất địa phương như một bản hợp âm vùng miền, sống động nhưng cũng đầy hối hả. Trong sự trộn lẫn âm thanh đó, lẫn cùng tiếng va đập chan chát, tiếng dao chặt thịt, tiếng cá quẫy mạnh trong thao, tiếng rao của người bán, tiếng mặc cả, trao đổi rộn ràng.

Mỗi ngày một buổi chợ nhưng dường như thứ âm thanh đó suốt mấy chục năm vẫn vậy, vẫn ồn ào, nhộn nhịp, và chỉ ngớt dần khi chợ sắp tan và dòng người cũng thưa thớt bớt. Chợ như một nơi hợp tình hợp ý để người ta hỏi thăm nhau, nói chuyện đồng áng, mời dự tiệc vui. Trong những lần đi chợ của tôi, chẳng bao giờ thiếu được tiếng gọi hỏi thăm của những cô chú bán hàng, mối quan hệ thân quen suốt mấy chục năm đâu chỉ vì chuyện buôn bán mà còn là cái tình quê chân chất, dễ thương.

Ngày nay, chợ quê đã phát triển rất nhiều so với trước, mẹ tôi kể cách đây mấy mươi năm chợ có quy mô rất nhỏ, thường chỉ vài mươi hộ buôn bán cố định, chợ rất mau tan, chiều tối vắng vẻ đìu hiu lắm. Vì hồi đấy đồng ruộng mênh mông, kênh rạch xa tít tắp, dăm độ nửa tuần mới đi chợ mua thêm đồ dùng cần thiết. Sau này khi giao thông thuận lợi thì đi chợ cũng trở thành một nếp sống quen thuộc hơn rất nhiều.

Nhưng theo nhịp sống hiện đại, trong nền kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay, ai cũng hiểu rằng nếu không hội nhập và đổi mới thì rất dễ bị thay thế, nên để có thể giữ lại những ngôi chợ truyền thống, các địa phương cũng đã có cho mình những chuyển đổi trong mô hình phát triển chợ. Đặc biệt, các loại hình kinh doanh bán hàng online, cửa hàng tiện ích hay siêu thị, trung tâm thương mại cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động của chợ truyền thống, khiến cho thị phần chợ ngày càng mất đi sự tồn tại vốn có.

Có lẽ vì thế, trong chừng mười năm trở lại đây, địa phương có nhiều hoạt động thu hút doanh nghiệp đầu tư, quản lý thì phần lớn các chợ trên địa bàn được nâng cấp cơ sở hạ tầng xuống cấp, cần được cải tạo. Với lối sống quen thuộc đã gắn bó suốt mấy chục năm, thì mẹ tôi, bà tôi vui mừng nhiều khi thấy chợ được đổi mới, vì với họ dù có nhiều dịch vụ mua hàng hoá hiện đại, thì đi chợ vẫn là niềm vui, là thói quen khó bỏ, là điều chẳng thể nào thay thế được.

Ngoài ra việc thu hút khách du lịch cũng là cách giải quyết bài toán về lượng khách mua sụt giảm vừa giúp tiểu thương kinh doanh ổn định, “bám chợ-giữ nghề” vừa góp phần tạo thêm nhiều loại hình du lịch mới lạ cho địa phương. Giờ đây chợ không chỉ là để bán buôn mà còn là cách địa phương bảo tồn di sản bản địa. Như đi du lịch Mũi Né thì phải đi chợ làng chài ở Hòn Rơm; đi Sóc Trăng thì ghé chợ nổi Ngã Năm, hay qua Đà Lạt mà không ghé chợ Đà Lạt là hành trình chẳng mấy trọn vẹn.

Ngoài những hình thức chợ quen thuộc diễn ra hầu như mỗi ngày thì cũng có những loại hình chợ rất đặc biệt mỗi năm một lần. Như chợ Viềng Nam Định chỉ mở duy nhất vào đêm mùng 7 rạng sáng–mùng 8 tháng Giêng hàng năm, đón mọi người về chơi với ý nghĩa “mua may bán rủi.” Người Việt mình còn có loại hình chợ phiên được họp theo tuần, theo tháng, hoặc theo quý. Mỗi chợ phiên như thế có thể có những mặt hàng đặc sản riêng biệt ở vùng miền, tạo nên một không gian văn hoá đầy tính cộng đồng hiếm có.

Chợ làng chài Mũi Né. Ảnh: Dân Trí.

Chợ Viềng Nam Định. Ảnh: Dân Trí.

Chợ nổi Ngã Năm Sóc Trăng. Ảnh: Alberto Prieto.

Dù chợ lớn chợ nhỏ, dù là nổi tiếng cỡ biểu tượng một vùng đất, hay đơn giản chỉ là nơi bà con tụ họp rồi bán buôn, thì chợ nào cũng ẩn chứa nhiều điều thú vị thấm sâu vào ký ức. Cứ vậy đó, mỗi thời một kiểu chợ, mỗi vùng miền lại họp chợ theo một hình thức khác nhau, nhưng chỉ cần là chợ quê mình, là những điều đã theo mình lớn, đã nuôi dưỡng tâm hồn mình thì lúc nào cũng ẩn chứa muôn điều thú vị.

Tôi luôn tin rằng dù cho có nhiều loại hình mua bán hiện đại xuất hiện thì chợ vẫn sẽ tồn tại bền bỉ qua lối sống thường nhật, giữ gìn qua nếp sống của các bà các mẹ. Và tôi cũng hiểu rằng để giữ gìn một lối sống văn hoá truyền thống thì không chỉ cần giữ gìn mà còn cần phát huy và lan tỏa những vẻ đẹp đặc trưng, lan tiếng thơm đi xa và hội nhập vào dòng văn hoá hiện đại.

]]>
info@saigoneer.com (Thảo Nguyên. Ảnh bìa và cắt ghép hình ảnh: Ngọc Tạ. Minh họa: Dương Trương.) Văn Hóa Mon, 18 Nov 2024 16:00:00 +0700
Dù có đi phương nào, nơi đâu có thùng xốp dán băng keo, ở đó có Việt Nam https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17750-dù-có-đi-phương-nào,-nơi-đâu-có-thùng-xốp-dán-băng-keo,-ở-đó-có-việt-nam https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17750-dù-có-đi-phương-nào,-nơi-đâu-có-thùng-xốp-dán-băng-keo,-ở-đó-có-việt-nam

“If you know, you know.” (Ai hiểu thì hiểu)

Đây là bình luận tôi tình cờ đọc được trên một diễn đàn mạng khi có người hỏi vì sao các chuyến bay từ Việt Nam lại mang theo nhiều thùng các loại trên băng chuyền đến vậy. Ai đã từng đứng chờ lấy hành lý với hành khách người Việt chắc hẳn đã được diện kiến loạt thùng các-tông hay xốp to nhỏ, nhưng lúc nào cũng phủ đầy tên họ, địa chỉ ở California hay Texas được viết bằng bút lông to bản. Thậm chí chính bạn có khi cũng đã từng ngồi soạn hay nhận được một chiếc thùng thân thương như thế.

Không khó để nhận ra vì sao chiếc thùng lại “phủ sóng” khắp năm châu như thế: vì vừa rẻ, vừa tiện lại vừa nhẹ hơn va-li, thùng trở thành phương tiện đắc lực giúp người ta đem quà về cho người thân, bạn bè xa phương. Trái cây khô, cá khô, mì, hạt các loại, bánh tráng, quần áo, tương mắm, gia vị nằm trong hàng ngũ những thức quà thường gặp nhất qua những chuyến bay. Và chiều ngược lại, nếu chiếc thùng được tái chế cho chuyến về, nó lại mang trong mình ít nhất vài hũ thuốc đau đầu, đau bụng cỡ đại từ siêu thị đồ sỉ Costco.

Có nhiều lý do để giải thích cho tình yêu dường như bất tận của người Việt với những chiếc thùng, hơn cả những quốc gia nơi người ta đi du lịch như đi chợ: cộng đồng người Việt hải ngoại đông đúc, tập trung tại nhiều đô thị khắp các châu lục; nguồn lực kinh tế phát triển nhưng không được phân chia đồng đều; và cả sự thiếu thốn về vật chất vào những thập kỷ ngay sau giải phóng.

