Văn Hóa - Sài·gòn·eer https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture Mon, 23 Dec 2024 20:39:05 +0700 Joomla! - Open Source Content Management vi-vn Trăm năm lịch sử Việt Nam kể qua câu chuyện xổ số kiến thiết https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17795-trăm-năm-lịch-sử-việt-nam-kể-qua-câu-chuyện-xổ-số-kiến-thiết https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17795-trăm-năm-lịch-sử-việt-nam-kể-qua-câu-chuyện-xổ-số-kiến-thiết

Trải qua gần một thế kỷ tồn tại, những mẫu giấy và dãy số may rủi vẫn đóng một vai trò đặc biệt trong đời sống người Việt: vừa là chiếc phao níu giữ ước mơ “đổi vận” của người dân, vừa là tấm gương phản ánh thực tế xã hội đương thời.

“Cô ơi, cậu ơi, ủng hộ giúp tôi một tờ.”

Vang lên từ thành thị đến miền quê, từ trong con hẻm đến quán nhỏ bên hiên chợ, lời rao đơn giản ấy từ lâu trở thành thứ trải nghiệm gắn liền với những sinh hoạt đường phố. Chẳng khó để bắt gặp cảnh người lao động vừa ngồi nhâm nhi cà phê sáng, vừa lựa vài tấm vé số ưng ý để “dằn túi” tựa một thói quen bắt đầu ngày mới; hay cảnh người đi đường háo hức tụ tập trước cửa đại lý để chờ xem kết quả xổ số giờ tan tầm.

Nguồn ảnh: Báo Tuổi Trẻ Thủ Đô.

Dù tỉ lệ trúng thưởng độc đắc nhỏ chỉ là một trên hàng triệu, xổ số kiến thiết vẫn mang sức hút khó cưỡng với một bộ phận lớn người dân. Mỗi ngày, doanh số bán vé mang về cho nền kinh tế nước nhà đến hàng trăm tỷ đồng, vượt cả những ngành hàng xa xỉ. Có lẽ vì xổ số là cuộc chơi nơi “chúng sinh bình đẳng” — không phân biệt người mua giàu, nghèo, cùng lời hứa hẹn “sang trang cuộc đời” mà người ta lại lan truyền những câu cửa miệng như “không cần trình độ, chỉ cần trời độ” hay “kiếm tiền tỷ không khó, năm giờ chiều là có” mỗi độ chiều chiều.

Nhân dịp những ngày Tết cận kề, tay vừa mua một tờ vé số cầu may, tôi viết bài viết này để nhìn lại hành trình của xổ số tại Việt Nam, cũng như mối quan hệ đầy “hỷ nổ ái ố” của nó với người Việt trong những thập kỷ qua.

Lịch sử xổ số Việt Nam 

Khái niệm về xổ số hiện đại lần đầu tiên xuất hiện tại Việt Nam vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Khi đó, các tổ chức như trường học hay nhà thờ cần xin phép chính quyền để phát hành các đợt vé xổ số nhỏ lẻ nhằm gây quỹ cho hoạt động của mình.

Quảng cáo xổ số của viện Đông Dương học xá trên báo Hà thành Ngọ báo (1933)
Nguồn ảnh: Thư viện Quốc gia Việt Nam.

Chẳng hạn, trong quá trình trùng tu nhà thờ lớn Hà Nội bằng gạch, Tổng Giám mục đã đề nghị chính quyền bảo hộ Pháp cho phép tổ chức xổ số để huy động kinh phí. Sau hai lần bị từ chối, ông mới được chấp thuận và lần lượt mở hai đợt xổ số vào các năm 1883 và 1886, thu về khoảng 30.000 franc Pháp.

Đến năm 1902, tại Hội đấu xảo Hà Nội được tổ chức ở Cung đấu xảo, ban tổ chức lần đầu thử nghiệm hình thức xổ số vui chơi có thưởng. Kể từ đó, trong các kỳ đấu xảo những năm sau, việc phát hành xổ số trở thành hoạt động thường kỳ, số tiền thu được được sử dụng cho các mục đích xã hội.

Quảng cáo xổ số Đông Dương ở Hà Nội. Nguồn ảnh: trang Facebook France Indochine.

Xổ số chỉ thực sự được tổ chức trên quy mô lớn từ năm 1935 với sự ra đời của Loterie Indochinoise (vé số Đông Dương) do chính quyền Pháp phát hành trên ba lãnh thổ: Việt Nam, Campuchia và Lào. Là thủ đô của Liên bang Đông Dương, Hà Nội được chọn làm nơi quay số mở thưởng. Ban đầu, xổ số được tổ chức hạn chế, mỗi năm chỉ diễn ra một lần, với giá vé là 1 đồng bạc Đông Dương. Giải thưởng cao nhất lên đến 1 vạn đồng bạc, một số tiền rất lớn vào thời điểm đó, cùng với các giải phụ dành cho những người trúng thưởng.

Xổ số Đông Dương. Nguồn ảnh: trang Facebook France Indochine.

Do được phát hành trên phạm vi xuyên biên giới, thông tin trên vé được trình bày bằng nhiều ngôn ngữ, bao gồm tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Hoa và tiếng Khmer. Thiết kế trên vé thường mang hình ảnh các công trình kiến trúc đặc trưng hoặc nhân vật văn hóa tiêu biểu của các nước thuộc địa. Nhờ sức mua gia tăng đáng kể, tần suất phát hành sau đó được nâng lên bốn lần mỗi năm, cho đến khi chấm dứt vào năm 1944 do bối cảnh chính trị bất ổn dưới thời phát xít Nhật.

Mặt sau của một tờ vé số Đông Dương. Ảnh: Báo Tuổi Trẻ Thủ Đô.

Sau năm 1945, đất nước bị chia cắt thành hai miền với hai thể chế chính trị, nhưng xổ số vẫn tồn tại như một điểm giao thoa kỳ lạ. Dù cơ cấu giải thưởng và cách thức tổ chức khác nhau, cả miền Nam và miền Bắc đều sử dụng vé số như một công cụ để đáp ứng nhu cầu phát triển trong những bối cảnh kinh tế, xã hội riêng biệt. Cũng chính từ đây mà khái niệm “xổ số kiến thiết,” tức xổ số nhằm mục đích phục vụ lợi ích cộng đồng, ra đời.

Thư từ dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại được đóng dấu kêu gọi mua xổ số. Nguồn ảnh: Society of Indo-China Philatelists.

Tại miền Nam, vé số xuất hiện trở lại vào năm 1951, dưới thời Quốc trưởng Bảo Đại. Ban đầu, loại hình này phục vụ chủ yếu cho tầng lớp thượng lưu. Vé được phát hành mỗi quý một lần với giá 10 đồng, giải thưởng độc đắc lên đến 1 triệu đồng. Tuy nhiên, đến thời Tổng thống Ngô Đình Diệm, xổ số trở nên phổ biến hơn, không còn giới hạn trong một nhóm nhỏ mà mở rộng ra các tầng lớp khác.

Xổ sổ miền Nam dưới thời Ngô Đình Diệm. Nguồn ảnh: chuyenxua.net

Để khuyến khích người dân tham gia, chính quyền miền Nam đã áp dụng nhiều biện pháp từ sáng tác nhạc cổ động, đến cho phép dùng vé số để thay tiền phạt hành chính. Mỗi tuần, sự kiện quay số còn được tổ chức trang trọng tại rạp hát Norodom, có các tiết mục tân nhạc và sự góp mặt của những ca sĩ nổi tiếng.

Ca khúc "Xổ số kiến thiết quốc gia" của nghệ sĩ Trần Văn Trạch.

Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu, xổ số phải cạnh tranh với những trò chơi cá cược như số đề — vốn thu hút người nghèo nhờ mức đặt cược thấp, chỉ từ 1-2 đồng, và thời gian biết kết quả nhanh chóng.

Đến năm 1955, khi hai tụ điểm cá cược lớn là sòng bạc Kim Chung và Đại Thế Giới bị đóng cửa, người dân không còn lựa chọn khác để tìm vận may. Từ đó, vé số bán chạy đến mức xuất hiện tình trạng đầu cơ, buôn bán chợ đen. Một tờ vé số chính thức có giá 10 đồng, nhưng trong những năm khan hiếm như 1963, người dân đã phải mua với giá chợ đen lên tới 13 đồng. Ngoài ra, vé số Tombola — do các trường học, tổ chức tôn giáo và tư nhân phát hành — cũng khá phổ biến với giải thưởng thường là hiện vật như xe đạp, máy may, hoặc nhu yếu phẩm thiết thực.

Nguồn ảnh: trang Facebook Lớp Học Vui Vẻ.

Trái ngược với mô hình xen lẫn tính giải trí như ở miền Nam, xổ số miền Bắc ra đời năm 1962 với chủ trương rất rõ ràng từ trung ương: xây dựng cơ sở hạ tầng miền Bắc và chi viện cho chiến trường miền Nam. Giá vé ở mức 2 hào với các giải thưởng có giá trị cao như xe máy Simson hay xe đạp Phượng Hoàng — những tài sản đáng mơ ước với người dân thời “bao cấp.”

Bố cục của vé số miền Bắc ở giai đoạn này chịu ảnh hưởng của vé số Liên Xô. Nguồn ảnh: Báo Tiền Phong.

Hoạt động phân phối vé số ở miền Bắc không dựa vào thị trường tự do, mà được tổ chức theo cách thức tập trung hơn. Vé được bán tại quầy đại lý và còn được phân phối trực tiếp đến các cơ quan, xí nghiệp để cán bộ, công nhân viên mua. Công tác quay thưởng diễn ra tại câu lạc bộ Đoàn Kết dưới sự giám sát của cả cơ quan chức năng.

Một cựu binh chia sẻ về cơn sốt vé số ở thủ đô lúc bấy giờ: “Đầu tiên là việc đi nhặt xổ số mỗi buổi chiều, nơi quay xổ số ngày ấy ở gần nhà hát lớn Hà Nội, độc đắc đâu thì không thấy, chỉ thấy vé số không trúng thưởng bay đầy vỉa hè tựa như lá sấu chiều mưa. Và chúng tôi thi nhau nhặt, mỗi ngày mỗi đứa cũng nhặt được chừng vài trăm tờ. Khi lượng vé số đã lên tới vài cân thì cũng vào khoảng gần ngày ông Táo về trời [...]” Dân chúng cuồng xổ số đến mức những ai không có tiền mua cũng ra nhặt vé như một biểu hiện của “hội chứng sợ bỏ lỡ.”

Bộ phim Người Cầu May châm biến thực trạng "nghiện" vé số lúc bấy giờ.

Triển khai nghiêm ngặt nhưng hệ thống xổ số miền Bắc cũng kéo theo một số hệ lụy tiêu cực như ở miền Nam. Trong bối cảnh kinh tế trình trệ, mọi mặt hàng đều được kiểm soát chặt chẽ bằng tem phiếu, xổ số nổi lên như một trong số ít loại hình tiêu dùng tự do — sự tự do ấy khiến một bộ phận người dân xem đây là "tấm vé" thoát nghèo và biến nhiều người con bạc bất đắc dĩ.

Bộ phim Người Cầu May của đạo diễn Tự Huy châm biếm hiện thực này qua nhân vật Khiển, một cán bộ về hưu mơ ước trúng xổ số độc đắc. Càng chơi, ông càng thua lỗ, nhưng vẫn không ngừng ám ảnh với những con số, đến mức đuổi theo đoàn xe đám ma để tìm cho đúng con số trời cho.

Xổ số nói gì về xã hội chúng ta?

Hậu thống nhất, hệ thống xổ số kiến thiết cả nước cũng được gộp chung lại thành một, với ba đơn vị chính đại diện cho ba miền Bắc-Trung-Nam. Từ đó đến nay, cục diện xổ số Việt Nam đã có nhiều thay đổi để đồng hành với những biến chuyển của xã hội.

Hãy thử quay về thập niên 80, khi ảnh hưởng từ giai đoạn cấm vận khiến việc mua sắm hàng hóa nhập khẩu là một điều vô cùng xa xỉ. Do đó, các đơn vị xổ số đã tạo thêm điều khoản “đặc quyền” dành cho ai trúng giải đặc biệt: họ được mua các mặt hàng ngoại nhập như tivi cát-sét, tủ lạnh,... với giá ưu đãi thấp hơn giá thị trường. Một giải thưởng cực kỳ được săn đón ngày ấy là chiếc xe Honda Super Cub 90, có giá trị lên đến 10 cây vàng, tương đương một căn hộ tập thể rộng 24m² ở Hà Nội thời bấy giờ. Được in lên các tờ vé số để thu hút người mua, chiếc xe này từ đó được toàn dân gọi là xe Honda DD, tức Honda “độc đắc.”

Xổ số với giải thưởng là hàng ngoại nhập (1987). Nguồn ảnh: Báo Giao Thông.

Thật khó có thể tượng tưởng một cơ cấu giải thưởng như vậy trong bối cảnh thương mại hiện tại, bởi chiếc xe máy cao cấp nhất cũng không thể nào so bì được với giá tiền của một căn hộ phố. Bây giờ, vé số được phát hành nhiều hơn, thường xuyên hơn, giải thưởng được ấn định bằng giá trị tiền mặt, người ta cũng không cần phải ngồi canh tivi, loa đài mà có thể dễ dàng lướt điện thoại để biết kết quả xổ sổ bất cứ lúc nào.

Nhìn lại, có lẽ thứ duy nhất chẳng thay đổi mấy là chính là mối quan hệ phức tạp của người Việt với xổ số. Thời nào cũng vậy, những tấm vé nhỏ bé là con dao hai lưỡi — không ít trường hợp dành dụm cả gia sản mua vé sổ để rồi lâm vào cảnh nợ nần, gia đình tan nát; song chúng cũng mang theo hy vọng, niềm tin về một tương lai tương sáng hơn cho cả người bán lẫn người mua.

Một tờ vé số đặc biệt được in vài ngày trước ngày thống nhất đất nước.
Kỳ xổ số này không bao giờ được quay mở. Nguồn ảnh: Báo Tuổi Trẻ.

Nhưng lớn hơn cả vận mệnh của mỗi cá nhân, tôi cho rằng vai trò bất ngờ nhất của xổ số chính là trở thành một phương tiện ghi dấu dòng chảy lịch sử đất nước — một lát cắt của đời sống, một hơi thở của thời đại, gói ghém vừa vặn trong một mảnh giấy, gói ghém vừa vặn trong một mảnh giấy giờ đây gấp gọn trong túi áo mỗi người.

]]>
info@saigoneer.com (Uyên Đỗ. Ảnh bìa: Ngọc Tạ.) Văn Hóa Fri, 20 Dec 2024 16:35:36 +0700
Đặc sắc lễ hội đua ghe ngo — hơi thở tâm linh của cộng đồng Khmer Sóc Trăng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17778-ghe-ngo-hơi-thở-tâm-linh-xứ-chùa-vàng-sóc-trăng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17778-ghe-ngo-hơi-thở-tâm-linh-xứ-chùa-vàng-sóc-trăng

Đến với Sóc Trăng vào một ngày tháng 10 oi nóng, chúng tôi còn đang phân vân không biết khám phá gì tại xứ sở chùa vàng của Việt Nam, thì anh chủ homestay nhiệt tình rủ đi giải nhiệt bên dòng sông Maspéro. Và từ đó, chúng tôi được hòa mình vào một nhịp sống đặc biệt chỉ diễn ra một lần trong năm của vùng đất này: đua ghe ngo.

Trong phố…

Khoảng 5h chiều bên bờ sông Maspéro, không khí bỗng trở nên nhộn nhịp khi những thanh niên từ khắp nơi tụ về. Họ í ới gọi nhau bằng tiếng Khmer — thứ ngôn ngữ xa lạ với tôi và hai người bạn nhiếp ảnh gia người Đức. Đây là các vận động viên của chùa Sangker, những người sẽ tham gia tranh tài trong cuộc đua ghe ngo sắp tới.

5h chiều bên sông Maspéro.

Lễ hội đua ghe ngo có nguồn gốc từ hoạt động quân sự ở xứ Ba Sắc (nay là Sóc Trăng) vào năm 1528. Lúc đó, một vị lãnh chúa đã thành lập ba đội quân thủy chiến để diễn tập vào dịp lễ cúng trăng, trong đó có hai đội sử dụng thuyền giống ghe ngo ngày nay. Ban đầu, các cuộc diễn tập này nhằm bảo vệ vùng đất, nhưng sau thời gian, khi đất nước yên bình, hoạt động quân sự này chuyển thành một hoạt động văn hóa cộng đồng.

Đến năm 1888, chính quyền đã chính thức khôi phục hoạt động này và tổ chức vào dịp lễ Óoc Om Bóc — lễ cúng trăng của người Khmer. Sau mỗi vụ thu hoạch lúa, người Khmer tổ chức lễ tạ ơn các vị thần như thần mặt trăng, thần đất, thần nước vì đã giúp đỡ mùa màng bội thu. Theo thời gian, lễ đua ghe ngo đã trở thành một phần quan trọng trong lễ hội Óoc Om Bóc, vừa mang giá trị tỏ lòng biết ơn đến thiên nhiên vừa là dịp để mọi người tề tựu, vui chơi.

Toàn đội hình xếp thành 2 hàng, mỗi hàng 50 người và cùng nhau khởi động trước khi xuống ghe.

Sau nửa giờ tập trung, đội hình hơn 100 người bắt đầu khởi động theo tiếng còi nhịp nhàng, tất cả đều nghiêm túc trong trang phục đồng nhất in tên chùa mà mình đại diện. Mỗi buổi tập chia thành hai nhóm luân phiên, với mỗi thuyền chứa khoảng 50 tay chèo, thực hiện 8–10 vòng xuôi ngược. Bên cạnh đội chính còn có đội hậu cần lo việc chuẩn bị bữa tối, may đồng phục, tiếp nước và chăm sóc y tế.

Mỗi chiếc ghe được lắp đặt 24 đến 27 thanh ngang, mỗi thanh vừa cho hai người ngồi, tổng thể có thể chứa từ 40 đến 60 người chèo và chỉ huy. Điểm đặc biệt là luôn có ba vị trí điều khiển chính: người ngồi mũi phụ trách phần tâm linh và chỉ đạo kỹ thuật tổng thể, người ngồi giữa và cuối ghe có nhiệm vụ thổi còi điều chỉnh nhịp bơi.

Khi con nước lên cũng chính là lúc ghe ngo thuận dòng được mang đến đúng vị trí đội hình luyện tập. Một nhà sư bắc loa lên điểm danh từng tay chèo sẽ xuống ghe cho đợt luyện tập đầu tiên. Không ai bảo ai, người sắp xếp mái chèo, người bắc thang, tay này dìu dắt tay kia xuống ghe.

Khi ghe đến, nhóm đầu tiên sẽ xuống và luyện tập trước trong nhóm còn lại dõi theo cổ vũ trên bờ.

Khoảnh khắc tiếng còi vang lên, mái chèo đồng loạt đập xuống mặt nước, tạo nên những đợt sóng bọt trắng xóa đập vào mạn thuyền. Trên bờ, đội cổ vũ đánh trống không ngừng, hòa quyện với tiếng reo hò của đám trẻ và tiếng hô nhịp của người chỉ huy trên ghe. Các đội thuộc những ngôi chùa trong trung tâm thành phố có được lợi thế đặc biệt khi được luyện tập ngay trên dòng sông Maspéro — nơi sẽ diễn ra cuộc đua chính thức. Nhờ đó, họ có thể cảm nhận được nhịp độ dòng chảy để phân bố lực một cách hiệu quả.

Đoàn ghe từ xa nhìn như một con rắn khổng lồ trên mặt nước.

Các vị sư là những thủ lĩnh tinh thần của từng đội đua.

Cứ thế, họ mải miết đi từ đầu sông đến cuối sông rồi quay đầu, mỗi lượt đi-về sẽ nghỉ ngơi độ chừng 5–10 phút sau đó lại tiếp tục lượt đi-về mới; đội hình đầu tiên sẽ luyện tập trong tầm 2–3 lượt và sau đó lên bờ thay phiên cho đội hình thứ 2. Khi trời sập tối cũng chính là lúc các tay chèo lên bờ và cùng nhau dùng bữa. Bữa ăn cũng chỉ đạm bạc có hôm là mì gói và trứng, hôm thì cháo trắng và muối giản đơn. Theo Hoàng Tín, một tay chèo trẻ chia sẻ: “Tuy ăn đạm bạc vì điều kiện kinh tế có hạn nhưng chưa bữa ăn nào không vui vì tinh thần.” Dùng bữa xong, từng người một ra về với lời í ới hẹn nhau ngày mai lại luyện tập.

Tiếng trống và hò reo cổ vũ vang không ngớt từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc luyện tập.

Nụ cười sảng khoái sau một ngày luyện tập hết mình của các tay chèo.

Tò mò về những chiếc ghe ngo rực rỡ sắc màu và muốn tìm hiểu cách luyện tập của các đội ở xa sông nước, chúng tôi quyết định đến thăm huyện Châu Thành, cách trung tâm thành phố khoảng nửa giờ đi xe.

Ngoài huyện…

Sau một ngày tản mạn trong các phum sóc (xóm, làng) trải nghiệm đời sống dân dã của bà con Khmer, đúng 5h chiều, chúng tôi bị cuốn theo dòng người đến chùa Phnoroka để tập đua ghe. Vừa bước đến cổng chùa, phía bên tay phải của chúng tôi là một nhà xưởng rộng rãi với 2 chiếc ghe, 1 đã hoàn thiện và 1 đang dở dang.

May mắn thay, chúng tôi được chứng kiến những công đoạn cuối cùng trong việc đóng một chiếc ghe ngo mới. Theo các thợ mộc giàu kinh nghiệm, ghe ngo ngày xưa được làm từ một thân cây khoét ruột nguyên khối. Nhưng ngày nay, do khó tìm được những thân cây sao đủ to và dài, người Khmer đã chuyển sang kỹ thuật ghép ván, một phương pháp đòi hỏi sự khéo léo và tỉ mỉ không kém.

Bên trong xưởng làm ghe ngo của chùa Phnoroka.

Chiếc ghe ngo không đơn thuần là một phương tiện đua tài, mà còn là biểu tượng của niềm tự hào và danh dự. Mỗi chiếc ghe đại diện cho một ngôi chùa và cả cộng đồng phum sóc (xóm, làng) người Khmer. Vì thế, mỗi cuộc đua không chỉ là cuộc tranh tài giữa các tay chèo, mà còn là sự so tài giữa các ngôi chùa, là nơi gửi gắm niềm tin và hy vọng của cả một vùng đất. Chiến thắng của ghe ngo không chỉ mang lại vinh quang cho đội đua mà còn làm rạng danh cả một cộng đồng.

Loanh quanh trong xưởng một lúc lâu, chúng tôi hỏi người dân xung quanh rằng gần đây không có sông thì làm sao có thể luyện tập. Ngay lập tức, họ dắt chúng tôi men theo một lối nhỏ bên hông xưởng để vòng ra sau chùa. Một hồ nước lớn hiện ra với 2 bộ khung ghe như bộ khung xương của một loài cá lớn đang nằm im lìm trên mặt nước. Nếu không thể luyện tập trên một dòng sông thì đây là một giải pháp thay thế.

Họ là những vận động viên nghiệp dư nhưng đầy kỷ luật khi không bao giờ bỏ qua phần khởi động.

Các tay chèo lần lượt ngồi vào vị trí và tiến hành chèo theo động lệnh. Khác với ngày hôm qua khi xem luyện tập trên sông Maspéro, hôm nay chúng tôi có dịp chứng kiến tận mắt từng động tác, cơ bắp của họ được hiển lộ, mồ hôi hòa lẫn với bọt nước trắng tung tóe nhưng không một ai than vãn hoặc rời vị trí. Nhìn cách mà mỗi người nỗ lực đến tiếng còi cuối cùng cũng đủ cho chúng tôi hiểu ý chí, lòng quyết tâm cao độ vì “màu cờ sắc áo” của họ.

Người chỉ huy nhịp nhàng thổi còi hiệu, tay không ngừng cử động nhịp nhàng để bắt nhịp cho các tay chèo.

Thế giới tâm linh của ghe ngo

Việc chọn biểu tượng ghe ngo cũng liên quan đến địa danh, hay quan niệm truyền thống của mỗi chùa. Mỗi chiếc ghe là một tác phẩm nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa và tâm linh. Biểu tượng trang trí trên ghe không chỉ thể hiện bản sắc của từng ngôi chùa mà còn ẩn chứa những ý nghĩa thiêng liêng. Thường thấy nhất là hình tượng những loài vật biểu trưng cho sức mạnh và tốc độ: rắn thần Naga uyển chuyển lượn sóng hai bên thân ghe, Rồng (Neak) oai nghiêm, Hổ (Khla) dũng mãnh, Voi (Đom Rây) hùng tráng, hay Sư tử (Reach Cha Sây) uy vệ. Đặc biệt, mỗi chiếc ghe còn được bảo hộ bởi các vị thần như Srey Khmav, Konseng Sorya, Kontong Khiev.

Đội của chùa Phnoroka chọn bạch hổ làm linh vật cho ghe của mình.

Để tạo nên một chiếc ghe ngo vừa bền vững vừa nhanh nhẹn, người Khmer khéo léo ghép từng mảnh ván và gia cố bằng “cây cần câu” — một hoặc hai cây gỗ sao cứng cáp đường kính khoảng 0,2m được cột chặt vào giữa ghe. Những cây gỗ này không chỉ đóng vai trò như đòn bẩy giúp ghe lướt nhanh mà còn mang ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Việc lắp đặt chúng phải được thực hiện vào giờ lành, bởi những người thợ khỏe mạnh, đạo đức và am hiểu về ghe ngo. Thông thường việc nối hai cây này vào ghe được tiến hành vào giờ tốt, có thể cùng ngày với lễ xuống ghe (hạ thủy), người nối cũng phải là người khỏe mạnh, có đạo đức và sự am hiểu về văn hóa.

Điểm nhấn ấn tượng nhất trên mỗi chiếc ghe là đôi mắt được chạm nổi bằng gỗ ở hai bên đầu ghe. Theo Lĩnh Nam chích quái, đôi mắt này không chỉ để xua đuổi thủy quái, mà còn giúp ghe “nhìn thấy đường” và tránh được hiểm nguy. Nghệ thuật tạo hình này, tương tự như trên những chiếc ghe trong lễ hội nước ở hồ Tonlé Sap (Campuchia), làm cho ghe ngo trở nên sinh động và linh thiêng.

Mâm lễ vật dâng thần linh.

Lễ hạ thủy là nghi thức quan trọng đánh dấu sự ra đời của một chiếc ghe ngo. Trung tâm của buổi lễ là Slath thor, vật phẩm cúng được làm từ quả dừa (Slath thor Đôn) hoặc thân cây chuối (Slathor Chek), được cắm nhang và nến. Thầy cúng cẩn thận đặt Slath thor dọc hai bên ghe, tại vị trí của các tay chèo. Những mâm lễ vật gồm bánh trái, đầu heo hoặc gà vịt được trang trọng bày biện ở đầu ghe, giữa ghe và mũi ghe. Khi giờ lành điểm, vị sư cả hoặc người đứng đầu ban quản trị chùa sẽ chủ trì buổi lễ, thành tâm khấn nguyện các vị thần bảo hộ. Trong không khí trang nghiêm, vị sư cả cầm bình bát nước thơm từ sáp hoa, đi một vòng quanh ghe vẩy nước thanh tịnh, cầu bình an và sức mạnh cho các tay chèo đang đứng vòng quanh.

Tiếp đến là nghi thức cúng đầu ghe với phần trình diễn âm nhạc đặc sắc. Dàn nhạc lễ gồm 5–7 người, sử dụng các nhạc cụ truyền thống như Khưm, Cha pây Đon veng, sáo, trống dặm, đàn cò, đàn nhị và cồng. Ba đến năm bản nhạc cúng được trình tấu trước khi bước vào phần hát lễ. Các bài hát được thực hiện theo trình tự nghiêm ngặt: Sene Kru (cúng bề trên), Chom riêng berk both Tuk Ngua (khúc mở đầu) và Run Tua (hát theo dàn), với lời ca phù hợp với biểu tượng thiêng của từng phum sóc.

Chi tiết hoa văn độc đáo trên ghe ngo. Ảnh: Trần Trung Nhân qua báo Thanh Niên.

Trong quan niệm của người Khmer, mỗi chiếc ghe đều có vị thần hộ mệnh riêng, không chỉ định đoạt sức mạnh của ghe mà còn bảo vệ an toàn cho các tay chèo. Niềm tin này thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người với thế giới tâm linh trong văn hóa Khmer. Ghe ngo, vì thế, trở thành vật thiêng chỉ dùng trong thi đấu, và mọi hoạt động liên quan đều phải được thực hiện theo nghi lễ cầu xin phù hợp — từ lễ xin cây trong rừng, lễ khởi công cho đến lễ khánh thành và đưa ghe về nhà ghe.

Và rồi, cuộc đua bắt đầu và tìm ra người chiến thắng trong vài giờ ngắn ngủi thế nhưng cái bầu không khí nôn nao từ vài tháng chuẩn bị trước đó mới khiến cho vùng đất này càng thêm sống động. Chúng tôi đến Sóc Trăng với tâm thế của những người lữ khách không định hướng, nhưng ra về với sự vấn vương dang dở và lời hứa hẹn quay lại vào mỗi độ tháng Mười. Khi những cơn mưa cuối mùa nhường chỗ cho nắng hanh vàng, khi vầng trăng dần tròn đầy và nước sông dâng cao, cũng là lúc cả vùng đất này sống trong sự phấn khích từ những xóm làng nhỏ bé đến phố thị nhộn nhịp. Tất cả hoà chung một nhịp đập, hướng về dòng sông thiêng nơi từng chiếc ghe chở hy vọng và niềm tin của bà con Khmer sẽ tề tựu.

]]>
info@saigoneer.com (Dương Nhi. Ảnh: Tobias Loehr.) Văn Hóa Tue, 03 Dec 2024 16:41:26 +0700
Lắng nghe hồn quê Nam Bộ qua điệu đờn ca tài tử miệt vườn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17775-lắng-nghe-hồn-quê-nam-bộ-qua-điệu-đờn-ca-tài-tử-miệt-vườn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17775-lắng-nghe-hồn-quê-nam-bộ-qua-điệu-đờn-ca-tài-tử-miệt-vườn

“Không phải là điều gì xa lạ nhưng cũng vài năm không nghe lại, giờ vô tình bắt gặp cảnh quê làm tôi thấy mê cái điệu đờn ca tài tử của miền Tây mình vô cùng.”

Đó là một buổi chiều tà, tía chèo xuồng chở tôi đi thăm ruộng dừa ở phía bên kia sông, nằm khuất trong mấy con rạch nhỏ. Thỉnh thoảng cha tôi vẫn thích chèo ghe thay vì đi xe, dù giao thông đã thuận lợi hơn hồi đó rất nhiều, vì cảnh sông nước hữu tình mà bình yên lắm. Vô tình, dưới hàng bần xanh xen trong đám dừa nước cạnh bờ sông, chúng tôi bắt gặp cảnh đờn ca tài tử trên ghe. Những con người đậm chất Nam Bộ nhâm nhi ly rượu đế giữa miệt sông nước, với những món dân dã; rồi ca mấy bài ca đã quen, đã thuộc nằm lòng, làm tôi thấy khoái cái điệu hò, điệu đờn của thú vui này lắm.

Thế là tôi, một đứa con của miền Tây sông nước, chắc đã nghe đờn ca tài tử từ trong bụng mẹ, giờ phải hỏi thăm, phải nghe kể nhiều chuyện từ những người lớn để hiểu về loại hình văn nghệ độc đáo này.

Đờn ca tài tử trong lối sống Nam Bộ. Nguồn ảnh: Thông tấn xã Việt Nam.

Lâu thật lâu hồi đó, đờn ca tài tử ra đời

Đờn ca tài tử là một loại hình nghệ thuật đặc trưng của miệt vườn sông nước phương Nam, ra đời vào cuối thế kỷ XIX, được giới bình dân tìm tòi sáng tác và trình diễn sau những giờ lao động vất vả.

Theo những thông tin từ thuở sơ khai được bà con đất phương Nam kể lại, đờn ca tài tử bắt nguồn từ nhạc lễ, nhã nhạc cung đình Huế và âm nhạc của các tỉnh Nam Trung Bộ. Các nhạc sĩ, nhạc quan của triều Nguyễn khi phong trào Cần Vương tiến vào Nam đã đem truyền thống ca Huế vào vùng Nam Bộ. Từ đó, những “ngón đờn” điêu luyện của nghệ nhân đã ăn sâu vào máu thịt người dân nơi đây.