Nói đi cũng phải nói lại, dù sự có mặt của những chiếc “thùng biết bay” đã trở nên quen thuộc với cả cộng đồng người nước ngoài, đôi lúc ta cũng nên dành chút thời gian để trân trọng những nét văn hóa tưởng chừng như rất tầm thường này. Thùng cạc-tông là hiện thân rõ rệt nhất của tính rộng rãi và quan hệ gia đình khăng khít của người Việt. Đó là cách người Việt bày tỏ tình cảm, qua hành động, qua hiện vật, qua cử chỉ thay vì những lời nói ngọt ngào của phương Tây. Đứng chờ chuyến bay hạ cánh ở sân bay Việt, có lẽ ta ít khi nghe được câu “ba mẹ nhớ con lắm” nói ra thành lời, nhưng chắc chắn sẽ cảm nhận được cái nhớ thương ấy trong chiếc thùng nặng trĩu quà cáp trên xe đẩy.

Ít phi trường nào trên thế giới có hẳn một quầy đóng gói, bọc thùng bằng ni-lông, cho nên sự có mặt của dịch vụ hết sức “bản địa” ở rất nhiều góc khắp Tân Sơn Nhất càng chứng tỏ rằng thói quen mang thùng đi bay đã trở thành nét văn hóa hằn sâu trong đời sống người Việt. Tôi không khỏi cảm thấy hơi ngại khi đi ngang quầy mỗi lần sửa soạn bay khỏi VIệt Nam. Tôi đi lững thững đến bàn check-in chỉ với một va-li kéo duy nhất, giữa biển thùng xốp, thùng cạc tông đủ kích cỡ. Tôi không phải người Việt, nhưng đúng ra tôi nên học tập “truyền thống” này sớm hơn, để bày tỏ tình yêu thương với chính gia đình tôi ở nơi xa, ít khi gặp mặt. Cho nên, trong những ngày cuối cùng trước khi về lại Sài Gòn, tôi đã ngồi lại suy ngẫm xem các bạn tôi ở đó sẽ thích cái gì, để bày tỏ qua chiếc thùng xốp rằng tôi mong muốn gặp lại họ như thế nào.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Paul Christiansen.) Văn Hóa Wed, 16 Oct 2024 16:00:00 +0700
Về An Giang xem lễ hội đua bò truyền thống của người Khmer https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17034-về-an-giang-xem-lễ-hội-đua-bò-truyền-thống-của-người-khmer https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17034-về-an-giang-xem-lễ-hội-đua-bò-truyền-thống-của-người-khmer

Cứ mỗi tháng 8 âm lịch hằng năm, người dân tứ xứ lại có dịp tụ hội về vùng đất Bảy Núi để hòa vào không khí rộn ràng của trường đua dân dã và cổ vũ cho các “chiến ngưu” mà mình yêu thích.

 

Từ lâu, An Giang đã là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc do có nền đất phù sa màu mỡ, phù hợp để canh tác lúa nước. Trong đó, người Khmer là cộng đồng dân tộc thiểu số lớn nhất địa bàn, chiếm khoảng 4% dân số toàn tỉnh, chủ yếu tập trung ở hai huyện ven vùng Bảy Núi là Tri Tôn và Tịnh Biên.

Tại đây, đồng bào dân tộc Khmer vẫn lưu giữ được các tập tục truyền thống giàu giá trị văn hóa, trong đó phải kể đến các nếp sinh hoạt trong mùa lễ Sene Dolta, diễn ra vào tháng 8 và tháng 9 âm lịch hàng năm. Đây có thể xem là ngày Tết của người Khmer, là dịp để người còn sống thể hiện lòng biết ơn với ông bà, tổ tiên và những người đã khuất.

Vào ngày lễ này, người Khmer theo truyền thống Phật giáo thường mang lễ vật đến dâng cho các nhà sư để cầu cho các linh hồn đã lìa thế gian sớm được siêu thoát. Tương truyền rằng vào mùa Dolta xưa, các nông dân cũng thường hay mang bò đến cày cuốc cho ruộng của chùa như một cách làm công ích.

Sau những buổi cày bừa, người nông dân thường hay bắt cặp các đôi bò với nhau để tranh tài, xem bò của ai lực lưỡng, nhanh nhẹn và dẻo dai hơn. Thấy được điều này, các sư thầy đã trao thưởng cho bò bằng những sợi dây nài hoặc những vòng lục lạc đẹp mắt. Qua năm tháng, thú đua bò đã trở thành một tập quán của người Khmer An Giang vào những ngày tết Dolta.

Ngày nay, lễ hội đua bò được tổ chức thường niên ở huyện Tri Tôn, thu hút hàng ngàn người đến xem và cổ vũ. Trường đua cũng được xây dựng với quy mô lớn hơn, với các thí sinh được tăng cường tập luyện và chăm sóc bằng chế độ ăn đặc biệt để đạt phong độ tốt nhất.

Theo thể thức thi đấu hiện đại, các cặp bò sẽ tranh loại trực tiếp với nhau. Cặp bò nào về đích trước và thắng cuộc sẽ được tiếp tục tranh chức vô địch. Những người đua bò, hay còn gọi là “nài” hay “tài xế,” sẽ đứng trên một chiếc bừa để điều khiển đôi bò tranh tài.

Để thắng cuộc, người điều khiển không chỉ cần có thể lực tốt mà phải có “tay lái” hết sức khéo léo, bởi nếu để đôi bò của mình bước lên chiếc bừa của đối thủ, hoặc phóng ra ngoài vòng đua, cặp thí sinh sẽ lập tức bị loại.

Theo quan niệm của người Khmer, việc có đôi bò thắng giải là một điềm may, nên sau khi thắng cuộc, đôi bò sẽ không bị giết thịt hay bán đi. Ngược lại, các “nhà vô địch” sẽ được dân làng giữ gìn như tài sản quý, được chăm sóc kỹ lưỡng để tham gia cuộc đua kế tiếp, như lời gửi gắm hy vọng cho một năm mới nhiều mùa màng bội thu và ấm no gia đình.

Darkroom là một series kể chuyện bằng hình ảnh về vẻ đẹp của cảnh vật, con người Việt Nam và châu Á trên những hành trình xê dịch. Bạn là một phó nháy thích đi đây đó? Hãy gửi ý tưởng về cho Saigoneer qua hòm thư contribute@saigoneer.com.

]]>
info@saigoneer.com (Uyên Đỗ. Ảnh: An Bùi.) Văn Hóa Fri, 20 Sep 2024 12:00:00 +0700
Giữa lòng Sài Gòn, xóm lồng đèn truyền thống Phú Bình giữ hồn Trung thu Việt https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17735-giữa-lòng-sài-gòn,-xóm-lồng-đèn-truyền-thống-phú-bình-giữ-hồn-trung-thu-việt https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17735-giữa-lòng-sài-gòn,-xóm-lồng-đèn-truyền-thống-phú-bình-giữ-hồn-trung-thu-việt

Lồng đèn giấy kiếng, một nét đẹp truyền thống gắn liền với những mùa trăng tròn trong ký ức, vẫn còn được lưu giữ qua bàn tay khéo léo của những người nghệ nhân tại làng nghề lồng đèn Phú Bình nổi tiếng của Sài Gòn.

Rảo bước trong xóm làng nghề lồng đèn Phú Bình ở đoạn đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11 những ngày này, ta sẽ cảm nhận rất rõ không khí Trung thu đang tới gần.

Xóm lồng đèn Phú Bình rực rỡ nhất những ngày Trung thu. Ảnh: Cao Nhân.

Tôi bị thu hút bởi những căn nhà được phủ đầy màu sắc bởi những chiếc lồng đèn thành phẩm đủ hình dạng bắt mắt. Làng nghề nhỏ mang đến cho tôi một cảm giác đầy hoài niệm về Trung Thu hồi đó, nơi những giá trị xưa cũ được gìn giữ như một kho báu giữa lòng phố thị.

Lồng đèn được bày bán. Ảnh: Cao Nhân.

Theo lời kể của những người nghệ nhân nơi đây, vào khoảng những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng ngàn người dân từ làng Bác Cổ ở Nam Định đã cùng nhau vào Sài Gòn lập nghiệp, mang theo cả nghề truyền thống của tổ tiên. Làng nghề làm lồng đèn lớn bậc nhất Nam Bộ cũng ra đời từ đó.

Lồng đèn giấy kiếng là sản phẩm đặc trưng của xóm Phú Bình. Ảnh: Cao Nhân.