Âm sắc của đờn ca tài tử mang nét đặc trưng riêng, không hòa lẫn với bất kỳ loại hình âm nhạc nào khác. Đi kèm với đó là ngôn ngữ dân dã, thấm đượm sắc thái địa phương, góp phần nghệ thuật hóa nét mộc mạc, giản dị của tiếng Nam Bộ, làm bật lên vẻ trữ tình độc đáo. Thời kỳ sơ khai, đờn ca tài tử chủ yếu được trình diễn bởi ban nhạc gồm bộ tứ tuyệt, bao gồm bốn loại đàn: đàn kìm, đàn cò, đàn tranh và đàn bầu. Tuy nhiên, về sau, với sự cách tân, bộ tứ này không còn luôn xuất hiện cùng nhau trong mọi buổi diễn. Tùy vào hoàn cảnh, số lượng nhạc cụ có thể được điều chỉnh, và đàn bầu đôi khi được thay thế bằng guitar phím lõm.

Một ban nhạc đờn ca tài tử Sài Gòn năm 1911. Nguồn ảnh: Wikipedia.

Đến đầu thế kỷ XX, đờn ca tài tử trở thành một phong trào ca nhạc phổ thông tại miền Nam, nhất là tại các địa phương như: Bạc Liêu, Vĩnh Long, Long An, Mỹ Tho, Sài Gòn, v.v. Bạc Liêu là một trong những cái nôi lớn của đờn ca tài tử Nam Bộ. Đến thập niên cuối thế kỷ XIX, ông Lê Tài Khí, với tên thường gọi Nhạc Khị, là người đầu tiên đứng ra thành lập Ban cổ nhạc Bạc Liêu.

Ông đã ra công hiệu đính, hệ thống hai mươi bản tổ, phân chia các bản nhạc cổ của đờn ca tài tử làm bốn loại: Sáu Bắc, Ba Nam, Bốn Oán, Bảy Bài. Ông còn sáng tác những bản mới, bốn bản: ‘Ngự giá đăng lâu,’ ‘Minh hoàng thưởng nguyệt,’ ‘Phò mã giao duyên,’ và ‘Ái tử kê’ của ông đã được giới cổ nhạc tôn xưng là Tứ Bửu (bốn món báu vật) của đờn ca tài tử.

‘Dạ cổ hoài lang’ của nhạc sĩ Cao Văn Lầu, thể hiện bởi nhạc sư Ba Tu và nghệ sĩ Bích Phượng.

Trong rất nhiều loạt bản nhạc khác nhau, ‘Dạ cổ hoài lang’ của Cao Văn Lầu như một điểm sáng trứ danh. Như nhà nghiên cứu Phan Thanh Nhàn đã nói: “Nó đã đi vào cuộc sống nhân quần như một tất yếu của nghệ thuật. Nó trong sáng, bình dị lạ thường. Nó đã và đang xâm thực vào hồn người và ở đó nó đã mọc rễ... Ở thế kỷ này, nhạc sĩ Cao Văn Lầu đã dành cho thế hệ người Việt đương đại ‘Dạ cổ hoài lang.’ Khúc nhạc ấy đã cắm một cột mốc vào lịch sử và phát sáng như một ngôi sao trên bầu trời âm nhạc Việt Nam.” Từ miệt vườn cây trái hay đồng nước mênh mông, người Nam bộ từ trẻ đến già đều có thể hát vài câu trong bài ‘Dạ cổ hoài lang.’

Nhạc cụ đờn ca tài tử. Nguồn ảnh: Thông tấn xã Việt Nam.

Tại quê hương tôi, đờn ca tài tử thường được thực hành trong các nhóm nhỏ, câu lạc bộ hoặc gia đình. Khác với độc tấu, hình thức phổ biến là song tấu, tam tấu hoặc hòa tấu. Dàn nhạc thường quây quần trên bộ ván hoặc chiếu, trong khi người ca có thể trình diễn theo bản gốc cố định hoặc sáng tạo thêm vào lời ca.

Học đờn ca tài tử không phải quá khó, nhưng để thành thạo thì cần sự kiên trì. Tôi vẫn có thể hát được vài bài quen thuộc, nếu được hướng dẫn về nhịp và cách luyến láy. Tuy nhiên, để theo đuổi bộ môn này một cách bài bản, người nghệ sĩ cần ít nhất 3 năm rèn luyện những kỹ thuật cơ bản như: rao, rung, nhấn, khảy, búng, phi, vê, láy, day, chớp, chụp, v.v. Cùng với đó là học cách biểu diễn độc chiếc, tam tấu, tứ tấu hay ngũ tấu với các loại nhạc cụ khác nhau.

Người học ca, dù đơn ca hay song ca, cần nắm vững các bài bản truyền thống trước khi sáng tạo thêm những nhấn nhá, luyến láy tinh tế, sao cho vừa giữ được hồn bài gốc, vừa tạo được nét riêng.

Từ làng quê ra thế giới

Đờn ca tài tử từ lâu đã ăn sâu vào máu thịt của người dân Nam bộ. Tiếng đờn, tiếng ca được cất lên từ các sân khấu khác nhau — trong các lễ hội linh đình, trang trọng đến những không gian bình dân, dưới những gốc dừa hay trên những con đò — một cách rất ngẫu hứng.

Bước sang thế kỷ 20, đờn ca tài tử phát triển mạnh mẽ, lan rộng khắp các tỉnh thành trên cả nước. Loại hình nghệ thuật này kế thừa âm điệu của nhạc tuồng Bắc, nhạc cung đình Huế và nhạc lễ Nam Bộ, tạo nên sự đa dạng nhưng vẫn giữ được nét riêng biệt. Có lẽ chính vì thế, đờn ca tài tử như một dòng chảy gắn liền với lịch sử di cư của người Việt từ Bắc vào Nam, dễ dàng dung hòa với âm nhạc vùng miền nơi nó đặt chân đến.

Sự xuất hiện của các danh ca nổi tiếng cũng góp phần làm đờn ca tài tử thêm sức sống. Trong đó, những nữ nghệ nhân như NNƯT Thanh Tuyết, NNƯT Kim Thanh và Ngọc Đặng, với giọng ca với giọng ca giàu cảm xúc, đã chinh phục khán giả qua nhiều thế hệ. Giọng hát của họ không chỉ bảo tồn mà còn tôn vinh giá trị của dòng nhạc Nam Bộ, đưa nghệ thuật đờn ca tài tử đến gần hơn với công chúng cả nước.

Nhạc tài tử được trình diễn lần đầu tiên tại Pháp năm 1900 trên sân khấu Nhà hát Đông Dương trong Hội chợ Thế giới Paris.
Cléo de Merode múa ở giữa, bên phải là ban nhạc tài tử. Nguồn ảnh: Parisen Images.

Không chỉ nổi danh trong nước, vào khoảng hơn 100 năm trước đã xuất hiện trên sân khấu Paris và Marseille (Pháp). Nhóm đờn ca tài tử do ông Nguyễn Tống Triều làm trưởng nhóm sang Pháp dự Hội chợ thế giới Paris năm 1900. Ở đó, ban nhạc của những người An Nam này đã đệm ‘Vũ khúc Đông Dương’ cho vũ công Cléo de Mérode múa. Sau Hội chợ thế giới Paris, đoàn tài tử Mỹ Tho của ông Nguyễn Tống Triều còn được mời sang Pháp biểu diễn tại Hội chợ thuộc địa 1906 (Marseille) và cũng gặt hái được những thành công vang dội.

Sau khi được UNESCO ghi danh là di sản văn hóa phi vật thể vào ngày 5/12/2013, đờn ca tài tử được giữ gìn và truyền dạy cho các thế hệ kế tiếp bởi người dân và các nghệ sĩ, nghệ nhân. Các địa phương ở Nam Bộ từ cấp xã, phường, thị trấn đến cấp tỉnh, thành đang có nhiều cố gắng để bảo tồn và phát huy giá trị di sản.

Nhiều câu lạc bộ, nhóm sinh hoạt đờn ca tài tử được thành lập. Các cuộc thi, liên hoan đờn ca tài tử thường xuyên được tổ chức. Festival đờn ca tài tử hiện được tổ chức luân phiên ở 21 tỉnh thành phía Nam, là sân chơi cho các tỉnh, thành giao lưu, trao đổi và học hỏi. Đờn ca tài tử còn gắn liền với phát triển du lịch ở miền Tây.

Doodle tôn vinh nghệ thuật đờn ca tài tử của Google ngày 5/12/2023 nhân kỷ niệm 10 năm UNESCO
công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Nguồn ảnh: Google Doodle.

Có lẽ bởi trong đờn ca tài tử, ta bắt gặp đủ loại tình cảm thiêng liêng: tình yêu quê hương đất nước, tình yêu đôi lứa, tình cảm gia đình giữa cha mẹ và con cái, tình bạn tri kỷ, và cả tình anh em máu mủ ruột rà. Ca từ và nhạc điệu, giữa người ca và người đờn, như hòa quyện vào nhau, khiến những ai đã trót yêu mảnh đất miền Tây cũng phải thấm thía. Với tôi, những câu chuyện vui hồi nhỏ ngồi nghe ông nội hát đơn ca tài tử, theo ghe cha đi thăm ruộng bắt cá chài tôm, cảnh tượng bữa chiều quê với mâm nhậu dân dã cùng những người thân quen xóm giềng ngồi nhâm nhi vừa đờn ca, vừa nói chuyện thân tình đã đậm sâu trong ký ức.

Thời ấy làm gì có karaoke, cũng chẳng phải nhà nào cũng sắm đủ nhạc cụ. Vậy đó mà với cái chén đôi đũa, chiếc thùng nhựa là đủ để “ban nhạc miệt vườn” hoà tấu, cùng ca cùng hò sảng khoái. Với tôi đờn ca tài tử là một ngôn ngữ đậm đà nói lên tính cách người miền Tây hào sảng, chân chất. Ở đâu cũng có thể ca, dễ vui, dễ truyền và dễ tiếp chuyện nhau.

Bộ tem “Đờn ca tài tử - Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại.” Nguồn ảnh: viettimes.

Đờn ca tài tử giữa dòng chảy hiện đại

Chẳng dễ dàng để những giá trị truyền thống của đờn ca tài tử có thể hòa cùng nhịp điệu của thời đại mới. Nhưng tôi vẫn luôn cảm nhận những điều tưởng chừng chỉ có thể sống cùng thế hệ trước vẫn đang len lỏi vào cuộc sống hiện đại.

Hiện nay nếu muốn học đờn ca tài tử, có rất nhiều chương trình bài bản với các giảng viên là nghệ sĩ có tâm và có tài. Chẳng hạn như đều đặn mỗi cuối tuần tại Trung tâm Văn hóa quận Ninh Kiều, các học viên lại đến lớp học miễn phí của Nghệ nhân Ưu tú Ái Hằng. Đây là lớp học khá đặc biệt với “biên độ tuổi” của học viên khá rộng, từ vài tuổi đến hơn 70 tuổi. Người học đến từ nhiều ngành nghề, độ tuổi — có người vì yêu thích, có người học để hỗ trợ công việc. Dẫu khác biệt về mục đích, họ đều chung niềm đam mê và tâm huyết với bộ môn này. Còn ở Sài Gòn, có Câu lạc bộ Đờn ca tài tử với 2.000 nghệ sĩ gạo cội đang hoạt động tích để xây dựng điểm biểu diễn đờn ca tài tử định kỳ để phục vụ người dân và du khách.

Bản phối hiện đại của ca khúc ‘Dạ cổ hoài lang’ trong chương trình Anh Trai Vượt Ngàn Chông Gai (2024).

Đáng chú ý, nhiều trường học cũng đưa đờn ca tài tử vào chương trình ngoại khóa để giới thiệu đến thế hệ trẻ. Như hoạt động học đờn ca tài tử của học sinh Trường THPT Nguyễn Chí Thanh (xã Trường Tây, Hòa Thành, Tây Ninh) là một ví dụ. Những lớp học này không chỉ giúp các em hiểu hơn về văn hóa dân tộc mà còn khơi dậy niềm đam mê với nghệ thuật truyền thống. 

Cá nhân tôi từng xúc động khi xem những thước phim nói về đờn ca tài tử trong chương trình truyền hình thực tế 2 ngày 1 đêm mà mình luôn yêu thích. Những câu chuyện lịch sử, âm thanh quen thuộc của nét đặc sắc miền sông nước được tái hiện và trân trọng. Tất cả làm tôi càng tin rằng, dù ở những năm tháng hiện đại, nhiều dòng âm nhạc phù hợp với thị hiếu người trẻ xuất hiện, thì đờn ca tài tử vẫn sẽ tồn tại ở đó, trọn vẹn trong từng ca từ, thanh âm.

]]>
info@saigoneer.com (Thảo Nguyên. Ảnh bìa: Ngọc Tạ.) Văn Hóa Fri, 29 Nov 2024 15:51:41 +0700
Hồi tưởng về văn hóa chợ quê xưa chân chất trong thời đại thương mại điện tử https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17766-hồi-tưởng-về-văn-hóa-chợ-quê-xưa-chân-chất-trong-thời-đại-thương-mại-điện-tử https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17766-hồi-tưởng-về-văn-hóa-chợ-quê-xưa-chân-chất-trong-thời-đại-thương-mại-điện-tử

Bền bỉ tồn tại trong cuộc sống thường nhật, những ngôi chợ quê cũ không đơn thuần chỉ là nơi mua bán, mà còn là những mảnh ghép khó phai về tuổi thơ, những vui vầy sắm sửa ngày lễ và cả những câu chuyện khó nhọc về kiếp mưu sinh của bao nhiêu mảnh đời. 

Dù là kiểu buôn bán “chất phố” hay là “rặc” phong cách của người vùng quê thì chợ nào cũng có những nếp văn hoá thật đẹp. Nhưng so với chợ Sài Gòn luôn nhộn nhịp với những gian hàng xum xuê, đầy đủ sản vật từ khắp mọi nơi quy về đất phố, thì chợ quê trong ký ức của tôi đượm chất dân dã và mộc mạc hơn biết bao.

Rời mảnh đất quê hương cũng đã mấy năm, chợ với tôi không còn là một hình ảnh quen thuộc mỗi ngày như hồi còn nhỏ, lẽo đẽo theo mẹ lựa bó rau, con cá nơi hàng quen của thím Ba, dì Bảy. Giờ đây khi những cửa hàng tiện lợi, siêu thị mọc lên khắp mọi nẻo đường, len lỏi về các ngóc ngách của quê hương, dường như sự sầm uất của chợ quê cũng đã bớt đi nhiều, nhưng ý nghĩa của nó đối với bao thế hệ thì vẫn còn đậm đà lắm.

Mỗi lần có dịp trở về nhà, sáng sớm tôi lại cùng mẹ trên con xe quen thuộc, ghé ăn một tô cháo lòng nóng hổi ở đầu chợ, rồi đi vòng khắp chợ quê để mua đủ mấy món ngon chỉ chợ quê mới có. 

Tôi nhớ hoài con đường đi học mấy năm cấp 1 cấp 2 đều đi ngang chợ làng, nên dường như tôi thuộc nằm lòng từng khu hàng quán bán món gì của ai. Đâu chỉ là tô cháo lòng, mà bánh bao, bánh mì, bánh đúc, bánh canh, chè ngọt, tàu hủ thơm — mấy vị ngon đó dễ gì mà tôi quên được. Chỉ là giờ đây chợ cũng khác xưa nhiều, có cô chú còn giữ hàng quán ngày xưa, có người cũng đã vắng bóng mấy năm, nên nếu có thèm thì chỉ có thể nhớ vậy thôi.

Theo Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học, chợ được định nghĩa là “nơi công cộng để đông người đến mua bán vào những ngày, buổi nhất định.” Nhưng xét diện mạo mới của chợ trong đời sống hiện này, có thể thấy tình hình thực tế đã vượt xa định nghĩa ở trên. Chợ có sự phát triển nhanh chóng từ lúc sơ khai, tự phát đến mức độ có tổ chức, quy mô và được kiểm soát bởi địa phương.

Chợ cũng đi vào nền văn học Việt, trở thành một đề tài diễn tả biết bao tâm trạng của con người. Như khi Nguyễn Trãi lắng nghe những thanh âm một đời sống hòa bình, no ấm của muôn dân, chợ đã xuất hiện: “Lao xao chợ cá làng ngư phủ” (Bảo kính cảnh giới số 43). Hay sau này, Nguyễn Khuyến, nhà thơ của làng cảnh Việt Nam đã như hoạ nên một bức tranh chợ Đồng, thể hiện tình cảm của ông với quê hương:

“Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét
Nếm rượu tường đền được mấy ông
Hàng quán người về nghe xao xác
Nợ nần năm cũ hỏi lung tung.”

Nhà thơ Đoàn Văn Cừ thì đã mở đầu bài thơ ‘Chợ Tết’ bằng những câu thơ ấm áp, đầy màu sắc:

“Dải mây trắng đỏ dần trên đỉnh núi
Sương hồng lam ôm ấp nóc nhà gianh
Trên con đường viền trắng mép đồi xanh
Người các ấp tưng bừng ra chợ Tết.”

Qua đó cũng thấy được chợ truyền thống mang đậm nét văn hóa làng xã. Cố Giáo sư Trần Quốc Vượng cho rằng chợ không chỉ nằm trong phạm trù kinh tế đơn thuần, mà còn có sự giao lưu tình cảm gắn liền với các giá trị ứng xử trong văn hóa người Việt. Có lẽ vì thế mà khi đi du lịch, người ta sẽ thường ghé thăm chợ vì ngoài việc mua được sản vật địa phương còn là cách cảm nhận nền, nếp văn minh của địa phương đó, cốt cách đôn hậu của con người ở một vùng đất.

Mỗi dịp vài người bạn về quê tôi chơi, tôi nhất định phải dẫn đi trải nghiệm chợ quê, ngắm nghía hàng quán, sống cùng nhịp sống thường nhật, và ăn những món ăn đặc sản, dân dã khiến tụi nó dễ hình dung hơn về nơi tôi lớn lên. Khi được nhắc lại, tụi bạn tôi lại thèm tô cháo lòng nóng hổi đầu chợ.

Thế mới thấy muốn hiểu về một vùng đất dễ dàng hơn thì cứ đi chợ sẽ rõ. Không chỉ chợ quen ở quê, mà khi ghé thăm chợ ở nơi khác qua những lần du lịch, công tác, tôi đều bắt gặp những sản vật đậm phong vị vùng miền, bó rau rừng không rõ hết tên, giọt mật ong bạc hà núi đá, cái bánh bò thốt nốt, dĩa bánh tằm cay hay nắm xôi vò thơm mùi nước cốt dừa. Chợ như một tấm bản đồ ẩm thực thu nhỏ, gói trọn hết món ngon ở một vùng đất, dù bình dị nhưng lại rất đặc biệt.

Tất nhiên đã nhắc đến chợ thì người ta sẽ nghĩ ngay đến ẩm thực nhưng với tôi thì có một điều cũng không thể không nhắc đến, đó là âm thanh chợ. Những thanh âm quen thuộc được tạo nên bởi ngôn ngữ đậm chất địa phương như một bản hợp âm vùng miền, sống động nhưng cũng đầy hối hả. Trong sự trộn lẫn âm thanh đó, lẫn cùng tiếng va đập chan chát, tiếng dao chặt thịt, tiếng cá quẫy mạnh trong thao, tiếng rao của người bán, tiếng mặc cả, trao đổi rộn ràng.

Mỗi ngày một buổi chợ nhưng dường như thứ âm thanh đó suốt mấy chục năm vẫn vậy, vẫn ồn ào, nhộn nhịp, và chỉ ngớt dần khi chợ sắp tan và dòng người cũng thưa thớt bớt. Chợ như một nơi hợp tình hợp ý để người ta hỏi thăm nhau, nói chuyện đồng áng, mời dự tiệc vui. Trong những lần đi chợ của tôi, chẳng bao giờ thiếu được tiếng gọi hỏi thăm của những cô chú bán hàng, mối quan hệ thân quen suốt mấy chục năm đâu chỉ vì chuyện buôn bán mà còn là cái tình quê chân chất, dễ thương.

Ngày nay, chợ quê đã phát triển rất nhiều so với trước, mẹ tôi kể cách đây mấy mươi năm chợ có quy mô rất nhỏ, thường chỉ vài mươi hộ buôn bán cố định, chợ rất mau tan, chiều tối vắng vẻ đìu hiu lắm. Vì hồi đấy đồng ruộng mênh mông, kênh rạch xa tít tắp, dăm độ nửa tuần mới đi chợ mua thêm đồ dùng cần thiết. Sau này khi giao thông thuận lợi thì đi chợ cũng trở thành một nếp sống quen thuộc hơn rất nhiều.

Nhưng theo nhịp sống hiện đại, trong nền kinh tế ngày càng phát triển như hiện nay, ai cũng hiểu rằng nếu không hội nhập và đổi mới thì rất dễ bị thay thế, nên để có thể giữ lại những ngôi chợ truyền thống, các địa phương cũng đã có cho mình những chuyển đổi trong mô hình phát triển chợ. Đặc biệt, các loại hình kinh doanh bán hàng online, cửa hàng tiện ích hay siêu thị, trung tâm thương mại cũng có tác động không nhỏ tới hoạt động của chợ truyền thống, khiến cho thị phần chợ ngày càng mất đi sự tồn tại vốn có.

Có lẽ vì thế, trong chừng mười năm trở lại đây, địa phương có nhiều hoạt động thu hút doanh nghiệp đầu tư, quản lý thì phần lớn các chợ trên địa bàn được nâng cấp cơ sở hạ tầng xuống cấp, cần được cải tạo. Với lối sống quen thuộc đã gắn bó suốt mấy chục năm, thì mẹ tôi, bà tôi vui mừng nhiều khi thấy chợ được đổi mới, vì với họ dù có nhiều dịch vụ mua hàng hoá hiện đại, thì đi chợ vẫn là niềm vui, là thói quen khó bỏ, là điều chẳng thể nào thay thế được.

Ngoài ra việc thu hút khách du lịch cũng là cách giải quyết bài toán về lượng khách mua sụt giảm vừa giúp tiểu thương kinh doanh ổn định, “bám chợ-giữ nghề” vừa góp phần tạo thêm nhiều loại hình du lịch mới lạ cho địa phương. Giờ đây chợ không chỉ là để bán buôn mà còn là cách địa phương bảo tồn di sản bản địa. Như đi du lịch Mũi Né thì phải đi chợ làng chài ở Hòn Rơm; đi Sóc Trăng thì ghé chợ nổi Ngã Năm, hay qua Đà Lạt mà không ghé chợ Đà Lạt là hành trình chẳng mấy trọn vẹn.

Ngoài những hình thức chợ quen thuộc diễn ra hầu như mỗi ngày thì cũng có những loại hình chợ rất đặc biệt mỗi năm một lần. Như chợ Viềng Nam Định chỉ mở duy nhất vào đêm mùng 7 rạng sáng–mùng 8 tháng Giêng hàng năm, đón mọi người về chơi với ý nghĩa “mua may bán rủi.” Người Việt mình còn có loại hình chợ phiên được họp theo tuần, theo tháng, hoặc theo quý. Mỗi chợ phiên như thế có thể có những mặt hàng đặc sản riêng biệt ở vùng miền, tạo nên một không gian văn hoá đầy tính cộng đồng hiếm có.

Chợ làng chài Mũi Né. Ảnh: Dân Trí.

Chợ Viềng Nam Định. Ảnh: Dân Trí.

Chợ nổi Ngã Năm Sóc Trăng. Ảnh: Alberto Prieto.

Dù chợ lớn chợ nhỏ, dù là nổi tiếng cỡ biểu tượng một vùng đất, hay đơn giản chỉ là nơi bà con tụ họp rồi bán buôn, thì chợ nào cũng ẩn chứa nhiều điều thú vị thấm sâu vào ký ức. Cứ vậy đó, mỗi thời một kiểu chợ, mỗi vùng miền lại họp chợ theo một hình thức khác nhau, nhưng chỉ cần là chợ quê mình, là những điều đã theo mình lớn, đã nuôi dưỡng tâm hồn mình thì lúc nào cũng ẩn chứa muôn điều thú vị.

Tôi luôn tin rằng dù cho có nhiều loại hình mua bán hiện đại xuất hiện thì chợ vẫn sẽ tồn tại bền bỉ qua lối sống thường nhật, giữ gìn qua nếp sống của các bà các mẹ. Và tôi cũng hiểu rằng để giữ gìn một lối sống văn hoá truyền thống thì không chỉ cần giữ gìn mà còn cần phát huy và lan tỏa những vẻ đẹp đặc trưng, lan tiếng thơm đi xa và hội nhập vào dòng văn hoá hiện đại.

]]>
info@saigoneer.com (Thảo Nguyên. Ảnh bìa và cắt ghép hình ảnh: Ngọc Tạ. Minh họa: Dương Trương.) Văn Hóa Mon, 18 Nov 2024 16:00:00 +0700
Dù có đi phương nào, nơi đâu có thùng xốp dán băng keo, ở đó có Việt Nam https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17750-dù-có-đi-phương-nào,-nơi-đâu-có-thùng-xốp-dán-băng-keo,-ở-đó-có-việt-nam https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17750-dù-có-đi-phương-nào,-nơi-đâu-có-thùng-xốp-dán-băng-keo,-ở-đó-có-việt-nam

“If you know, you know.” (Ai hiểu thì hiểu)

Đây là bình luận tôi tình cờ đọc được trên một diễn đàn mạng khi có người hỏi vì sao các chuyến bay từ Việt Nam lại mang theo nhiều thùng các loại trên băng chuyền đến vậy. Ai đã từng đứng chờ lấy hành lý với hành khách người Việt chắc hẳn đã được diện kiến loạt thùng các-tông hay xốp to nhỏ, nhưng lúc nào cũng phủ đầy tên họ, địa chỉ ở California hay Texas được viết bằng bút lông to bản. Thậm chí chính bạn có khi cũng đã từng ngồi soạn hay nhận được một chiếc thùng thân thương như thế.

Không khó để nhận ra vì sao chiếc thùng lại “phủ sóng” khắp năm châu như thế: vì vừa rẻ, vừa tiện lại vừa nhẹ hơn va-li, thùng trở thành phương tiện đắc lực giúp người ta đem quà về cho người thân, bạn bè xa phương. Trái cây khô, cá khô, mì, hạt các loại, bánh tráng, quần áo, tương mắm, gia vị nằm trong hàng ngũ những thức quà thường gặp nhất qua những chuyến bay. Và chiều ngược lại, nếu chiếc thùng được tái chế cho chuyến về, nó lại mang trong mình ít nhất vài hũ thuốc đau đầu, đau bụng cỡ đại từ siêu thị đồ sỉ Costco.

Có nhiều lý do để giải thích cho tình yêu dường như bất tận của người Việt với những chiếc thùng, hơn cả những quốc gia nơi người ta đi du lịch như đi chợ: cộng đồng người Việt hải ngoại đông đúc, tập trung tại nhiều đô thị khắp các châu lục; nguồn lực kinh tế phát triển nhưng không được phân chia đồng đều; và cả sự thiếu thốn về vật chất vào những thập kỷ ngay sau giải phóng.

Nói đi cũng phải nói lại, dù sự có mặt của những chiếc “thùng biết bay” đã trở nên quen thuộc với cả cộng đồng người nước ngoài, đôi lúc ta cũng nên dành chút thời gian để trân trọng những nét văn hóa tưởng chừng như rất tầm thường này. Thùng cạc-tông là hiện thân rõ rệt nhất của tính rộng rãi và quan hệ gia đình khăng khít của người Việt. Đó là cách người Việt bày tỏ tình cảm, qua hành động, qua hiện vật, qua cử chỉ thay vì những lời nói ngọt ngào của phương Tây. Đứng chờ chuyến bay hạ cánh ở sân bay Việt, có lẽ ta ít khi nghe được câu “ba mẹ nhớ con lắm” nói ra thành lời, nhưng chắc chắn sẽ cảm nhận được cái nhớ thương ấy trong chiếc thùng nặng trĩu quà cáp trên xe đẩy.

Ít phi trường nào trên thế giới có hẳn một quầy đóng gói, bọc thùng bằng ni-lông, cho nên sự có mặt của dịch vụ hết sức “bản địa” ở rất nhiều góc khắp Tân Sơn Nhất càng chứng tỏ rằng thói quen mang thùng đi bay đã trở thành nét văn hóa hằn sâu trong đời sống người Việt. Tôi không khỏi cảm thấy hơi ngại khi đi ngang quầy mỗi lần sửa soạn bay khỏi VIệt Nam. Tôi đi lững thững đến bàn check-in chỉ với một va-li kéo duy nhất, giữa biển thùng xốp, thùng cạc tông đủ kích cỡ. Tôi không phải người Việt, nhưng đúng ra tôi nên học tập “truyền thống” này sớm hơn, để bày tỏ tình yêu thương với chính gia đình tôi ở nơi xa, ít khi gặp mặt. Cho nên, trong những ngày cuối cùng trước khi về lại Sài Gòn, tôi đã ngồi lại suy ngẫm xem các bạn tôi ở đó sẽ thích cái gì, để bày tỏ qua chiếc thùng xốp rằng tôi mong muốn gặp lại họ như thế nào.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Paul Christiansen.) Văn Hóa Wed, 16 Oct 2024 16:00:00 +0700
Về An Giang xem lễ hội đua bò truyền thống của người Khmer https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17034-về-an-giang-xem-lễ-hội-đua-bò-truyền-thống-của-người-khmer https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17034-về-an-giang-xem-lễ-hội-đua-bò-truyền-thống-của-người-khmer

Cứ mỗi tháng 8 âm lịch hằng năm, người dân tứ xứ lại có dịp tụ hội về vùng đất Bảy Núi để hòa vào không khí rộn ràng của trường đua dân dã và cổ vũ cho các “chiến ngưu” mà mình yêu thích.

 

Từ lâu, An Giang đã là nơi sinh sống của nhiều đồng bào dân tộc do có nền đất phù sa màu mỡ, phù hợp để canh tác lúa nước. Trong đó, người Khmer là cộng đồng dân tộc thiểu số lớn nhất địa bàn, chiếm khoảng 4% dân số toàn tỉnh, chủ yếu tập trung ở hai huyện ven vùng Bảy Núi là Tri Tôn và Tịnh Biên.

Tại đây, đồng bào dân tộc Khmer vẫn lưu giữ được các tập tục truyền thống giàu giá trị văn hóa, trong đó phải kể đến các nếp sinh hoạt trong mùa lễ Sene Dolta, diễn ra vào tháng 8 và tháng 9 âm lịch hàng năm. Đây có thể xem là ngày Tết của người Khmer, là dịp để người còn sống thể hiện lòng biết ơn với ông bà, tổ tiên và những người đã khuất.

Vào ngày lễ này, người Khmer theo truyền thống Phật giáo thường mang lễ vật đến dâng cho các nhà sư để cầu cho các linh hồn đã lìa thế gian sớm được siêu thoát. Tương truyền rằng vào mùa Dolta xưa, các nông dân cũng thường hay mang bò đến cày cuốc cho ruộng của chùa như một cách làm công ích.

Sau những buổi cày bừa, người nông dân thường hay bắt cặp các đôi bò với nhau để tranh tài, xem bò của ai lực lưỡng, nhanh nhẹn và dẻo dai hơn. Thấy được điều này, các sư thầy đã trao thưởng cho bò bằng những sợi dây nài hoặc những vòng lục lạc đẹp mắt. Qua năm tháng, thú đua bò đã trở thành một tập quán của người Khmer An Giang vào những ngày tết Dolta.

Ngày nay, lễ hội đua bò được tổ chức thường niên ở huyện Tri Tôn, thu hút hàng ngàn người đến xem và cổ vũ. Trường đua cũng được xây dựng với quy mô lớn hơn, với các thí sinh được tăng cường tập luyện và chăm sóc bằng chế độ ăn đặc biệt để đạt phong độ tốt nhất.

Theo thể thức thi đấu hiện đại, các cặp bò sẽ tranh loại trực tiếp với nhau. Cặp bò nào về đích trước và thắng cuộc sẽ được tiếp tục tranh chức vô địch. Những người đua bò, hay còn gọi là “nài” hay “tài xế,” sẽ đứng trên một chiếc bừa để điều khiển đôi bò tranh tài.

Để thắng cuộc, người điều khiển không chỉ cần có thể lực tốt mà phải có “tay lái” hết sức khéo léo, bởi nếu để đôi bò của mình bước lên chiếc bừa của đối thủ, hoặc phóng ra ngoài vòng đua, cặp thí sinh sẽ lập tức bị loại.