Ở cái thời hưng thịnh, đâu đó trong những năm 1970-1990, người ta vẫn nhớ nhiều về sự sầm uất của xóm làm lồng đèn, với hàng trăm hộ dân theo nghề để đủ cung ứng những sản phẩm nổi bật cho khắp các tỉnh miền Nam và cả xuất khẩu.

Nhưng theo dòng chảy của thời gian và sự du nhập của những chiếc lồng đèn hiện đại, ngày nay còn rất ít hộ còn giữ nghề-nối nghề. Giờ đây, các hộ gia đình chỉ nhận làm theo đơn đặt hàng chứ không còn bán nhỏ lẻ như trước nữa. Giá thành sản phẩm dao động từ vài chục nghìn đến vài trăm nghìn, những mẫu kích thước lớn giá sẽ có giá cao hơn.

Sự cạnh tranh từ lồng đèn hiện đại chạy pin khiến việc buôn bán lồng đèn thủ công khó khăn hơn. Ảnh: Cao Nhân.

Những đôi tay thoăn thoắt quấn tre, tạo hình, tỉ mỉ dán giấy bóng kiếng, điệu nghệ trong từng nét vẽ trang trí khiến tôi mê mẩn. Những cô chú nghệ nhân bảo với tôi rằng thật ra làm lồng đèn không khó nhưng lại tốn rất nhiều thời gian và có nhiều công đoạn khác nhau.

Lồng đèn được tạo hình từ tre, dán giấy kiếng và vẽ màu để thêm phần bắt mắt. Ảnh: Tạp chí Du lịch TP. HCM.

Để có được một chiếc đèn lồng đẹp và chắc chắn, công đoạn chuẩn bị nguyên liệu ắt hẳn vô cùng quan trọng. Tre làm lồng đèn phải là loại tre già còn tươi, để đảm bảo độ bền và tránh mối mọt. Dán giấy kiếng sao cho đẹp, không bị nhăn để khi vẽ lên sẽ mượt và bóng. Từng công đoạn một, dù nhỏ đến đâu cũng đòi hỏi sự tỉ mẩn, kiên trì qua đôi bàn tay khéo léo của người thợ để có thể cho ra các sản phẩm với những hình thù, màu sắc độc đáo.

Khung đèn ông sao và sản phẩm hoàn thiện. Ảnh: Cao Nhân.

Chị Phượng, một nghệ nhân ở làng nghề Phú Bình tâm sự với tôi rằng: “Thật ra, ai đã làm lồng đèn lâu năm thì sẽ thấy công việc này không có gì khó khăn, điều quan trọng nhất là sự tỉ mỉ và chỉn chu trong từng công đoạn. Điều chị thấy vui nhất là cả nhà cùng nhau làm việc, tạo ra những chiếc lồng đèn đẹp mắt và góp phần giữ gìn nét đẹp truyền thống của dân tộc.”

Đèn được trang trí bằng sơn bột. Ảnh: Cao Nhân.

Tôi ngồi ngắm nghía những chiếc lồng đèn thành hình, sờ vào lớp giấy kiếng bóng loáng mà nhớ lại cái hồi còn nhỏ cũng tham gia hội thi làm lồng đèn rồi nhờ ông làm cho cái lồng đèn ông sao thiệt to mang đến trường, lọ mọ phụ ông cắt giấy, vẽ hình, thích mê. Tự nhiên nhớ lại thấy nhớ mà thương cái nghề này vô cùng, liệu rằng rồi nó sẽ còn tồn tại suốt bao nhiêu năm nữa, và Trung thu sau này tụi con nít còn thấy sắc màu đỏ vàng sặc sỡ kia không?

Chiếc đèn ông sao. Ảnh: Cao Nhân.

Có lẽ đó cũng là nỗi trăn trở của những người trót yêu cái nghề làm lồng đèn nơi đây. Và để giữ lửa cho nghề, người thợ Phú Bình đã tự mình sáng tạo nên những chiếc lồng đèn mới lạ, đẹp mắt, theo xu hướng ưa chuộng của thị trường như hình rồng, cua, cá, thỏ với nhiều chi tiết độc đáo và cầu kỳ hơn.

Bên cạnh hình thức giao thương trực tiếp, các hộ gia đình làm lồng đèn ở làng nghề Phú Bình còn mang sản phẩm lên bán trên các trang thương mại điện tử, mạng xã hội để dễ dàng tiếp cận hơn với người tiêu dùng và lan tỏa hình ảnh của một làng nghề truyền thống.

Nghệ nhân Nguyễn Trọng Bình. Ảnh: Tạp chí Du lịch TP. HCM.

Nghệ nhân Nguyễn Trọng Bình, truyền nhân đời thứ ba của làng nghề lồng đèn Phú Bình chia sẻ: “Năm nay, số lượng đơn hàng tăng đáng kể so với các năm trước. Điều này khiến chúng tôi vô cùng phấn khởi. Từ tháng 3, ngay sau khi Tết Nguyên đán kết thúc, chúng tôi đã bắt đầu tất bật làm việc. Trong khi đó, những năm trước, phải đến tháng 5 hoặc tháng 6, chúng tôi mới nhận được những đơn hàng đầu tiên.”

Một đơn hàng lồng đèn truyền thống được gửi đi. Ảnh: Cao Nhân.

Cô Nguyễn Thị Tươi, 60 tuổi, cũng bảo với tôi rằng: “Thương hiệu lồng đèn của gia đình đã tồn tại hơn 20 năm. Cửa hàng lồng đèn cô Tươi may mắn được mọi người yêu mến nên mỗi năm vẫn còn duy trì được cái nghề này. Những thế hệ sau của gia đình cũng đang cố gắng quảng bá hình ảnh thương hiệu gia đình để mọi người biết nhiều hơn đến lồng đèn Trung thu truyền thống.”

Tôi vui mừng lắm khi nghe những thông tin khả quan về tình hình kinh doanh lồng đèn của các tiểu thương nơi đây, bởi còn nghề là còn làng. Cứ như vậy, suốt hàng chục năm qua và rất nhiều năm nữa, những người thợ yêu nghề tiếp tục được thổi hồn vào biết bao chiếc lồng đèn, gìn giữ nếp sống quen thuộc để tuổi thơ của ai cũng có đủ vị đủ sắc màu Trung thu.

]]>
info@saigoneer.com (Thảo Nguyên.) Văn Hóa Tue, 17 Sep 2024 12:00:00 +0700
Những cô Mía muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ? https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17734-những-cô-mía-muôn-năm-cũ,-hồn-ở-đâu-bây-giờ https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17734-những-cô-mía-muôn-năm-cũ,-hồn-ở-đâu-bây-giờ

Người ta thường nói một người chết sẽ đi hai lần: một lần khi nhịp tim ngừng đập, lần nữa khi bóng hình họ nhạt nhòa trong ký ức người đời. Nếu vậy, liệu cô Mía của Sài Gòn, với nụ cười bí ẩn và mái tóc xoăn đặc trưng, có đang dần rơi vào quên lãng?

Xe nước mía truyền thống với hình vẽ cô Mía. Minh họa: Rồng Phạm.

Hình ảnh cô Mía với mái tóc uốn xoăn tít, chiếc áo sơ mi cổ bẻ và nụ cười mỉm chi chắc hẳn đã quá quen thuộc với người Sài Gòn. Nhưng hỏi thật, đã bao lâu rồi bạn chưa thấy lại hình ảnh ấy trên những chiếc xe nước mía rong ruổi khắp thành phố?

Nguồn gốc của bức tranh trên những chiếc xe nước mía khắp thành phố đã bị lãng quên theo thời gian, không còn biết được liệu người đã truyền cảm hứng cho hình ảnh đó đã qua đời hay không, hay thậm chí có phải là một người thật hay không. Vài năm trước khi chúng tôi đăng tải bài viết về việc tìm kiếm danh tính của cô Mía, hình ảnh cô gần như phủ sóng tất các xe nước mía của thành phố. Là một người đi bộ thường xuyên, đã từng có thời tôi nhìn thấy bóng dán cô Mía ở khắp mọi nơi, từ các hẻm ở những quận xa xôi đến các đường phố trung tâm thành phố. Vì vậy, khi chúng tôi cần chụp vài bức ảnh cho một dự án tháng này về nước mía, tôi đã nghĩ sẽ rất dễ tìm thấy cô ấy.

Thật đáng tiếc, tôi đã đi qua hơn một chục xe nước mía trên đường đến văn phòng của Saigoneer mà không thấy cô Mía nào. Hầu hết các xe đẩy đều có chữ dán đơn giản, được sản xuất hàng loạt và trang trí bằng những hình dán trái cây không có gì đặc biệt. Vài xe đẩy kim loại trưng dụng hình ảnh chụp lấy từ mạng miêu tả nhân vật uống nước mía trên phông nền màu sắc đậm chất thập niên 2000. Cô Mía thân thương đã đi đâu mất rồi?

Các thành viên của Saigoneer đã lặn lội khắp nẻo đường thành phố và tìm ra một vài chiếc xe đẩy nước mía còn mang hình bóng cô Mía, nhưng những hình ảnh ấy đã bị phai màu và nhòe nét trước thời tiết nắng gió khắt nghiệt. Lại một kịch bản quen thuộc đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta: những loại hình nghệ thuật thủ công như vẽ tranh quảng cáo bằng tay đang dần bị mai một, nhường chỗ cho những loại hàng hóa đại trà, miễn sao sản xuất nhanh và rẻ. Tuy nhiên, giữa rừng xe nước mía na ná nhau, 10 xe như 1, chúng tôi chợt bắt gặp một chiếc xe có bức tranh cô Mía với lớp sơn còn mới tinh, thắp lên hy vọng rằng đâu đó ngoài kia vẫn có những người trân trọng những giá trị xưa, dẫu cho đó có là những giá trị bị cho là đã lỗi thời.

Ảnh: T.N.

Trưởng thành là quá trình chấp nhận những thay đổi, trong đó có cả việc tạm biệt những người bạn từng gắn bó. Sự ra đi của những người nổi tiếng, những nghệ sĩ, hay vận động viên mà chúng ta yêu mến luôn để lại một khoảng trống lớn. Nhưng mất đi một người đáng lẽ có thể “bất tử” chỉ vì công chúng không còn quan tâm về họ nữa, có lẽ chính là bị kịch lớn nhất.

Minh họa: Hannah Hoàng.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.) Văn Hóa Fri, 13 Sep 2024 15:00:00 +0700
Làng chổi đót 'núp hẻm' cuối cùng tại Sài Gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17293-làng-chổi-đót-núp-hẻm-cuối-cùng-tại-sài-gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17293-làng-chổi-đót-núp-hẻm-cuối-cùng-tại-sài-gòn

Nằm trong con hẻm nhỏ tại đường Phạm Phú Thứ ở quận 6 là “làng” chổi đót cuối cùng của Sài Gòn.

Đi sâu vào con hẻm 180 Phạm Phú Thứ của quận 6, bạn sẽ thấy cả một đoạn đường được áo lên một màu vàng của cây đót. Tiếng lạo xạo của những bó đót va đập, tiếng búa đập và tiếng kéo sợi cước tạo nên một không gian lạ lẫm mà ngay cả người sống ở Sài Gòn lâu như tôi cũng chưa từng thấy.

Những đôi tay thoăn thoắt liên tục làm việc của các thợ làm chổi.

Theo lời kể, “ngôi làng” được những người di dân từ Quảng Ngãi thành lập từ nửa thế kỷ trước và phát triển đến ngày nay. Họ nhập cây đót, một loại cây cỏ hay mọc trên các triền núi và lưng đồi vùng cao, từ Quảng Ngãi hoặc Gia Lai, thường là thu mua từ những người dân tộc trên các bản làng.

Thời điểm đó, chổi đót rất thịnh hành vì tính tiện lợi và nhu cầu sử dụng cao. Những nhân công ở đây chia sẻ rằng họ thường nhận được các đơn đặt hàng xuất khẩu chổi tới nhiều quốc gia, tiêu biểu như Singapore và Mỹ.

Sự phát triển của công nghệ đã vô tình đẩy cuộc sống của những người làm chổi đót rơi vào cảnh bấp bênh. Giờ đây, việc mua một chiếc máy hút bụi không còn quá khó khăn, lại còn được bảo hành trong trường hợp hư hỏng. Nghề làm chổi vì vậy mà ngày càng thất thu trong khi giá một cây chổi chỉ vỏn vẹn 20.000–50.000VND một cây.

Một nhân công đang tước sợi đót, bụi đót rơi ám vàng cả con hẻm.

Để sản xuất ra một cây chổi cần rất nhiều công sức và giai đoạn. Đầu tiên, thợ phải chọn các bông đót chất lượng nhất để tước và cột thành từng bó nhỏ. Mỗi bó nhỏ này sẽ có một vài bông có cuống dài hơn, nhô ra hẳn để làm cán chổi.

Những người phụ nữ khéo tay sẽ đảm nhận công đoạn tước bông và cột lại thành bó.

Bàn chân lẫn đầy bụi đót và bụi đường của những thợ làm chổi.

Sau đó, tầm 20 bó nhỏ sẽ được quấn lại với nhau để tạo thành bó lớn, gọi là bó chổi thô. Những công đoạn sau sẽ là quấn băng quanh cán chổi để tạo thành tay cầm chắc chắn; dùng búa đập để các sợ đót dẹt; tề (cắt gọt) lại cho chổi có độ xòe đều.

Cô Trần Thị Thu Hồng, chủ xưởng chổi lớn nhất tại đây chia sẻ: “Có nhiều người cũng nghiên cứu các loại máy móc để dây chuyền hóa làm chổi nhưng mà cái đặc thù của công việc này là phải làm thủ công, mình cầm vào bó chổi mới biết nó chắc hay mỏng, chỗ nào nhiều chỗ nào ít, quấn chặt hay không chặt.”

Bên trái: Những người đàn ông có sức hơn sẽ được phân công đoạn tề chổi. Bên phải: Công đoạn quấn dây kẽm vào các bó chổi nhỏ.

Công đoạn đan từng bó chổi nhỏ lại với nhau vừa cần kỹ thuật và sự nhanh nhẹn để các bó buộc thật chặt.

Vì đặc tính thủ công của toàn bộ quy trình, công việc làm chổi rất cực và gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhìn vào đôi tay nhuộm vàng cả móng cùng những vết chai chằn chéo hẳn ai cũng đoán được thâm niên của họ trong nghề. Một người thợ chia sẻ rằng: “Bụi vàng của đót bám vào móng tay lâu ngày kể cả khi cắt móng, móng mới vẫn còn ám váng.” Với các thợ phụ trách bện kẽm, đôi tay họ chi chít các vết hằn của sợi kẽm, ngón tay thậm chí bị nhiều thương tật.

Để làm ra những chiếc chổi chắc, đẹp, vàng ươm mắt là cả một quá trình cực khổ và đầy bụi bẩn của các thợ chổi.

Các chiếc chổi thành phẩm được cột thành bó, sẵn sàng đến tay người mua.

Các thợ ở đây tâm sự với tôi rằng vì cái cực cũng như cái nghèo này mà họ không muốn truyền nghề lại cho con cháu. Tôi hy vọng những tấm hình này sẽ lưu giữ được một phần ký về làng chổi đót cuối cùng tại Sài Gòn trước khi nó biến mất. Mách những bạn có dự định tìm đến những hộ làm chổi, hãy hỏi đường các cô chú trên đường do các hẻm trong khu này thông với nhau.

]]>
info@saigoneer.com (Tuyết Nhi. Photos by Tuyết Nhi.) Văn Hóa Mon, 26 Aug 2024 12:54:00 +0700
Gia đình 3 thế hệ giữ hồn nghề làm đầu lân truyền thống xứ Huế https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17724-gia-đình-3-thế-hệ-giữ-hồn-nghề-làm-đầu-lân-truyền-thống-xứ-huế https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17724-gia-đình-3-thế-hệ-giữ-hồn-nghề-làm-đầu-lân-truyền-thống-xứ-huế

Nằm ở miền Trung, mảnh đất cố đô Huế là cái nôi của nhiều sản phẩm thủ công truyền thống. Ẩn hiện trong từng sản phẩm là những đường nét mộc mạc, thanh thoát mang đậm dấu ấn tâm hồn người nơi đây. Trong số đó, những chiếc đầu lân làm ra từ đôi tay người dân Huế cũng mang những nét đặc trưng riêng.

Một cửa hàng bán đầu lân và đồ Trung Thu trên đường Trần Hưng Đạo, Huế.