Theo quan niệm của người Khmer, việc có đôi bò thắng giải là một điềm may, nên sau khi thắng cuộc, đôi bò sẽ không bị giết thịt hay bán đi. Ngược lại, các “nhà vô địch” sẽ được dân làng giữ gìn như tài sản quý, được chăm sóc kỹ lưỡng để tham gia cuộc đua kế tiếp, như lời gửi gắm hy vọng cho một năm mới nhiều mùa màng bội thu và ấm no gia đình.

Darkroom là một series kể chuyện bằng hình ảnh về vẻ đẹp của cảnh vật, con người Việt Nam và châu Á trên những hành trình xê dịch. Bạn là một phó nháy thích đi đây đó? Hãy gửi ý tưởng về cho Saigoneer qua hòm thư contribute@saigoneer.com.

]]>
info@saigoneer.com (Uyên Đỗ. Ảnh: An Bùi.) Văn Hóa Fri, 20 Sep 2024 12:00:00 +0700
Giữa lòng Sài Gòn, xóm lồng đèn truyền thống Phú Bình giữ hồn Trung thu Việt https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17735-giữa-lòng-sài-gòn,-xóm-lồng-đèn-truyền-thống-phú-bình-giữ-hồn-trung-thu-việt https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17735-giữa-lòng-sài-gòn,-xóm-lồng-đèn-truyền-thống-phú-bình-giữ-hồn-trung-thu-việt

Lồng đèn giấy kiếng, một nét đẹp truyền thống gắn liền với những mùa trăng tròn trong ký ức, vẫn còn được lưu giữ qua bàn tay khéo léo của những người nghệ nhân tại làng nghề lồng đèn Phú Bình nổi tiếng của Sài Gòn.

Rảo bước trong xóm làng nghề lồng đèn Phú Bình ở đoạn đường Lạc Long Quân, phường 5, quận 11 những ngày này, ta sẽ cảm nhận rất rõ không khí Trung thu đang tới gần.

Xóm lồng đèn Phú Bình rực rỡ nhất những ngày Trung thu. Ảnh: Cao Nhân.

Tôi bị thu hút bởi những căn nhà được phủ đầy màu sắc bởi những chiếc lồng đèn thành phẩm đủ hình dạng bắt mắt. Làng nghề nhỏ mang đến cho tôi một cảm giác đầy hoài niệm về Trung Thu hồi đó, nơi những giá trị xưa cũ được gìn giữ như một kho báu giữa lòng phố thị.

Lồng đèn được bày bán. Ảnh: Cao Nhân.

Theo lời kể của những người nghệ nhân nơi đây, vào khoảng những năm 1950 của thế kỷ trước, hàng ngàn người dân từ làng Bác Cổ ở Nam Định đã cùng nhau vào Sài Gòn lập nghiệp, mang theo cả nghề truyền thống của tổ tiên. Làng nghề làm lồng đèn lớn bậc nhất Nam Bộ cũng ra đời từ đó.

Lồng đèn giấy kiếng là sản phẩm đặc trưng của xóm Phú Bình. Ảnh: Cao Nhân.

Ở cái thời hưng thịnh, đâu đó trong những năm 1970-1990, người ta vẫn nhớ nhiều về sự sầm uất của xóm làm lồng đèn, với hàng trăm hộ dân theo nghề để đủ cung ứng những sản phẩm nổi bật cho khắp các tỉnh miền Nam và cả xuất khẩu.

Nhưng theo dòng chảy của thời gian và sự du nhập của những chiếc lồng đèn hiện đại, ngày nay còn rất ít hộ còn giữ nghề-nối nghề. Giờ đây, các hộ gia đình chỉ nhận làm theo đơn đặt hàng chứ không còn bán nhỏ lẻ như trước nữa. Giá thành sản phẩm dao động từ vài chục nghìn đến vài trăm nghìn, những mẫu kích thước lớn giá sẽ có giá cao hơn.

Sự cạnh tranh từ lồng đèn hiện đại chạy pin khiến việc buôn bán lồng đèn thủ công khó khăn hơn. Ảnh: Cao Nhân.

Những đôi tay thoăn thoắt quấn tre, tạo hình, tỉ mỉ dán giấy bóng kiếng, điệu nghệ trong từng nét vẽ trang trí khiến tôi mê mẩn. Những cô chú nghệ nhân bảo với tôi rằng thật ra làm lồng đèn không khó nhưng lại tốn rất nhiều thời gian và có nhiều công đoạn khác nhau.

Lồng đèn được tạo hình từ tre, dán giấy kiếng và vẽ màu để thêm phần bắt mắt. Ảnh: Tạp chí Du lịch TP. HCM.

Để có được một chiếc đèn lồng đẹp và chắc chắn, công đoạn chuẩn bị nguyên liệu ắt hẳn vô cùng quan trọng. Tre làm lồng đèn phải là loại tre già còn tươi, để đảm bảo độ bền và tránh mối mọt. Dán giấy kiếng sao cho đẹp, không bị nhăn để khi vẽ lên sẽ mượt và bóng. Từng công đoạn một, dù nhỏ đến đâu cũng đòi hỏi sự tỉ mẩn, kiên trì qua đôi bàn tay khéo léo của người thợ để có thể cho ra các sản phẩm với những hình thù, màu sắc độc đáo.

Khung đèn ông sao và sản phẩm hoàn thiện. Ảnh: Cao Nhân.

Chị Phượng, một nghệ nhân ở làng nghề Phú Bình tâm sự với tôi rằng: “Thật ra, ai đã làm lồng đèn lâu năm thì sẽ thấy công việc này không có gì khó khăn, điều quan trọng nhất là sự tỉ mỉ và chỉn chu trong từng công đoạn. Điều chị thấy vui nhất là cả nhà cùng nhau làm việc, tạo ra những chiếc lồng đèn đẹp mắt và góp phần giữ gìn nét đẹp truyền thống của dân tộc.”

Đèn được trang trí bằng sơn bột. Ảnh: Cao Nhân.

Tôi ngồi ngắm nghía những chiếc lồng đèn thành hình, sờ vào lớp giấy kiếng bóng loáng mà nhớ lại cái hồi còn nhỏ cũng tham gia hội thi làm lồng đèn rồi nhờ ông làm cho cái lồng đèn ông sao thiệt to mang đến trường, lọ mọ phụ ông cắt giấy, vẽ hình, thích mê. Tự nhiên nhớ lại thấy nhớ mà thương cái nghề này vô cùng, liệu rằng rồi nó sẽ còn tồn tại suốt bao nhiêu năm nữa, và Trung thu sau này tụi con nít còn thấy sắc màu đỏ vàng sặc sỡ kia không?

Chiếc đèn ông sao. Ảnh: Cao Nhân.

Có lẽ đó cũng là nỗi trăn trở của những người trót yêu cái nghề làm lồng đèn nơi đây. Và để giữ lửa cho nghề, người thợ Phú Bình đã tự mình sáng tạo nên những chiếc lồng đèn mới lạ, đẹp mắt, theo xu hướng ưa chuộng của thị trường như hình rồng, cua, cá, thỏ với nhiều chi tiết độc đáo và cầu kỳ hơn.

Bên cạnh hình thức giao thương trực tiếp, các hộ gia đình làm lồng đèn ở làng nghề Phú Bình còn mang sản phẩm lên bán trên các trang thương mại điện tử, mạng xã hội để dễ dàng tiếp cận hơn với người tiêu dùng và lan tỏa hình ảnh của một làng nghề truyền thống.

Nghệ nhân Nguyễn Trọng Bình. Ảnh: Tạp chí Du lịch TP. HCM.

Nghệ nhân Nguyễn Trọng Bình, truyền nhân đời thứ ba của làng nghề lồng đèn Phú Bình chia sẻ: “Năm nay, số lượng đơn hàng tăng đáng kể so với các năm trước. Điều này khiến chúng tôi vô cùng phấn khởi. Từ tháng 3, ngay sau khi Tết Nguyên đán kết thúc, chúng tôi đã bắt đầu tất bật làm việc. Trong khi đó, những năm trước, phải đến tháng 5 hoặc tháng 6, chúng tôi mới nhận được những đơn hàng đầu tiên.”

Một đơn hàng lồng đèn truyền thống được gửi đi. Ảnh: Cao Nhân.

Cô Nguyễn Thị Tươi, 60 tuổi, cũng bảo với tôi rằng: “Thương hiệu lồng đèn của gia đình đã tồn tại hơn 20 năm. Cửa hàng lồng đèn cô Tươi may mắn được mọi người yêu mến nên mỗi năm vẫn còn duy trì được cái nghề này. Những thế hệ sau của gia đình cũng đang cố gắng quảng bá hình ảnh thương hiệu gia đình để mọi người biết nhiều hơn đến lồng đèn Trung thu truyền thống.”

Tôi vui mừng lắm khi nghe những thông tin khả quan về tình hình kinh doanh lồng đèn của các tiểu thương nơi đây, bởi còn nghề là còn làng. Cứ như vậy, suốt hàng chục năm qua và rất nhiều năm nữa, những người thợ yêu nghề tiếp tục được thổi hồn vào biết bao chiếc lồng đèn, gìn giữ nếp sống quen thuộc để tuổi thơ của ai cũng có đủ vị đủ sắc màu Trung thu.

]]>
info@saigoneer.com (Thảo Nguyên.) Văn Hóa Tue, 17 Sep 2024 12:00:00 +0700
Những cô Mía muôn năm cũ, hồn ở đâu bây giờ? https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17734-những-cô-mía-muôn-năm-cũ,-hồn-ở-đâu-bây-giờ https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17734-những-cô-mía-muôn-năm-cũ,-hồn-ở-đâu-bây-giờ

Người ta thường nói một người chết sẽ đi hai lần: một lần khi nhịp tim ngừng đập, lần nữa khi bóng hình họ nhạt nhòa trong ký ức người đời. Nếu vậy, liệu cô Mía của Sài Gòn, với nụ cười bí ẩn và mái tóc xoăn đặc trưng, có đang dần rơi vào quên lãng?

Xe nước mía truyền thống với hình vẽ cô Mía. Minh họa: Rồng Phạm.

Hình ảnh cô Mía với mái tóc uốn xoăn tít, chiếc áo sơ mi cổ bẻ và nụ cười mỉm chi chắc hẳn đã quá quen thuộc với người Sài Gòn. Nhưng hỏi thật, đã bao lâu rồi bạn chưa thấy lại hình ảnh ấy trên những chiếc xe nước mía rong ruổi khắp thành phố?

Nguồn gốc của bức tranh trên những chiếc xe nước mía khắp thành phố đã bị lãng quên theo thời gian, không còn biết được liệu người đã truyền cảm hứng cho hình ảnh đó đã qua đời hay không, hay thậm chí có phải là một người thật hay không. Vài năm trước khi chúng tôi đăng tải bài viết về việc tìm kiếm danh tính của cô Mía, hình ảnh cô gần như phủ sóng tất các xe nước mía của thành phố. Là một người đi bộ thường xuyên, đã từng có thời tôi nhìn thấy bóng dán cô Mía ở khắp mọi nơi, từ các hẻm ở những quận xa xôi đến các đường phố trung tâm thành phố. Vì vậy, khi chúng tôi cần chụp vài bức ảnh cho một dự án tháng này về nước mía, tôi đã nghĩ sẽ rất dễ tìm thấy cô ấy.

Thật đáng tiếc, tôi đã đi qua hơn một chục xe nước mía trên đường đến văn phòng của Saigoneer mà không thấy cô Mía nào. Hầu hết các xe đẩy đều có chữ dán đơn giản, được sản xuất hàng loạt và trang trí bằng những hình dán trái cây không có gì đặc biệt. Vài xe đẩy kim loại trưng dụng hình ảnh chụp lấy từ mạng miêu tả nhân vật uống nước mía trên phông nền màu sắc đậm chất thập niên 2000. Cô Mía thân thương đã đi đâu mất rồi?

Các thành viên của Saigoneer đã lặn lội khắp nẻo đường thành phố và tìm ra một vài chiếc xe đẩy nước mía còn mang hình bóng cô Mía, nhưng những hình ảnh ấy đã bị phai màu và nhòe nét trước thời tiết nắng gió khắt nghiệt. Lại một kịch bản quen thuộc đang diễn ra ngay trước mắt chúng ta: những loại hình nghệ thuật thủ công như vẽ tranh quảng cáo bằng tay đang dần bị mai một, nhường chỗ cho những loại hàng hóa đại trà, miễn sao sản xuất nhanh và rẻ. Tuy nhiên, giữa rừng xe nước mía na ná nhau, 10 xe như 1, chúng tôi chợt bắt gặp một chiếc xe có bức tranh cô Mía với lớp sơn còn mới tinh, thắp lên hy vọng rằng đâu đó ngoài kia vẫn có những người trân trọng những giá trị xưa, dẫu cho đó có là những giá trị bị cho là đã lỗi thời.

Ảnh: T.N.

Trưởng thành là quá trình chấp nhận những thay đổi, trong đó có cả việc tạm biệt những người bạn từng gắn bó. Sự ra đi của những người nổi tiếng, những nghệ sĩ, hay vận động viên mà chúng ta yêu mến luôn để lại một khoảng trống lớn. Nhưng mất đi một người đáng lẽ có thể “bất tử” chỉ vì công chúng không còn quan tâm về họ nữa, có lẽ chính là bị kịch lớn nhất.

Minh họa: Hannah Hoàng.

]]>
info@saigoneer.com (Paul Christiansen. Ảnh: Alberto Prieto.) Văn Hóa Fri, 13 Sep 2024 15:00:00 +0700
Làng chổi đót 'núp hẻm' cuối cùng tại Sài Gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17293-làng-chổi-đót-núp-hẻm-cuối-cùng-tại-sài-gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17293-làng-chổi-đót-núp-hẻm-cuối-cùng-tại-sài-gòn

Nằm trong con hẻm nhỏ tại đường Phạm Phú Thứ ở quận 6 là “làng” chổi đót cuối cùng của Sài Gòn.

Đi sâu vào con hẻm 180 Phạm Phú Thứ của quận 6, bạn sẽ thấy cả một đoạn đường được áo lên một màu vàng của cây đót. Tiếng lạo xạo của những bó đót va đập, tiếng búa đập và tiếng kéo sợi cước tạo nên một không gian lạ lẫm mà ngay cả người sống ở Sài Gòn lâu như tôi cũng chưa từng thấy.

Những đôi tay thoăn thoắt liên tục làm việc của các thợ làm chổi.

Theo lời kể, “ngôi làng” được những người di dân từ Quảng Ngãi thành lập từ nửa thế kỷ trước và phát triển đến ngày nay. Họ nhập cây đót, một loại cây cỏ hay mọc trên các triền núi và lưng đồi vùng cao, từ Quảng Ngãi hoặc Gia Lai, thường là thu mua từ những người dân tộc trên các bản làng.

Thời điểm đó, chổi đót rất thịnh hành vì tính tiện lợi và nhu cầu sử dụng cao. Những nhân công ở đây chia sẻ rằng họ thường nhận được các đơn đặt hàng xuất khẩu chổi tới nhiều quốc gia, tiêu biểu như Singapore và Mỹ.

Sự phát triển của công nghệ đã vô tình đẩy cuộc sống của những người làm chổi đót rơi vào cảnh bấp bênh. Giờ đây, việc mua một chiếc máy hút bụi không còn quá khó khăn, lại còn được bảo hành trong trường hợp hư hỏng. Nghề làm chổi vì vậy mà ngày càng thất thu trong khi giá một cây chổi chỉ vỏn vẹn 20.000–50.000VND một cây.

Một nhân công đang tước sợi đót, bụi đót rơi ám vàng cả con hẻm.

Để sản xuất ra một cây chổi cần rất nhiều công sức và giai đoạn. Đầu tiên, thợ phải chọn các bông đót chất lượng nhất để tước và cột thành từng bó nhỏ. Mỗi bó nhỏ này sẽ có một vài bông có cuống dài hơn, nhô ra hẳn để làm cán chổi.

Những người phụ nữ khéo tay sẽ đảm nhận công đoạn tước bông và cột lại thành bó.

Bàn chân lẫn đầy bụi đót và bụi đường của những thợ làm chổi.

Sau đó, tầm 20 bó nhỏ sẽ được quấn lại với nhau để tạo thành bó lớn, gọi là bó chổi thô. Những công đoạn sau sẽ là quấn băng quanh cán chổi để tạo thành tay cầm chắc chắn; dùng búa đập để các sợ đót dẹt; tề (cắt gọt) lại cho chổi có độ xòe đều.