Múa lân là môn nghệ thuật không thể thiếu vào dịp Trung Thu cũng như các dịp lễ Tết. Lân tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền, sự may mắn và phát đạt. Đi cùng với môn nghệ thuật này, nghề làm đầu lân cũng được giữ gìn tại một số địa phương trên dải đất hình chữ S. Ở Huế, từ xa xưa, đầu lân đơn giản là món đồ người lớn làm cho trẻ con trong xóm vui Trung Thu. Sau này, khi nhu cầu tăng lên, một số hộ gia đình đã tiếp nối và mở rộng nghề làm đầu lân để kinh doanh. Từ đó, đầu lân Huế cũng được khoác lên mình những diện mạo mới, đa dạng màu sắc, mẫu mã.

Đầu lân đựợc họa lên những chi tiết bắt mắt.

Tôi đến Huế những ngày đầu tháng 8 âm lịch, khi Huế sắp vào thu nhưng nắng vẫn rát da thịt. Dòng sông Hương lững lờ trôi tựa mảnh lụa vắt ngang thành phố thơ mộng. Những hàng cây im lìm giữa trưa hè. Con đường Trần Hưng Đạo dọc theo bờ Bắc sông Hương trở nên rực rỡ hơn bất kỳ thời điểm nào trong năm. Dọc vỉa hè, đầu lân và đồ trang trí Trung Thu được bày bán. Người lớn ngồi trông quầy hàng còn thanh niên hí hoáy gia công sản phẩm.

Con kiệt dẫn vào xưởng đầu lân nhà anh Trương Như Rem.

Bóng nắng đổ lên những vách tường cũ ở một con kiệt nhỏ. Từ đầu đến cuối ngõ treo đầu lân chật kín trên trần, đường đi, sắc màu xanh, đỏ, vàng lấp la lấp lánh. Đây là xưởng sản xuất đầu lân của gia đình anh Trương Như Rem. Trong cái nóng hầm hập, ai nấy đều đang chạy đua với thời gian, mồ hôi ướt đẫm từ đầu đến chân. Thế nhưng không vì sự gấp rút mà những người thợ mất đi sự tỉ mỉ. Những đôi tay cẩn thận trong từng nét vẽ, đường kim mũi chỉ. Họ ngụp lặn trong vải, giấy, màu. Càng cận kề Trung Thu, không khí càng khẩn trương, tất bật.

“Làm không ngơi tay, có ngày làm trắng đêm mới kịp đáp ứng các đơn hàng sỉ đã đặt. Nhiều người mua lẻ ở xa đến tận nơi để tìm được con lân ưng ý,” anh Rem nói.

Anh Trương Như Rem là thế hệ thứ ba trong gia đình duy trì nghề làm đầu lân.

“Mình làm lân cũng hơn 30 năm rồi. Ngày mô cũng làm từ sáng đến tối muộn. Cái nghề ni vất vả như rứa,” anh Rem chia sẻ. Mỗi năm, cơ sở của anh Rem cung ứng ra thị trường khoảng 500 chiếc đầu lân, nếu tính cả các loại phụ kiện Trung Thu khác như múa lân, trống, mặt nạ, quạt… thì con số lên đến 10.000. Cũng như nhiều gia đình khác, xưởng anh Rem phải bắt tay vào làm từ trước rằm tháng 8 nhiều tháng mới kịp đáp ứng các đơn hàng đã đặt sớm. “Có những năm Trung Thu xong chỉ nghỉ một tháng là phải bắt đầu làm trở lại để phục vụ cho Trung Thu năm sau,” anh Rem chia sẻ.

Khuôn sườn đầu lân làm từ tre và giấy.

Nói về quy trình, anh Rem cho hay, mỗi chiếc đầu lân mất 5 đến 6 ngày để hoàn thiện trong điều kiện trời nắng. Các công đoạn cơ bản bao gồm: làm khuôn, dán vải, trang trí, may đuôi lân. Đầu lân là một sản phẩm mang tính nghệ thuật, yêu cầu sự phối hợp hài hòa về màu sắc, cân đối về cấu trúc và đa dạng về chất liệu. Mỗi tác phẩm là độc bản, không con lân nào giống con nào vì được tạo ra hoàn toàn thủ công và là nơi gửi gắm cảm xúc, ý tưởng của người thợ. Đầu lân đa dạng từ mẫu mã, màu sắc, kích thước để phục vụ các nhu cầu khác nhau.

Đầu lân được vẽ họa tiết và đính các chi tiết trang trí.

Họa tiết trang trí trên đầu lân chủ yếu là hình ngọn lửa.

Đầu lân phối hợp nhiều chất liệu, yêu cầu tính sáng tạo và sự tỉ mỉ từ người thợ.

Có hai cách làm khung đầu lân: cách truyền thống là bồi giấy lên khuôn và cách thứ hai là làm bằng khung sườn từ mây tre. Sau khi có khuôn sườn, người thợ đắp các lớp vải và giấy lên rồi phơi khô. Các lớp giấy phải được dán cẩn thận để bề mặt phẳng, nhẵn mịn. Sau khi có khuôn lân hoàn chỉnh, người thợ bắt đầu trang trí lân bằng màu vẽ. Họa tiết được dùng chủ yếu là ngọn lửa. Cuối cùng, đầu lân được hoàn thiện các chi tiết, gắn lông. Mắt là chi tiết quan trọng nhất quyết định thần thái của con lân.

Lân Huế luôn toát lên sự uy dũng, mạnh mẽ. Để đáp ứng thị hiếu ngày càng đa dạng, người thợ luôn tìm tòi, sáng tạo những hoa văn mới bên cạnh những màu sắc và chi tiết truyền thống. Các bộ phận trên đầu lân từ những chi tiết nhỏ nhất như lưỡi, tai, mắt… được gia công cẩn thận để giữ được độ bền chặt khi tham gia vào những màn múa lân sôi động.

Ngoài đầu lân, gia đình anh Rem còn sản xuất trang phục múa lân, trống, mặt nạ…

Anh Trương Như Rem là thế hệ thứ ba trong gia đình duy trì nghề làm đầu lân. Lớn lên với những chiếc đầu lân đầy màu sắc, anh Rem được ba chỉ dạy kỹ thuật và bắt đầu làm lân từ năm 12 tuổi. Anh cho hay, người làm lân phải có niềm đam mê, sự kiên trì bởi tính chất cầu kỳ, công phu, quy trình đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, thời gian. Những yếu tố ấy được anh nuôi dưỡng từ thuở bé bởi truyền thống gia đình. Vì công việc này mang tính chất thời vụ nên nhà anh Rem nằm trong số ít gia đình ở Huế còn giữ được.

Đầu lân và sản phẩm trang trí Trung Thu được bày bán nhiều ở đường Trần Hưng Đạo.

Cứ thế, hàng chục năm qua, những đôi bàn tay cần mẫn của người thợ Huế đã góp phần mang những chiếc lân đi khắp mọi miền đất nước, góp niềm vui cho trẻ thơ trong hội trăng rằm.

]]>
info@saigoneer.com (Xuân Phương. Ảnh: Xuân Phương.) Văn Hóa Thu, 22 Aug 2024 11:00:00 +0700
Luận về vàng mã: Khi những thể chế chính trị, xã hội đối lập va chạm nhau trong tàn lửa https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17347-luận-về-vàng-mã-khi-những-thể-chế-chính-trị,-xã-hội-đối-lập-va-chạm-nhau-trong-tàn-lửa https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17347-luận-về-vàng-mã-khi-những-thể-chế-chính-trị,-xã-hội-đối-lập-va-chạm-nhau-trong-tàn-lửa

Hình ảnh vàng mã, đồ cúng đã ăn sâu vào tâm trí của tôi từ trước khi tôi biết chúng là gì. Mỗi dịp đám giỗ ông ngoại, mẹ tôi lại dựng một bát hương to trước sân nhà, và chuẩn bị sẵn một xấp tiền âm phủ để đốt. Tôi cứ nhớ mãi cảnh tượng từng mảnh giấy lần lượt hóa thành tro khói, biến mất vào thinh không như chưa từng tồn tại.

Từ lâu, đốt vàng mã đã là một phần quen thuộc trong đời sống tâm linh của người Việt Nam, cũng như người dân các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản. Tập tục này xuất phát từ niềm tin cổ xưa rằng người đã khuất có thể có một “cuộc sống” sung túc hơn ở cõi âm khi được cúng các loại tiền, vật dụng đã “hóa vàng.”

Đến thời nay, tần suất xuất hiện của tập tục này cũng không thuyên giảm. Dạo qua bất kỳ khu chợ nào ở Sài Gòn, chợ nhỏ lẻ tự phát, hay chợ đầu mối sầm uất như Bình Tây, ta cũng sẽ bắt gặp ít nhất một hàng chuyên bán nhang và vàng mã. 

Ở Việt Nam, việc đốt vàng mà thường được thực hiện vào những dịp như đám giỗ, lễ Tết, v.v. và đặc biệt là vào tháng cô hồn, mùa Vu Lan. Khi ấy, người dân không chỉ đốt tiền và vật phẩm giấy, mà còn soạn hoa quả, mía, kẹo và nhang để cúng dường cho những linh hồn còn lang thang ở trần gian. May mắn hơn vàng mã phải kết thúc số phận trong lò lửa, quà và bánh cúng được theo túi trẻ em về nhà sau những buổi giật cô hồn chớp nhoáng.

Trong quá trình hiểu thêm về câu chuyện đằng sau thói quen đốt vàng mã của người Việt, tôi đã gặp và nhận được sự tư vấn nhiệt tình từ một cô bán hàng ở chợ Phú Nhuận: “Con phải đốt làm sao để nó cháy hết, tại như vậy thì [ông bà] mới nhận được.” Cô không nói thực hành tâm linh này đến từ nguồn gốc triết học hay đạo giáo nào, mà dường như chỉ từ niềm tin vô hình trung của người dân rằng “trên sao thì dưới vậy.”

Mâm đồ cúng, bát nhang và vàng mã là "combo" thường được đặt trước cửa các hộ gia đình và hộ kinh doanh vào tháng cô hồn.

Tuy nhiên, nhà nhân học Heonik Kwon lại cho rằng tập tục này có thể bắt nguồn từ một quan niệm ở Trung Quốc cổ đại — rằng kiếp nhân sinh thực chất là một dạng “vay mượn” nguồn sống từ “ngân hàng địa phủ.” Khi một một người chết đi, con cháu của họ có nhiệm vụ phải trả khoản nợ mà tổ tiên đã mượn.

Một số nghiên cứu khác cũng cho rằng niềm tin này gắn liền với triết lý Nho giáo về đức tính hiếu thảo; nghĩa vụ của con cháu là phải “trả báo” cho tổ tiên — tức giải gánh nặng luân lý từ những điều ác mà họ phạm trong kiếp trước. Và vì có một “ngân hàng” ở thế giới bên kia, con cháu còn sống có thể gửi tiền bạc, vật chất đến tổ tiên đã khuất để trả các khoản nợ ân oán.

Khó có thể xác định được người Việt bắt đầu thực hành tập tục này từ khi nào. Nhưng nhận định chung từ các nhà nghiên cứu là vàng mã du nhập vào Việt Nam dưới ách đô hộ của Trung Quốc, vì tục cúng tiền mã đã xuất hiện ở nước này từ thời phong kiến xa xưa.

Tập tục đốt vàng mã có thể bắt nguồn từ niềm tin cổ xưa rằng khi một một người chết đi, con cháu của họ có nhiệm vụ phải trả khoản nợ mà tổ tiên đã mượn.

Nhắc đến vàng mã truyền thống, chúng ta có thể kể đến những xấp tiền âm phủ được làm từ giấy tre thô màu trắng, có viền mỏng màu vàng hoặc bạc; hoặc hình nộm ngựa, quần áo, giày dép, v.v. Và để đáp ứng với nhu cầu cúng viếng của thế kỷ 21, người ta còn làm ra những loại vàng mã lấy cảm hứng từ đời sống hiện đại, từ trong và ngoài nước.

Trong sách Burning Money, tác giả C. Fred Blake đưa ra dẫn chứng về quá trình “tiến hóa” của vàng mã qua thời gian, trong đó có hai thay đổi rõ rệt nhất: sự xuất hiện của các loại ngoại tệ như dollar và euro; và các sản phẩm hiện đại như điện thoại, xe máy.

Dạo một vòng quanh chợ Tân Định, có thể thấy đô la âm phủ là sản phẩm thống lĩnh các sạp hàng, nhưng những chiếc iPad, iPhone giấy cũng được ưa chuộng kém cạnh. Trong khi đó ở chợ Bình Tây, tôi bắt gặp những tòa lâu đài nguy nga và những bộ quần áo hàng hiệu cao cấp chồng chất. Một mặt hàng được săn lùng khác nữa là combo tất cả những vật dụng mà một người có thu nhập trung lưu thường sở hữu: quần áo hiện đại, điện thoại thông minh, nước hoa, thẻ tín dụng và đồng hồ.

Không chỉ tiền, mà tất tần tật các vật phẩm của thế kỉ 21 như iPhone, xe SH, túi LV và nhà lầu đều được "vàng mã hoá."

Tuy gắn liền với một truyền thống có từ thời phong kiến, việc đốt vàng mã chỉ mới phổ biến trở lại vào cuối thập niên 1980. Tập tục này từng bị nghiêm cấm vào những năm 1970, lấy lý do là “gây lãng phí” và “đi ngược với chủ trương của chính phủ trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.” Tuy nhiên, khi Việt Nam từ bỏ nền kinh tế bao cấp để theo để theo đuổi nền kinh tế thị trường, tư bản chủ nghĩa, vàng mã cũng mau chóng trở về từ cõi âm. Sau chiến dịch Đổi mới, việc đốt vàng mã cùng những lễ nghi đi kèm lại được hợp pháp hóa. 

Theo nhà sử học Hồ Tài Huệ Tâm, bước đi này là một phần của “cơn sốt tưởng niệm” càn quét Việt Nam lúc bấy giờ. Nhà sử học nhận đinh rằng, lúc này, các công trình tưởng niệm, đền đài, di tích lịch sử được dựng lên ào ạt nhằm góp phần tạo nên một “đường hướng” vĩ mô hơn, “lấy quá khứ làm tiền đề để phát triển và xây dựng tương lai."

Một cách nhìn nhận khác về vàng mã trong xã hội hiện đại, theo tác giả Gates, là “hiện thân của sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường bằng con đường tâm linh.” Fred Blake cũng đề cập đến khái niệm này khi so sánh sự khác biệt giữa hình thức sản xuất vàng mã truyền thống và hiện đại. Khi được sản xuất thủ công, vàng mã mang đậm tính biểu tượng và ý nghĩa tinh thần là mang đến sự sung túc cho tổ tiên; còn khi được sản xuất hàng loạt, chúng dễ trở thành một bản sao vô tri vô giác, một sản phẩm không có thành ý sâu xa hơn. Bằng chứng là năm 2010, ngân hàng nhà nước còn phải cấm sản xuất tiền âm phủ sao chép thiết kế của các tờ tiền Việt Nam đang lưu hành, vì tập tục này đã bị lợi dụng để làm cớ in ấn tiền giả.

Liệu ngân hàng địa phủ có bộ phận thu đổi ngoại tệ?

Những năm gần đây, đã xuất hiện những luồng ý kiến lên án tập tục đốt vàng mã, cùng những phiên bản dị tướng của nó, là mê tín dị đoan. Việc dư luận “gán tội” cho vàng mã này phơi bày một nghịch lý của xã hội Việt Nam — đang lay hoay trước ngõ cửa của một kỷ nguyên ngày càng hiện đại, khoa học và tách biệt khỏi tín ngưỡng.

Sau phòng trao Đổi mới, chính sách phát triển đất nước được dẫn đầu cùng lúc bởi hai khái niệm đối lập — “hiện đại” và “truyền thống.” Khi Việt Nam bắt đầu theo đuổi nền kinh tế thị trường, “hiện đại hóa” cũng trở nên đồng nghĩa với việc tăng trưởng kinh tế và tái định hình xã hội. Tuy nhiên, chính phủ lo ngại rằng quá trình hiện đại hóa đất nước sẽ kéo theo những hệ luỵ do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Vì vậy, để đối trọng với những ảnh hưởng ngoại lai ấy, chính phủ đã kêu gọi người dân quay lại với văn hóa truyền thống, tức xây dựng cho mình một bản sắc dân tộc vững vàng, không lung lay trước những ảnh hưởng tất yếu từ toàn cầu. Sự trở lại hùng hồn của vàng mã cũng chính là chứng nhân cho thời kỳ chuyển đổi nhiều mâu thuẫn này — khi những thể chế chính trị và xã hội đối lập va chạm nhau trong tàn lửa.