Cô Trần Thị Thu Hồng, chủ xưởng chổi lớn nhất tại đây chia sẻ: “Có nhiều người cũng nghiên cứu các loại máy móc để dây chuyền hóa làm chổi nhưng mà cái đặc thù của công việc này là phải làm thủ công, mình cầm vào bó chổi mới biết nó chắc hay mỏng, chỗ nào nhiều chỗ nào ít, quấn chặt hay không chặt.”

Bên trái: Những người đàn ông có sức hơn sẽ được phân công đoạn tề chổi. Bên phải: Công đoạn quấn dây kẽm vào các bó chổi nhỏ.

Công đoạn đan từng bó chổi nhỏ lại với nhau vừa cần kỹ thuật và sự nhanh nhẹn để các bó buộc thật chặt.

Vì đặc tính thủ công của toàn bộ quy trình, công việc làm chổi rất cực và gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Nhìn vào đôi tay nhuộm vàng cả móng cùng những vết chai chằn chéo hẳn ai cũng đoán được thâm niên của họ trong nghề. Một người thợ chia sẻ rằng: “Bụi vàng của đót bám vào móng tay lâu ngày kể cả khi cắt móng, móng mới vẫn còn ám váng.” Với các thợ phụ trách bện kẽm, đôi tay họ chi chít các vết hằn của sợi kẽm, ngón tay thậm chí bị nhiều thương tật.

Để làm ra những chiếc chổi chắc, đẹp, vàng ươm mắt là cả một quá trình cực khổ và đầy bụi bẩn của các thợ chổi.

Các chiếc chổi thành phẩm được cột thành bó, sẵn sàng đến tay người mua.

Các thợ ở đây tâm sự với tôi rằng vì cái cực cũng như cái nghèo này mà họ không muốn truyền nghề lại cho con cháu. Tôi hy vọng những tấm hình này sẽ lưu giữ được một phần ký về làng chổi đót cuối cùng tại Sài Gòn trước khi nó biến mất. Mách những bạn có dự định tìm đến những hộ làm chổi, hãy hỏi đường các cô chú trên đường do các hẻm trong khu này thông với nhau.

]]>
info@saigoneer.com (Tuyết Nhi. Photos by Tuyết Nhi.) Văn Hóa Mon, 26 Aug 2024 12:54:00 +0700
Gia đình 3 thế hệ giữ hồn nghề làm đầu lân truyền thống xứ Huế https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17724-gia-đình-3-thế-hệ-giữ-hồn-nghề-làm-đầu-lân-truyền-thống-xứ-huế https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17724-gia-đình-3-thế-hệ-giữ-hồn-nghề-làm-đầu-lân-truyền-thống-xứ-huế

Nằm ở miền Trung, mảnh đất cố đô Huế là cái nôi của nhiều sản phẩm thủ công truyền thống. Ẩn hiện trong từng sản phẩm là những đường nét mộc mạc, thanh thoát mang đậm dấu ấn tâm hồn người nơi đây. Trong số đó, những chiếc đầu lân làm ra từ đôi tay người dân Huế cũng mang những nét đặc trưng riêng.

Một cửa hàng bán đầu lân và đồ Trung Thu trên đường Trần Hưng Đạo, Huế.

Múa lân là môn nghệ thuật không thể thiếu vào dịp Trung Thu cũng như các dịp lễ Tết. Lân tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền, sự may mắn và phát đạt. Đi cùng với môn nghệ thuật này, nghề làm đầu lân cũng được giữ gìn tại một số địa phương trên dải đất hình chữ S. Ở Huế, từ xa xưa, đầu lân đơn giản là món đồ người lớn làm cho trẻ con trong xóm vui Trung Thu. Sau này, khi nhu cầu tăng lên, một số hộ gia đình đã tiếp nối và mở rộng nghề làm đầu lân để kinh doanh. Từ đó, đầu lân Huế cũng được khoác lên mình những diện mạo mới, đa dạng màu sắc, mẫu mã.

Đầu lân đựợc họa lên những chi tiết bắt mắt.

Tôi đến Huế những ngày đầu tháng 8 âm lịch, khi Huế sắp vào thu nhưng nắng vẫn rát da thịt. Dòng sông Hương lững lờ trôi tựa mảnh lụa vắt ngang thành phố thơ mộng. Những hàng cây im lìm giữa trưa hè. Con đường Trần Hưng Đạo dọc theo bờ Bắc sông Hương trở nên rực rỡ hơn bất kỳ thời điểm nào trong năm. Dọc vỉa hè, đầu lân và đồ trang trí Trung Thu được bày bán. Người lớn ngồi trông quầy hàng còn thanh niên hí hoáy gia công sản phẩm.

Con kiệt dẫn vào xưởng đầu lân nhà anh Trương Như Rem.

Bóng nắng đổ lên những vách tường cũ ở một con kiệt nhỏ. Từ đầu đến cuối ngõ treo đầu lân chật kín trên trần, đường đi, sắc màu xanh, đỏ, vàng lấp la lấp lánh. Đây là xưởng sản xuất đầu lân của gia đình anh Trương Như Rem. Trong cái nóng hầm hập, ai nấy đều đang chạy đua với thời gian, mồ hôi ướt đẫm từ đầu đến chân. Thế nhưng không vì sự gấp rút mà những người thợ mất đi sự tỉ mỉ. Những đôi tay cẩn thận trong từng nét vẽ, đường kim mũi chỉ. Họ ngụp lặn trong vải, giấy, màu. Càng cận kề Trung Thu, không khí càng khẩn trương, tất bật.

“Làm không ngơi tay, có ngày làm trắng đêm mới kịp đáp ứng các đơn hàng sỉ đã đặt. Nhiều người mua lẻ ở xa đến tận nơi để tìm được con lân ưng ý,” anh Rem nói.

Anh Trương Như Rem là thế hệ thứ ba trong gia đình duy trì nghề làm đầu lân.

“Mình làm lân cũng hơn 30 năm rồi. Ngày mô cũng làm từ sáng đến tối muộn. Cái nghề ni vất vả như rứa,” anh Rem chia sẻ. Mỗi năm, cơ sở của anh Rem cung ứng ra thị trường khoảng 500 chiếc đầu lân, nếu tính cả các loại phụ kiện Trung Thu khác như múa lân, trống, mặt nạ, quạt… thì con số lên đến 10.000. Cũng như nhiều gia đình khác, xưởng anh Rem phải bắt tay vào làm từ trước rằm tháng 8 nhiều tháng mới kịp đáp ứng các đơn hàng đã đặt sớm. “Có những năm Trung Thu xong chỉ nghỉ một tháng là phải bắt đầu làm trở lại để phục vụ cho Trung Thu năm sau,” anh Rem chia sẻ.

Khuôn sườn đầu lân làm từ tre và giấy.

Nói về quy trình, anh Rem cho hay, mỗi chiếc đầu lân mất 5 đến 6 ngày để hoàn thiện trong điều kiện trời nắng. Các công đoạn cơ bản bao gồm: làm khuôn, dán vải, trang trí, may đuôi lân. Đầu lân là một sản phẩm mang tính nghệ thuật, yêu cầu sự phối hợp hài hòa về màu sắc, cân đối về cấu trúc và đa dạng về chất liệu. Mỗi tác phẩm là độc bản, không con lân nào giống con nào vì được tạo ra hoàn toàn thủ công và là nơi gửi gắm cảm xúc, ý tưởng của người thợ. Đầu lân đa dạng từ mẫu mã, màu sắc, kích thước để phục vụ các nhu cầu khác nhau.

Đầu lân được vẽ họa tiết và đính các chi tiết trang trí.

Họa tiết trang trí trên đầu lân chủ yếu là hình ngọn lửa.

Đầu lân phối hợp nhiều chất liệu, yêu cầu tính sáng tạo và sự tỉ mỉ từ người thợ.

Có hai cách làm khung đầu lân: cách truyền thống là bồi giấy lên khuôn và cách thứ hai là làm bằng khung sườn từ mây tre. Sau khi có khuôn sườn, người thợ đắp các lớp vải và giấy lên rồi phơi khô. Các lớp giấy phải được dán cẩn thận để bề mặt phẳng, nhẵn mịn. Sau khi có khuôn lân hoàn chỉnh, người thợ bắt đầu trang trí lân bằng màu vẽ. Họa tiết được dùng chủ yếu là ngọn lửa. Cuối cùng, đầu lân được hoàn thiện các chi tiết, gắn lông. Mắt là chi tiết quan trọng nhất quyết định thần thái của con lân.

Lân Huế luôn toát lên sự uy dũng, mạnh mẽ. Để đáp ứng thị hiếu ngày càng đa dạng, người thợ luôn tìm tòi, sáng tạo những hoa văn mới bên cạnh những màu sắc và chi tiết truyền thống. Các bộ phận trên đầu lân từ những chi tiết nhỏ nhất như lưỡi, tai, mắt… được gia công cẩn thận để giữ được độ bền chặt khi tham gia vào những màn múa lân sôi động.

Ngoài đầu lân, gia đình anh Rem còn sản xuất trang phục múa lân, trống, mặt nạ…

Anh Trương Như Rem là thế hệ thứ ba trong gia đình duy trì nghề làm đầu lân. Lớn lên với những chiếc đầu lân đầy màu sắc, anh Rem được ba chỉ dạy kỹ thuật và bắt đầu làm lân từ năm 12 tuổi. Anh cho hay, người làm lân phải có niềm đam mê, sự kiên trì bởi tính chất cầu kỳ, công phu, quy trình đòi hỏi nhiều kinh nghiệm, thời gian. Những yếu tố ấy được anh nuôi dưỡng từ thuở bé bởi truyền thống gia đình. Vì công việc này mang tính chất thời vụ nên nhà anh Rem nằm trong số ít gia đình ở Huế còn giữ được.

Đầu lân và sản phẩm trang trí Trung Thu được bày bán nhiều ở đường Trần Hưng Đạo.

Cứ thế, hàng chục năm qua, những đôi bàn tay cần mẫn của người thợ Huế đã góp phần mang những chiếc lân đi khắp mọi miền đất nước, góp niềm vui cho trẻ thơ trong hội trăng rằm.

]]>
info@saigoneer.com (Xuân Phương. Ảnh: Xuân Phương.) Văn Hóa Thu, 22 Aug 2024 11:00:00 +0700
Luận về vàng mã: Khi những thể chế chính trị, xã hội đối lập va chạm nhau trong tàn lửa https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17347-luận-về-vàng-mã-khi-những-thể-chế-chính-trị,-xã-hội-đối-lập-va-chạm-nhau-trong-tàn-lửa https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17347-luận-về-vàng-mã-khi-những-thể-chế-chính-trị,-xã-hội-đối-lập-va-chạm-nhau-trong-tàn-lửa

Hình ảnh vàng mã, đồ cúng đã ăn sâu vào tâm trí của tôi từ trước khi tôi biết chúng là gì. Mỗi dịp đám giỗ ông ngoại, mẹ tôi lại dựng một bát hương to trước sân nhà, và chuẩn bị sẵn một xấp tiền âm phủ để đốt. Tôi cứ nhớ mãi cảnh tượng từng mảnh giấy lần lượt hóa thành tro khói, biến mất vào thinh không như chưa từng tồn tại.

Từ lâu, đốt vàng mã đã là một phần quen thuộc trong đời sống tâm linh của người Việt Nam, cũng như người dân các nước Đông Á như Trung Quốc, Nhật Bản. Tập tục này xuất phát từ niềm tin cổ xưa rằng người đã khuất có thể có một “cuộc sống” sung túc hơn ở cõi âm khi được cúng các loại tiền, vật dụng đã “hóa vàng.”

Đến thời nay, tần suất xuất hiện của tập tục này cũng không thuyên giảm. Dạo qua bất kỳ khu chợ nào ở Sài Gòn, chợ nhỏ lẻ tự phát, hay chợ đầu mối sầm uất như Bình Tây, ta cũng sẽ bắt gặp ít nhất một hàng chuyên bán nhang và vàng mã. 

Ở Việt Nam, việc đốt vàng mà thường được thực hiện vào những dịp như đám giỗ, lễ Tết, v.v. và đặc biệt là vào tháng cô hồn, mùa Vu Lan. Khi ấy, người dân không chỉ đốt tiền và vật phẩm giấy, mà còn soạn hoa quả, mía, kẹo và nhang để cúng dường cho những linh hồn còn lang thang ở trần gian. May mắn hơn vàng mã phải kết thúc số phận trong lò lửa, quà và bánh cúng được theo túi trẻ em về nhà sau những buổi giật cô hồn chớp nhoáng.

Trong quá trình hiểu thêm về câu chuyện đằng sau thói quen đốt vàng mã của người Việt, tôi đã gặp và nhận được sự tư vấn nhiệt tình từ một cô bán hàng ở chợ Phú Nhuận: “Con phải đốt làm sao để nó cháy hết, tại như vậy thì [ông bà] mới nhận được.” Cô không nói thực hành tâm linh này đến từ nguồn gốc triết học hay đạo giáo nào, mà dường như chỉ từ niềm tin vô hình trung của người dân rằng “trên sao thì dưới vậy.”

Mâm đồ cúng, bát nhang và vàng mã là "combo" thường được đặt trước cửa các hộ gia đình và hộ kinh doanh vào tháng cô hồn.

Tuy nhiên, nhà nhân học Heonik Kwon lại cho rằng tập tục này có thể bắt nguồn từ một quan niệm ở Trung Quốc cổ đại — rằng kiếp nhân sinh thực chất là một dạng “vay mượn” nguồn sống từ “ngân hàng địa phủ.” Khi một một người chết đi, con cháu của họ có nhiệm vụ phải trả khoản nợ mà tổ tiên đã mượn.

Một số nghiên cứu khác cũng cho rằng niềm tin này gắn liền với triết lý Nho giáo về đức tính hiếu thảo; nghĩa vụ của con cháu là phải “trả báo” cho tổ tiên — tức giải gánh nặng luân lý từ những điều ác mà họ phạm trong kiếp trước. Và vì có một “ngân hàng” ở thế giới bên kia, con cháu còn sống có thể gửi tiền bạc, vật chất đến tổ tiên đã khuất để trả các khoản nợ ân oán.

Khó có thể xác định được người Việt bắt đầu thực hành tập tục này từ khi nào. Nhưng nhận định chung từ các nhà nghiên cứu là vàng mã du nhập vào Việt Nam dưới ách đô hộ của Trung Quốc, vì tục cúng tiền mã đã xuất hiện ở nước này từ thời phong kiến xa xưa.

Tập tục đốt vàng mã có thể bắt nguồn từ niềm tin cổ xưa rằng khi một một người chết đi, con cháu của họ có nhiệm vụ phải trả khoản nợ mà tổ tiên đã mượn.

Nhắc đến vàng mã truyền thống, chúng ta có thể kể đến những xấp tiền âm phủ được làm từ giấy tre thô màu trắng, có viền mỏng màu vàng hoặc bạc; hoặc hình nộm ngựa, quần áo, giày dép, v.v. Và để đáp ứng với nhu cầu cúng viếng của thế kỷ 21, người ta còn làm ra những loại vàng mã lấy cảm hứng từ đời sống hiện đại, từ trong và ngoài nước.

Trong sách Burning Money, tác giả C. Fred Blake đưa ra dẫn chứng về quá trình “tiến hóa” của vàng mã qua thời gian, trong đó có hai thay đổi rõ rệt nhất: sự xuất hiện của các loại ngoại tệ như dollar và euro; và các sản phẩm hiện đại như điện thoại, xe máy.

Dạo một vòng quanh chợ Tân Định, có thể thấy đô la âm phủ là sản phẩm thống lĩnh các sạp hàng, nhưng những chiếc iPad, iPhone giấy cũng được ưa chuộng kém cạnh. Trong khi đó ở chợ Bình Tây, tôi bắt gặp những tòa lâu đài nguy nga và những bộ quần áo hàng hiệu cao cấp chồng chất. Một mặt hàng được săn lùng khác nữa là combo tất cả những vật dụng mà một người có thu nhập trung lưu thường sở hữu: quần áo hiện đại, điện thoại thông minh, nước hoa, thẻ tín dụng và đồng hồ.

Không chỉ tiền, mà tất tần tật các vật phẩm của thế kỉ 21 như iPhone, xe SH, túi LV và nhà lầu đều được "vàng mã hoá."

Tuy gắn liền với một truyền thống có từ thời phong kiến, việc đốt vàng mã chỉ mới phổ biến trở lại vào cuối thập niên 1980. Tập tục này từng bị nghiêm cấm vào những năm 1970, lấy lý do là “gây lãng phí” và “đi ngược với chủ trương của chính phủ trong việc xây dựng xã hội chủ nghĩa.” Tuy nhiên, khi Việt Nam từ bỏ nền kinh tế bao cấp để theo để theo đuổi nền kinh tế thị trường, tư bản chủ nghĩa, vàng mã cũng mau chóng trở về từ cõi âm. Sau chiến dịch Đổi mới, việc đốt vàng mã cùng những lễ nghi đi kèm lại được hợp pháp hóa. 

Theo nhà sử học Hồ Tài Huệ Tâm, bước đi này là một phần của “cơn sốt tưởng niệm” càn quét Việt Nam lúc bấy giờ. Nhà sử học nhận đinh rằng, lúc này, các công trình tưởng niệm, đền đài, di tích lịch sử được dựng lên ào ạt nhằm góp phần tạo nên một “đường hướng” vĩ mô hơn, “lấy quá khứ làm tiền đề để phát triển và xây dựng tương lai."

Một cách nhìn nhận khác về vàng mã trong xã hội hiện đại, theo tác giả Gates, là “hiện thân của sự xâm nhập của nền kinh tế thị trường bằng con đường tâm linh.” Fred Blake cũng đề cập đến khái niệm này khi so sánh sự khác biệt giữa hình thức sản xuất vàng mã truyền thống và hiện đại. Khi được sản xuất thủ công, vàng mã mang đậm tính biểu tượng và ý nghĩa tinh thần là mang đến sự sung túc cho tổ tiên; còn khi được sản xuất hàng loạt, chúng dễ trở thành một bản sao vô tri vô giác, một sản phẩm không có thành ý sâu xa hơn. Bằng chứng là năm 2010, ngân hàng nhà nước còn phải cấm sản xuất tiền âm phủ sao chép thiết kế của các tờ tiền Việt Nam đang lưu hành, vì tập tục này đã bị lợi dụng để làm cớ in ấn tiền giả.

Liệu ngân hàng địa phủ có bộ phận thu đổi ngoại tệ?

Những năm gần đây, đã xuất hiện những luồng ý kiến lên án tập tục đốt vàng mã, cùng những phiên bản dị tướng của nó, là mê tín dị đoan. Việc dư luận “gán tội” cho vàng mã này phơi bày một nghịch lý của xã hội Việt Nam — đang lay hoay trước ngõ cửa của một kỷ nguyên ngày càng hiện đại, khoa học và tách biệt khỏi tín ngưỡng.

Sau phòng trao Đổi mới, chính sách phát triển đất nước được dẫn đầu cùng lúc bởi hai khái niệm đối lập — “hiện đại” và “truyền thống.” Khi Việt Nam bắt đầu theo đuổi nền kinh tế thị trường, “hiện đại hóa” cũng trở nên đồng nghĩa với việc tăng trưởng kinh tế và tái định hình xã hội. Tuy nhiên, chính phủ lo ngại rằng quá trình hiện đại hóa đất nước sẽ kéo theo những hệ luỵ do ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Vì vậy, để đối trọng với những ảnh hưởng ngoại lai ấy, chính phủ đã kêu gọi người dân quay lại với văn hóa truyền thống, tức xây dựng cho mình một bản sắc dân tộc vững vàng, không lung lay trước những ảnh hưởng tất yếu từ toàn cầu. Sự trở lại hùng hồn của vàng mã cũng chính là chứng nhân cho thời kỳ chuyển đổi nhiều mâu thuẫn này — khi những thể chế chính trị và xã hội đối lập va chạm nhau trong tàn lửa.

]]>
info@saigoneer.com (Thi Nguyễn. Đồ hoạ: Hannah Hoàng, Phan Nhi và Hương Đỗ.) Văn Hóa Sat, 17 Aug 2024 10:00:00 +0700
Chuẩn bị ngày lễ tháng 7: Hiểu phong tục để biết 'thiếu-đủ' https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/16980-chuẩn-bị-ngày-lễ-tháng-7-hiểu-phong-tục-để-biết-thiếu-đủ https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/16980-chuẩn-bị-ngày-lễ-tháng-7-hiểu-phong-tục-để-biết-thiếu-đủ

Tháng 7 Âm lịch vốn là khoảng thời gian có nhiều ngày lễ truyền thống mang đậm màu sắc tâm linh và triết lý nhân sinh từ nghìn xưa, thể hiện rõ nét văn hóa giàu đẹp của dân tộc.

Hãy cùng Saigoneer điểm lại nguồn gốc và ý nghĩa của các nghi lễ, phong tục diễn ra trong khoảng thời gian vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt: Thất Tịch vào mùng 7, đại lễ Vu Lan báo hiếu vào ngày 15, và Tết Trung Nguyên cũng vào ngày rằm của tháng. Hi vọng qua đó, độc giả có thể tự nhìn nhận về độ "thiếu-đủ" trong sự chuẩn bị bản thân.

Lễ Thất Tịch

Lễ Thất Tịch bắt nguồn từ Trung Quốc và được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch hằng năm, đôi khi được người phương Tây gọi là ngày Valentine Đông Á. Lịch sử về ngày này bắt đầu từ thời nhà Hán và gắn liền với tích truyện Ngưu Lang Chức Nữ với nhiều dị bản được lưu truyền cho đến nay. Tại các quốc gia châu Á khác, ngày lễ Thất Tịch được tổ chức với nhiều nghi thức và hoạt động khác nhau: Hàn Quốc có lễ Chilseok, Nhật Bản tổ chức lễ hội Tanabata, và Việt Nam cũng ăn mừng ngày Thất Tịch.

Chuyện xưa kể rằng, Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, chàng đem lòng yêu nàng tiên dệt vải Chức Nữ. Cả hai vì đắm chìm trong tình yêu mà không hoàn thành tốt công việc của mình, khiến Ngọc Hoàng tức giận và đày hai người ra hai đầu dải Ngân Hà, mỗi năm chỉ được gặp nhau vào ngày Thất Tịch (7 tháng 7 Âm lịch) trên chiếc cầu Ô Thước do đàn quạ trời tạo nên. Khi tiễn biệt nhau, đôi uyên ương không ngừng khóc than và nước mắt của họ đã rơi xuống trần gian hóa thành cơn mưa.

Chuyện tình bi thương ấy đi vào văn hóa Việt Nam với một tên gọi nữa là Ông Ngâu bà Ngâu và được dùng để giải thích hiện tượng mưa ngâu — những cơn mưa rả rích và liên tiếp xuất hiện vào đầu tháng 7 Âm lịch hàng năm.

Thiên văn học Trung Quốc cũng gọi sao Vega, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Cầm (Lyra), là sao Chức Nữ; và gọi sao Altair, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng (Aquila), là sao Ngưu Lang. Hai ngôi sao này nằm ở hai đầu con sông Ngân lấp lánh bắc ngang qua bầu trời đêm.

Điểm khác biệt lớn nhất trong ngày lễ Thất Tịch của văn hóa Việt có lẽ bắt đầu vào đời vua Lý Thánh Tông (1023-1072). Lịch sử ghi lại rằng, khi vua ở độ tuổi 42 nhưng vẫn chưa có con để truyền ngôi vị, vì vậy nên đã cầu tự vào ngày 7 tháng 7 ở một ngôi chùa, nhờ đó mà đón tin mừng, sinh ra Thái tử Càn Đức. Cũng bởi lý do này nên hàng năm vào ngày 7 tháng 7  Âm lịch trọng lễ đã được tổ chức ở chùa Hà và trở thành lễ hội cầu tình duyên, con đàn cháu đống, gia đình hạnh phúc.

Người ta tin rằng hai người yêu nhau nếu cùng ngắm sao Ngưu Lang, Chức Nữ trong đêm mồng 7 tháng 7 thì sẽ mãi mãi bên nhau. Ngoài ra, giới trẻ cũng thường truyền miệng nhau rằng ăn chè đậu đỏ sẽ giúp tình yêu đôi lứa thêm bền vững hay người độc thân sẽ tìm sớm được tình duyên cho mình.

Lễ Vu Lan

Lễ Vu Lan (15/7 Âm lịch) là một trong những đại lễ quan trọng của Phật giáo, thường được gọi là lễ Vu Lan Bồn hay lễ Báo hiếu. Đại lễ này bắt nguồn từ một bộ kinh Đại Thừa là kinh Vu Lan Bồn (kinh Ullambana).

Bộ kinh kể về câu chuyện sau: Thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, trong số các đệ tử của ngài có một vị tôn giả tên Mục Kiền Liên (Maudgalyayana), sau này đắc quả A La Hán, thoát khỏi nghiệp sinh tử và có pháp lực thần thông cao cường. Sau khi đắc đạo, Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn để tìm kiếm song thân đã khuất, ngài nhìn thấy mẹ của mình là bà Thanh Đề đã bị đọa làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở. Mục Kiền Liên vô cùng đau xót bèn cầm một bát thức ăn dùng thần lực mang xuống âm phủ cho mẹ. Tuy nhiên, do đói ăn lâu ngày nên khi ăn bà đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành hòn than rực đỏ.

Mục Kiền Liên đành cầu xin Đức Phật giúp đỡ. Đức Phật khuyên rằng đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư tăng mãn hạ, thiết lễ và nhờ chư tăng chú nguyện, mới giúp mẹ thoát khỏi cảnh địa ngục. 

Mục Kiền Liên làm theo lời Đức Phật và đã giải thoát được cho mẹ mình. Đức Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng làm theo cách này. Từ đó, ngày lễ Vu Lan ra đời.

Ngày nay, Vu Lan còn được xem là Ngày của Mẹ ở Việt Nam. Các chùa thường có nghi lễ cài hoa hồng trên áo cho Phật tử tham gia lễ: ai còn mẹ thì đeo bông hồng đỏ, ai không còn mẹ thì đeo bông hồng trắng. Nghi thức này nhắc nhở mọi người phải làm tròn chữ Hiếu. Vu Lan cũng đã trở thành ngày lễ hàng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và các bậc tổ tiên, nhắc nhở mỗi người phải biết trân trọng những gì mình đang có và luôn biết ơn các bậc tiền nhân.

Tết Trung Nguyên

Theo quan niệm dân gian, tháng 7 Âm lịch được gọi là Tháng cô hồn và mang lại nhiều xui xẻo vì đây là khoảng thời gian địa phủ mở cửa cho phép vong linh đến thăm dương thế, vất vưởng khắp nhân gian. Vì thế trong tháng này, người ta sẽ kiêng thực hiện các việc đại sự như ký kết hợp đồng, kinh doanh hay đi đến việc đến bệnh viện, vì lo sợ ma quỷ đến phá. Ngày rằm của tháng là Tết Trung Nguyên hay còn gọi là ngày Xá tội vong nhân với phong tục cúng cô hồn để siêu sinh cho những linh hồn không nơi nương tựa ấy.

Ngày lễ này có nguồn gốc từ Đạo giáo của Trung Quốc, gắn liền với truyền thuyết kể rằng vào ngày 2 đến ngày 14 tháng 7 Âm lịch, Diêm Vương sẽ mở cửa địa ngục để mọi linh hồn đói khát trở về dương thế. Vì thế, các nhà phải cúng thức ăn, thắp nhang và đốt vàng mã ở ngoài sân hay trước cửa nhà để cô hồn không đến quấy nhiễu. Mặt khác, lễ xá tội vong nhân xuất phát từ quan niệm ban phước cho các cô hồn chưa được siêu thoát, vì vậy việc tế lễ không đơn thuần là cầu cúng theo mê tín mà thể hiện tấm lòng của người còn sống với người đã khuất.

Khi nhang vừa hết, chủ nhà mang ra một mâm đồ cúng bao gồm tiền lẻ, bắp rang, khoai lang luộc, cùng các loại bánh kẹo ra đường. Những đứa trẻ trong xóm sẽ chờ đợi để được giật cô hồn, chúng cố gắng giật đồ cúng từ mâm càng nhiều càng tốt. Người ta tin rằng càng nhiều người chia sẻ thức ăn, thì chủ nhà sẽ càng có nhiều may mắn và những đồ cúng ấy ăn vào không bị sao cả. Tuy nhiên, có một điều cần ghi nhớ là món nào khi người khác đã cầm thì ta không nên đụng vào. Và nếu đồ cúng ta giật được lại bị người khác lấy mất thì cũng nên bỏ qua, vì rất có thể đó là do một linh hồn đói khát đang đòi lại thức ăn của mình.

Trong kinh nhà Phật cũng có nói về ngạ quỷ (ma đói) và nghi thức tế lễ bố thí. Đó là câu chuyện về A Nan, một trong mười đại đệ tử và là thị giả của Đức Phật, cùng với một ngạ quỷ tên Diệm Khẩu miệng nhả ra lửa.

Chuyện kể rằng: Một buổi tối, A Nan đang ngồi trong phòng thì thấy một con quỷ tiều tụy với chiếc cổ nhỏ dài và miệng phát ra lửa. Quỷ báo cho A Nan rằng, ba ngày sau A Nan sẽ mất và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ. A Nan hoảng sợ, hỏi nhờ quỷ hướng dẫn tránh khỏi kiếp nạn.

Quỷ nói: "Ngày mai phải thí cho bọn tôi mỗi đứa một chút thức ăn và soạn lễ cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ, còn tôi sẽ được sinh về cõi trên.”

A Nan đem chuyện này báo với Đức Phật. Ngài truyền dạy cho A Nan một bài chú để làm lễ, và tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích trên.

Nói về tháng cô hồn, Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chia sẻ rằng không có tháng nào gọi là tháng cô hồn trong kinh của Phật giáo. Người Phật tử tu tập để trả lại bốn ơn lớn: ơn cha mẹ sinh thành và thầy cô dạy bảo; ơn quốc gia xã hội; ơn tất cả mọi loại chúng sinh; và ơn Tam bảo — Phật, Pháp và Tăng. Riêng trong tháng 7, Phật giáo nặng về ơn cha mẹ sinh thành nhất, vậy nên dân gian ta mới có câu “cúng cả năm không bằng rằm tháng 7.”

Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, người Việt đã kết hợp phong tục này cùng với lễ báo hiếu. Các Phật tử thường tổ chức nghi lễ thả đèn hoa đăng để cầu bình an cho người thân, thể hiện sự hiếu đễ đối với các bậc sinh thành. Nói thêm về việc cúng rằm tháng 7, Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm cho rằng đó là để tri ân, báo hiếu tổ tiên, ông bà, cha mẹ, trên tinh thần của Phật giáo là yêu thương muôn loài, nên khi cúng người ta cúng cả cho những cô hồn không mồ mả, không con cháu hương hoả.

]]>
info@saigoneer.com (Hoàng Hạnh Phương. Minh họa: Hannah Hoàng.) Văn Hóa Tue, 13 Aug 2024 07:41:00 +0700
Nắng mưa trên xe đẩy trái cây, món ăn vặt lâu đời nhất nhì Sài Gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17697-nắng-mưa-trên-xe-đẩy-trái-cây,-món-ăn-vặt-lâu-đời-nhất-nhì-sài-gòn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17697-nắng-mưa-trên-xe-đẩy-trái-cây,-món-ăn-vặt-lâu-đời-nhất-nhì-sài-gòn

Thế giới tự nhiên kỳ diệu rất phong phú những cách thu hút ánh nhìn: công đực xòe chiếc đuôi cánh quạt lung linh, từng chiếc lông vũ họa tiết đôi mắt như lúng liếng mời chào công cái; bạch tuộc đốm xanh chẳng cần ca vũ kịch gì cả, chỉ cần tấm áo xanh biếc là đã đủ răn đe lũ thiên địch rằng có độc đấy, ngon thì cắn vào; trên từng cung đường Sài Gòn đầy gió bụi, “môi trường sống” của xe trái cây, những xe đẩy hãnh diện trưng bày cầu vồng đa sắc làm từ những miếng trái cây nhiệt đới cắt sẵn, vừa tươi vừa mọng nước như sơn hào hải vị trên bàn ăn tiến vua, hấp dẫn người đi đường tấp vào mua ăn giải khát.

Xe trái cây là lát cắt nhiệt đới, trưng bày sản vật vừa rẻ vừa ngon của nước ta.