]]>
info@saigoneer.com (Thi Nguyễn. Đồ hoạ: Hannah Hoàng, Phan Nhi và Hương Đỗ.) Văn Hóa Sat, 17 Aug 2024 10:00:00 +0700
Chuẩn bị ngày lễ tháng 7: Hiểu phong tục để biết 'thiếu-đủ' https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/16980-chuẩn-bị-ngày-lễ-tháng-7-hiểu-phong-tục-để-biết-thiếu-đủ https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/16980-chuẩn-bị-ngày-lễ-tháng-7-hiểu-phong-tục-để-biết-thiếu-đủ

Tháng 7 Âm lịch vốn là khoảng thời gian có nhiều ngày lễ truyền thống mang đậm màu sắc tâm linh và triết lý nhân sinh từ nghìn xưa, thể hiện rõ nét văn hóa giàu đẹp của dân tộc.

Hãy cùng Saigoneer điểm lại nguồn gốc và ý nghĩa của các nghi lễ, phong tục diễn ra trong khoảng thời gian vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt: Thất Tịch vào mùng 7, đại lễ Vu Lan báo hiếu vào ngày 15, và Tết Trung Nguyên cũng vào ngày rằm của tháng. Hi vọng qua đó, độc giả có thể tự nhìn nhận về độ "thiếu-đủ" trong sự chuẩn bị bản thân.

Lễ Thất Tịch

Lễ Thất Tịch bắt nguồn từ Trung Quốc và được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch hằng năm, đôi khi được người phương Tây gọi là ngày Valentine Đông Á. Lịch sử về ngày này bắt đầu từ thời nhà Hán và gắn liền với tích truyện Ngưu Lang Chức Nữ với nhiều dị bản được lưu truyền cho đến nay. Tại các quốc gia châu Á khác, ngày lễ Thất Tịch được tổ chức với nhiều nghi thức và hoạt động khác nhau: Hàn Quốc có lễ Chilseok, Nhật Bản tổ chức lễ hội Tanabata, và Việt Nam cũng ăn mừng ngày Thất Tịch.

Chuyện xưa kể rằng, Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, chàng đem lòng yêu nàng tiên dệt vải Chức Nữ. Cả hai vì đắm chìm trong tình yêu mà không hoàn thành tốt công việc của mình, khiến Ngọc Hoàng tức giận và đày hai người ra hai đầu dải Ngân Hà, mỗi năm chỉ được gặp nhau vào ngày Thất Tịch (7 tháng 7 Âm lịch) trên chiếc cầu Ô Thước do đàn quạ trời tạo nên. Khi tiễn biệt nhau, đôi uyên ương không ngừng khóc than và nước mắt của họ đã rơi xuống trần gian hóa thành cơn mưa.

Chuyện tình bi thương ấy đi vào văn hóa Việt Nam với một tên gọi nữa là Ông Ngâu bà Ngâu và được dùng để giải thích hiện tượng mưa ngâu — những cơn mưa rả rích và liên tiếp xuất hiện vào đầu tháng 7 Âm lịch hàng năm.

Thiên văn học Trung Quốc cũng gọi sao Vega, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Cầm (Lyra), là sao Chức Nữ; và gọi sao Altair, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng (Aquila), là sao Ngưu Lang. Hai ngôi sao này nằm ở hai đầu con sông Ngân lấp lánh bắc ngang qua bầu trời đêm.

Điểm khác biệt lớn nhất trong ngày lễ Thất Tịch của văn hóa Việt có lẽ bắt đầu vào đời vua Lý Thánh Tông (1023-1072). Lịch sử ghi lại rằng, khi vua ở độ tuổi 42 nhưng vẫn chưa có con để truyền ngôi vị, vì vậy nên đã cầu tự vào ngày 7 tháng 7 ở một ngôi chùa, nhờ đó mà đón tin mừng, sinh ra Thái tử Càn Đức. Cũng bởi lý do này nên hàng năm vào ngày 7 tháng 7  Âm lịch trọng lễ đã được tổ chức ở chùa Hà và trở thành lễ hội cầu tình duyên, con đàn cháu đống, gia đình hạnh phúc.

Người ta tin rằng hai người yêu nhau nếu cùng ngắm sao Ngưu Lang, Chức Nữ trong đêm mồng 7 tháng 7 thì sẽ mãi mãi bên nhau. Ngoài ra, giới trẻ cũng thường truyền miệng nhau rằng ăn chè đậu đỏ sẽ giúp tình yêu đôi lứa thêm bền vững hay người độc thân sẽ tìm sớm được tình duyên cho mình.

Lễ Vu Lan

Lễ Vu Lan (15/7 Âm lịch) là một trong những đại lễ quan trọng của Phật giáo, thường được gọi là lễ Vu Lan Bồn hay lễ Báo hiếu. Đại lễ này bắt nguồn từ một bộ kinh Đại Thừa là kinh Vu Lan Bồn (kinh Ullambana).

Bộ kinh kể về câu chuyện sau: Thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, trong số các đệ tử của ngài có một vị tôn giả tên Mục Kiền Liên (Maudgalyayana), sau này đắc quả A La Hán, thoát khỏi nghiệp sinh tử và có pháp lực thần thông cao cường. Sau khi đắc đạo, Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn để tìm kiếm song thân đã khuất, ngài nhìn thấy mẹ của mình là bà Thanh Đề đã bị đọa làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở. Mục Kiền Liên vô cùng đau xót bèn cầm một bát thức ăn dùng thần lực mang xuống âm phủ cho mẹ. Tuy nhiên, do đói ăn lâu ngày nên khi ăn bà đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành hòn than rực đỏ.

Mục Kiền Liên đành cầu xin Đức Phật giúp đỡ. Đức Phật khuyên rằng đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư tăng mãn hạ, thiết lễ và nhờ chư tăng chú nguyện, mới giúp mẹ thoát khỏi cảnh địa ngục. 

Mục Kiền Liên làm theo lời Đức Phật và đã giải thoát được cho mẹ mình. Đức Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng làm theo cách này. Từ đó, ngày lễ Vu Lan ra đời.

Ngày nay, Vu Lan còn được xem là Ngày của Mẹ ở Việt Nam. Các chùa thường có nghi lễ cài hoa hồng trên áo cho Phật tử tham gia lễ: ai còn mẹ thì đeo bông hồng đỏ, ai không còn mẹ thì đeo bông hồng trắng. Nghi thức này nhắc nhở mọi người phải làm tròn chữ Hiếu. Vu Lan cũng đã trở thành ngày lễ hàng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và các bậc tổ tiên, nhắc nhở mỗi người phải biết trân trọng những gì mình đang có và luôn biết ơn các bậc tiền nhân.

Tết Trung Nguyên

Theo quan niệm dân gian, tháng 7 Âm lịch được gọi là Tháng cô hồn và mang lại nhiều xui xẻo vì đây là khoảng thời gian địa phủ mở cửa cho phép vong linh đến thăm dương thế, vất vưởng khắp nhân gian. Vì thế trong tháng này, người ta sẽ kiêng thực hiện các việc đại sự như ký kết hợp đồng, kinh doanh hay đi đến việc đến bệnh viện, vì lo sợ ma quỷ đến phá. Ngày rằm của tháng là Tết Trung Nguyên hay còn gọi là ngày Xá tội vong nhân với phong tục cúng cô hồn để siêu sinh cho những linh hồn không nơi nương tựa ấy.

Ngày lễ này có nguồn gốc từ Đạo giáo của Trung Quốc, gắn liền với truyền thuyết kể rằng vào ngày 2 đến ngày 14 tháng 7 Âm lịch, Diêm Vương sẽ mở cửa địa ngục để mọi linh hồn đói khát trở về dương thế. Vì thế, các nhà phải cúng thức ăn, thắp nhang và đốt vàng mã ở ngoài sân hay trước cửa nhà để cô hồn không đến quấy nhiễu. Mặt khác, lễ xá tội vong nhân xuất phát từ quan niệm ban phước cho các cô hồn chưa được siêu thoát, vì vậy việc tế lễ không đơn thuần là cầu cúng theo mê tín mà thể hiện tấm lòng của người còn sống với người đã khuất.

Khi nhang vừa hết, chủ nhà mang ra một mâm đồ cúng bao gồm tiền lẻ, bắp rang, khoai lang luộc, cùng các loại bánh kẹo ra đường. Những đứa trẻ trong xóm sẽ chờ đợi để được giật cô hồn, chúng cố gắng giật đồ cúng từ mâm càng nhiều càng tốt. Người ta tin rằng càng nhiều người chia sẻ thức ăn, thì chủ nhà sẽ càng có nhiều may mắn và những đồ cúng ấy ăn vào không bị sao cả. Tuy nhiên, có một điều cần ghi nhớ là món nào khi người khác đã cầm thì ta không nên đụng vào. Và nếu đồ cúng ta giật được lại bị người khác lấy mất thì cũng nên bỏ qua, vì rất có thể đó là do một linh hồn đói khát đang đòi lại thức ăn của mình.

Trong kinh nhà Phật cũng có nói về ngạ quỷ (ma đói) và nghi thức tế lễ bố thí. Đó là câu chuyện về A Nan, một trong mười đại đệ tử và là thị giả của Đức Phật, cùng với một ngạ quỷ tên Diệm Khẩu miệng nhả ra lửa.

Chuyện kể rằng: Một buổi tối, A Nan đang ngồi trong phòng thì thấy một con quỷ tiều tụy với chiếc cổ nhỏ dài và miệng phát ra lửa. Quỷ báo cho A Nan rằng, ba ngày sau A Nan sẽ mất và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ. A Nan hoảng sợ, hỏi nhờ quỷ hướng dẫn tránh khỏi kiếp nạn.

Quỷ nói: "Ngày mai phải thí cho bọn tôi mỗi đứa một chút thức ăn và soạn lễ cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ, còn tôi sẽ được sinh về cõi trên.”

A Nan đem chuyện này báo với Đức Phật. Ngài truyền dạy cho A Nan một bài chú để làm lễ, và tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích trên.

Nói về tháng cô hồn, Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chia sẻ rằng không có tháng nào gọi là tháng cô hồn trong kinh của Phật giáo. Người Phật tử tu tập để trả lại bốn ơn lớn: ơn cha mẹ sinh thành và thầy cô dạy bảo; ơn quốc gia xã hội; ơn tất cả mọi loại chúng sinh; và ơn Tam bảo — Phật, Pháp và Tăng. Riêng trong tháng 7, Phật giáo nặng về ơn cha mẹ sinh thành nhất, vậy nên dân gian ta mới có câu “cúng cả năm không bằng rằm tháng 7.”

Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, người Việt đã kết hợp phong tục này cùng với lễ báo hiếu. Các Phật tử thường tổ chức nghi lễ thả đèn hoa đăng để cầu bình an cho người thân, thể hiện sự hiếu đễ đối với các bậc sinh thành. Nói thêm về việc cúng rằm tháng 7, Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm cho rằng đó là để tri ân, báo hiếu tổ tiên, ông bà, cha mẹ, trên tinh thần của Phật giáo là yêu thương muôn loài, nên khi cúng người ta cúng cả cho những cô hồn không mồ mả, không con cháu hương hoả.

]]>
info@saigoneer.com (Hoàng Hạnh Phương. Minh họa: Hannah Hoàng.) Văn Hóa Tue, 13 Aug 2024 07:41:00 +0700
Nắng mưa trên xe đẩy trái cây, món ăn vặt lâu đời nhất nhì Sài Gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17697-nắng-mưa-trên-xe-đẩy-trái-cây,-món-ăn-vặt-lâu-đời-nhất-nhì-sài-gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17697-nắng-mưa-trên-xe-đẩy-trái-cây,-món-ăn-vặt-lâu-đời-nhất-nhì-sài-gòn

Thế giới tự nhiên kỳ diệu rất phong phú những cách thu hút ánh nhìn: công đực xòe chiếc đuôi cánh quạt lung linh, từng chiếc lông vũ họa tiết đôi mắt như lúng liếng mời chào công cái; bạch tuộc đốm xanh chẳng cần ca vũ kịch gì cả, chỉ cần tấm áo xanh biếc là đã đủ răn đe lũ thiên địch rằng có độc đấy, ngon thì cắn vào; trên từng cung đường Sài Gòn đầy gió bụi, “môi trường sống” của xe trái cây, những xe đẩy hãnh diện trưng bày cầu vồng đa sắc làm từ những miếng trái cây nhiệt đới cắt sẵn, vừa tươi vừa mọng nước như sơn hào hải vị trên bàn ăn tiến vua, hấp dẫn người đi đường tấp vào mua ăn giải khát.

Xe trái cây là lát cắt nhiệt đới, trưng bày sản vật vừa rẻ vừa ngon của nước ta.

Xe trái cây đã có mặt ở Sài Gòn tự cổ chí kim, tôi đoán rằng trước cả phở, bánh mì, và siêu thị — bao giờ có quả ngọt và bao giờ có con người đến vùng đất mới sinh sinh, lúc đó có xe trái cây để phục vụ. Chưa hết, tôi đồ rằng bán trái cây gọt là một trong những ngành nghề trường tồn nhất trong thời đại bão giá.

Khi kinh tế trì trệ, người ta có thể từ bỏ giấc mơ chạy theo mẫu iPhone mới nhất, bấm bụng chịu ở nhà thay vì bay nhảy du lịch phương xa, hay thay mỹ phẩm đắt tiền bằng phiên bản rẻ hơn — nhưng tuyệt nhiên ít ai chối từ đĩa trái cây gọt sẵn vừa nhiều vừa hợp túi tiền của các cô chú đẩy xe trái cây dạo.

Minh họa: Ngan Nguyen và Trinh Anh / Behance.

Dưa hấu, đu đủ, thơm, xoài, ổi, cóc, mận, sơ ri: đây là những thành viên cộm cán của bất kì xe đẩy nào, vì chúng có giá thành rẻ, có mặt quanh năm, và cũng dễ bảo quản. Hầu hết các loại trái phổ biến cũng dễ ăn, chín cũng được mà non chua lại càng ngon, càng ăn tốn muối, tốn mắm đường, mắm ruốc.

Các loại trái cây chua rất phù hợp để chấm với muối hoặc mắm.

Dù thường được biết đến với cái tên xe trái cây, nhưng thỉnh thoảng, củ sắn và mía cắt khúc cũng rất được ưa chuộng vào mùa nóng — không cần phải là trái cây, miễn là giòn và nhiều nước. Hơn 30 năm là người Sài Gòn, tôi lớn lên bên xe trái cây, ngày nhỏ nít là nơi tụm năm tụm ba cùng lũ bạn sau giờ học, còn bây giờ, là lựa chọn “low carb” cho những ngày nóng ngồi ở văn phòng nhưng thấy buồn miệng. Thật khó tin rằng xe trái cây đã tồn tại lâu thế nhưng hầu như chẳng bị thay đổi bởi nhịp thay đổi chóng mặt của đô thị. Vẫn chiếc kệ kính chất đá tảng, loạt chai hũ đựng me, cóc ngâm, và đống muối đầy vun, đỏ ối màu ớt xay. Dẫu vậy, những năm gần đây, mía ghim và cóc cắt hình hoa bắt đầu khó tìm hơn.

Trước khi ly nhựa, bao nylon ra đời, trái cây được ghim vào que tre, nên mới có cái tên mía ghim.

Có một sự thật bất thành văn rằng ba mẹ Việt rất hiếm khi bày tỏ tình yêu thương bằng lời, nhưng chỉ cần nhìn vào hành động, ta cũng cảm nhận được phần nào tình gia đình ý nhị ấy. Đĩa xoài cắt gọt gọn gàng đặt ngay trên bàn học cũng ngọt ngào không kém tiếng thì thầm “I love you” khi người ta kết thúc cuộc gọi bên trời Tây. Trên đất Sài Gòn này, “I love you” thì ít còn trái cây nhiệt đới thì nhiều, nên nhiều lúc tôi trộm nghĩ, miễn còn trái cây gọt sẵn để trên bàn thì yêu thương vẫn đong đầy.

Xe trái cây vẫn tồn tại đời đời dẫu xã hội có thay đổi.

]]>
info@saigoneer.com (Khôi Phạm. Ảnh: Cao Nhân.) Văn Hóa Tue, 04 Jun 2024 12:00:00 +0700