Xe trái cây đã có mặt ở Sài Gòn tự cổ chí kim, tôi đoán rằng trước cả phở, bánh mì, và siêu thị — bao giờ có quả ngọt và bao giờ có con người đến vùng đất mới sinh sinh, lúc đó có xe trái cây để phục vụ. Chưa hết, tôi đồ rằng bán trái cây gọt là một trong những ngành nghề trường tồn nhất trong thời đại bão giá.

Khi kinh tế trì trệ, người ta có thể từ bỏ giấc mơ chạy theo mẫu iPhone mới nhất, bấm bụng chịu ở nhà thay vì bay nhảy du lịch phương xa, hay thay mỹ phẩm đắt tiền bằng phiên bản rẻ hơn — nhưng tuyệt nhiên ít ai chối từ đĩa trái cây gọt sẵn vừa nhiều vừa hợp túi tiền của các cô chú đẩy xe trái cây dạo.

Minh họa: Ngan Nguyen và Trinh Anh / Behance.

Dưa hấu, đu đủ, thơm, xoài, ổi, cóc, mận, sơ ri: đây là những thành viên cộm cán của bất kì xe đẩy nào, vì chúng có giá thành rẻ, có mặt quanh năm, và cũng dễ bảo quản. Hầu hết các loại trái phổ biến cũng dễ ăn, chín cũng được mà non chua lại càng ngon, càng ăn tốn muối, tốn mắm đường, mắm ruốc.

Các loại trái cây chua rất phù hợp để chấm với muối hoặc mắm.

Dù thường được biết đến với cái tên xe trái cây, nhưng thỉnh thoảng, củ sắn và mía cắt khúc cũng rất được ưa chuộng vào mùa nóng — không cần phải là trái cây, miễn là giòn và nhiều nước. Hơn 30 năm là người Sài Gòn, tôi lớn lên bên xe trái cây, ngày nhỏ nít là nơi tụm năm tụm ba cùng lũ bạn sau giờ học, còn bây giờ, là lựa chọn “low carb” cho những ngày nóng ngồi ở văn phòng nhưng thấy buồn miệng. Thật khó tin rằng xe trái cây đã tồn tại lâu thế nhưng hầu như chẳng bị thay đổi bởi nhịp thay đổi chóng mặt của đô thị. Vẫn chiếc kệ kính chất đá tảng, loạt chai hũ đựng me, cóc ngâm, và đống muối đầy vun, đỏ ối màu ớt xay. Dẫu vậy, những năm gần đây, mía ghim và cóc cắt hình hoa bắt đầu khó tìm hơn.

Trước khi ly nhựa, bao nylon ra đời, trái cây được ghim vào que tre, nên mới có cái tên mía ghim.

Có một sự thật bất thành văn rằng ba mẹ Việt rất hiếm khi bày tỏ tình yêu thương bằng lời, nhưng chỉ cần nhìn vào hành động, ta cũng cảm nhận được phần nào tình gia đình ý nhị ấy. Đĩa xoài cắt gọt gọn gàng đặt ngay trên bàn học cũng ngọt ngào không kém tiếng thì thầm “I love you” khi người ta kết thúc cuộc gọi bên trời Tây. Trên đất Sài Gòn này, “I love you” thì ít còn trái cây nhiệt đới thì nhiều, nên nhiều lúc tôi trộm nghĩ, miễn còn trái cây gọt sẵn để trên bàn thì yêu thương vẫn đong đầy.

Xe trái cây vẫn tồn tại đời đời dẫu xã hội có thay đổi.

]]>
info@saigoneer.com (Khôi Phạm. Ảnh: Cao Nhân.) Văn Hóa Tue, 04 Jun 2024 12:00:00 +0700
Saigoneer ăn gì, chơi gì, ghé đâu trong 3 tiếng la cà ở Phú Mỹ Hưng? https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17688-saigoneer-ăn-gì,-chơi-gì,-ghé-đâu-trong-3-tiếng-la-cà-ở-phú-mỹ-hưng https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17688-saigoneer-ăn-gì,-chơi-gì,-ghé-đâu-trong-3-tiếng-la-cà-ở-phú-mỹ-hưng

Có vài người họ hàng của tôi cả đời chỉ sống vui vẻ ở quận 8 và chưa từng biết đến Phố đi bộ Nguyễn Huệ là gì. Nên tôi đoán chắc cũng có nhiều người Sài Gòn khác chả bao giờ bước chân đến Phú Mỹ Hưng. Tôi đã ở quận 8 hơn 30 năm, cũng chưa từng đi Cần Giờ hay quận 12, nhưng nhờ nhà gần quận 7, tôi đã có nhiều dịp đi lòng vòng quanh Phú Mỹ Hưng, một trong những tiểu khu ngăn nắp nhất đất Sài Thành.

Sở dĩ có một bộ phận người Sài Gòn chỉ thích quanh quẩn trong khu phố nhà mình có lẽ là vì các khu dân cư mọc lên quá đầy đủ tiện nghi thiết yếu, và mạng lưới phương tiện công cộng quá nghèo nàn để khuyến khích người ta đi khám phá thế giới quanh mình. Chỉ cần xách xe chạy chừng 10 phút từ nhà, đầy đủ quán ăn ngon, hiệu thuốc, siêu thị, cửa hàng kính, hiệu cắt tóc, rạp chiếu phim, quán nhậu, cà phê lề đường, và bất kì dịch vụ nào khác một con người cần để duy trì cuộc sống, đều có mặt trong tầm với. Đối với nhiều người, như thế là quá đủ, chẳng cần đi đâu xa — đây là một sự thật gây hụt hẫng vì đối với tôi, Sài Gòn là thành phố tràn trề điều mới mẻ.

Phú Mỹ Hưng là khu dân cư rộng rãi ở phía Nam Sài Gòn.

Ý tưởng đầu tiên về Khu đô thị Phú Mỹ Hưng nhen nhóm trong đầu thương gia Đài Loan Lawrence S. Ting vào đầu thập niên 1990, và cho đến nay, vùng đất Nam Sài Gòn này vẫn giữ vững danh hiệu là một trong những biệt khu thành công nhất về mặt phát triển đô thị, biến vùng đất rừng thiêng nước độc này thành những khu phố khang trang, rộng rãi, “30 năm vẫn chạy tốt” đến giờ. Ngày nay, trong tâm trí người Sài Gòn, Phú Mỹ Hưng được biết đến như một tiểu khu Hàn Quốc, ngôi nhà của loạt nhà hàng, quán cà phê, quán bar chất không kém cạnh gì so với ở Hàn. Sẽ là thiếu sót lớn nếu Saigoneer làm chuyên đề về Hàn Quốc — Korea Chapter — mà bỏ qua Phú Mỹ Hưng.

Bên trong Crescent Mall, tâm điểm của Phú Mỹ Hưng.

Để thực hiện bài viết Stroll kì này, team Saigoneer đã lên lịch trình vừa vặn đi bộ khám phá Phú Mỹ Hưng đối với cả “ma cũ” lẫn “ma mới,” ghé thăm những địa điểm tên tuổi như Cầu Ánh Sao và Hồ Bán Nguyệt, và chơi nhiều hoạt động thường chỉ thấy trên phim Hàn. Tôi có thể khẳng định chắc nịch luôn từ giờ rằng jjim jil bang, hay còn được gọi là phòng xông hơi Hàn Quốc, ngoài đời còn vui hơn trên phim.

1. Photo Time

Địa chỉ: Tầng 5, Crescent Mall, 101 Tôn Dật Tiên, Q7

Hình chụp sticker làm mưa làm gió giới trẻ Sài Gòn trong những thập niên gần đây.

Buồng chụp ảnh ra đời hơn một thế kỷ trước tại New York, nhưng các nước Đông Á như Nhật, Hàn, mới chính là cái nôi đưa văn hóa chụp ảnh sticker lên một tầm cao mới. Photo booth chụp hình chớm nở ở Việt Nam vào đầu những năm 2000 từ Hàn Quốc. Ai đã từng ngồi phồng mang trợn má với lũ bạn phổ thông ngày xưa, chắc chắn đã từng ngồi vào một trong những buồng chụp ảnh rất “xì-tin” này. Trạm đầu tiên chúng tôi ghé chính là Crescent Mall để gửi xe, và để tiện tạt qua hiệu ảnh Photo Time trên tầng 5 để làm một (vài) pô ảnh kỷ niệm. Đời sống tinh thần của người Việt ngày càng cắm rễ trên mạng, nên cách thể hiện tình bạn của chúng ta cũng thay đổi theo, từ story mừng sinh nhật Instagram, playlist kỉ niệm trên Spotify, cho đến status Threads. Nhưng nói gì thì nói, không gì đặc biệt hơn được cầm trên tay một tấm hình kỉ niệm, được mân mê lớp giấy in thô ráp, được nhìn ngắm từng đường nét mực in trên từng nụ cười, từng cái ôm vai bá cổ.

Chọn cho mình chiếc băng đô thắm nhất trước khi chụp nhé!

Có gì vui?

  • Hơn 7749 phụ kiện nhắng nhít từ bao tay lông mèo đến băng đô vịt để trang hoàng cho “gương mặt thương hiệu” của người chụp
  • Bàn trang điểm để chải chuốt trước khi chụp
  • Một số lựa chọn filter và khung hình có sẵn nhưng không đáng kể

Giá: 30.000VND một người
Nên:

  • Sau khi chụp, một đường link bao gồm file hình và đoạn video timelapse ngắn quay lại toàn bộ quá trình chụp hình sẽ được cung cấp cho khách. Nhớ tải cả hai về máy vì mã QR sẽ mất hiệu lực trong khoảng thời gian vài ngày.
  • Tải app Photo Time để áp mã giảm giá cho người sử dụng mới

Tha hồ về dán vào lưu bút.

2. Cầu Ánh Sao & Công viên Hồ Bán Nguyệt

Đi bộ giữa trời nắng tháng 4 là cực hình, nên team Saigoneer hẹn lúc 5pm.

Khu vực ngay đằng sau Crescent Mall là hai “di tích” nổi tiếng nhất quận 7: Hồ Bán Nguyệt và Cầu Ánh Sao, đưa khách bộ hành xuyên mặt hồ để sang khu công viên bên kia bờ sông. Bao lần như một, bất kì ai được tôi đưa đến đây lần đầu đều nhận xét rằng cảm giác không giống Việt Nam lắm. Một bên là mặt nước phẳng như gương phản chiếu màn dừa nước rậm rạp và mặt trời đỏ ối đang chầm chậm buông xuống chân trời. Bên kia, bậc tam cấp lát đá men theo đường cong uyển chuyển của các cửa hiệu sáng đèn, ánh sáng dịu nhẹ hắt lên lối đi bát bộ rộng thênh thang. Theo lời của các chuyên gia đô thị đã phác thảo nên Phú Mỹ Hưng, thiết kế nơi đây được lấy cảm hứng từ bến sông ở Singapore.

Cầu Ánh Sao chỉ dành cho người đi bộ, nhưng hình như trượt pa-tanh và xe đạp đều không sao.

Cái tên Cầu Ánh Sao đến từ loạt đèn âm phủ kính trên mặt cầu, chiếu sáng từng bước chân mỗi khi đêm về. Nghe thì cũng có vẻ thơ thơ, sên sến, nhưng kỳ thực khi đi ngang, khách bộ hành dễ bị ánh đèn cao áp làm cho chói mắt, chao đảo nếu không cẩn thận. Nếu bên này cầu là một “cảng Singapore thu nhỏ,” thì bên kia cầu là khung cảnh náo nhiệt rất “cảng Cát Lái”: một hộ kinh doanh rất thức thời đã biến đoạn cụt cuối đường Tôn Dật Tiên thành đường đua xe mini và thiên đường cá viên chiên. Cứ tối tối, nơi đây ngập tràn tiếng bánh xe rít kin kít trên đường nhựa và tiếng reo hò của các cua-rơ đủ độ tuổi, giới tính, phục trang trên xe đua tự chế màu sắc sặc sỡ, thiết kế Elsa, Hello Kitty, Batman, v.v.

Công viên Hồ Bán Nguyệt là nơi lý tưởng để trải thảm picnic.

Có gì vui?

  • Tối cuối tuần, khu vực bên hồ thường có các nghệ sĩ đường phố biểu diễn nhạc sống
  • Nhiều thảm cỏ, đường lát gạch dưới bóng cây để tổ chức picnic hoặc chơi đùa với thú cưng
  • Giải đua xe mini Phú Mỹ Hưng mở rộng

Giá: Miễn phí
Nên: Đem theo snack và giải khát để vừa thưởng thức hoàng hôn vừa hòa mình vào không khí tấp nập của các cư dân nhí nơi đây.

3. Kem Bơ Sầu Bí

Địa chỉ: 1 Đường N, Q7

Quán Thỏ Ngọc Xinh Xinh.

Nhạc trẻ Vinahouse giật lắc, nội thất hơi quê, và nhiều góc check-in phong cách “ố dề” — quán kem kiêm cafe này dễ gây sượng khi mới bước vào, nhưng tôi phải thừa nhận rằng đồ ngọt ở đây làm khá ngon. Dù tên khá sến, Quán Thỏ Ngọc Xinh Xinh là một trong những địa chỉ ở Quận 7 với kem bơ khá ngon, phù hợp để nhâm nhi khi đi bộ vòng quanh khu vực công viên. Xuất xứ từ Đà Lạt, kem bơ là món tráng miệng mát lạnh gồm bơ xay, một viên (thường là) dừa, và dừa sấy khô hoặc đậu phộng rang rắc bên trên. Menu ở đây sáng tạo thêm hai hương vị khác là sầu riêng và bí đỏ. Sau khi tôi vượt qua được định kiến rằng màu vàng nhìn như đồ ăn dặm, thì tôi thấy kem bí đỏ ăn cũng hợp không kém gì bơ, đặc biệt trong bối cảnh mùa nóng hâm hấp ở Sài Gòn.

Tưởng đồ ăn dặm nhưng hóa ra đồ ăn dặm cho người lớn.

Có gì vui?

  • Góc check-in bựa
  • Vinahouse tracks to relax/study to
  • Kem bơ sầu bí ăn lạ miệng, mát lạnh từ trong ra ngoài

Giá: 55.000VND một người
Nên: Mua đem đi rồi ra công viên ngồi nếu vibe quán không hợp.

4. Nhà hàng Tía Tô

Địa chỉ: 161 Tôn Dật Tiên, phường Tân Phong, Q7

Perilla / Tía Tô theo phong cách thực dưỡng, chú trọng đến nguyên liệu nhà làm.

Không thể phủ nhận được sức hấp dẫn của gà rán Hàn Quốc đầy sốt mặn ngọt cay nóng, nhưng đối với tôi, điểm sáng nhất của ẩm thực Hàn Quốc là kho tàng món ăn kèm phong phú, đặc sắc (banchan). Nhà hàng Tía Tô ở quận 7 sở hữu một trong những set banchan dồi dào, tỉ mỉ nhất thành phố. Nếu ăn ở chỗ khác, thường khách chỉ được ăn vài loại kimchi hoặc cùng lắm là cá cơm rim cay, nhưng ở Tía Tô, banchan được thay đổi theo mùa và làm mới mỗi khi hết. Từ khi được một đồng nghiệp người Hàn giới thiệu chỗ này, tôi thường xuyên cắm rễ ở đây chỉ để ăn banchan cho thỏa thích, vì ở đây cho phép gọi thêm thoải mái. Thực đơn khá dày dặn, cũng có những món chủ đạo Hàn như súp tương đậu, thịt nướng K-BBQ, nhưng ngoài ra còn rất rất nhiều đặc sản cây nhà lá vườn khác mà các tiệm ăn Hàn Quốc phong cách teen khác không có. Không gian ấm cúng của Tía Tô đối với tôi là không thể bỏ qua mỗi lần tới Phú Mỹ Hưng, đặc biệt là để chuẩn bị cho chuyến đi spa Hàn vào trạm cuối cùng của Stroll này.

Có gì hay?

  • Cơm bình dân (nhưng giá không bình dân) kiểu Hàn
  • Nước quế tráng miệng mát lạnh
  • Thế giới banchan kì thú

Giá: Khoảng 200.000VND mỗi món, nhưng phần ăn rất to
Nên: Gọi món chính vừa phải, vì banchan khá nhiều và ngon nên thường no ngang trước khi món chính lên bàn.

5. Golden Lotus Healing Spa

Địa chỉ: 139 Tôn Dật Tiên, Q7

Golden Lotus mở cửa từ 7am đến nửa đêm.

Nhắm mắt lại và tưởng tượng nhé: Một gian phòng rộng, với sàn, tường màu gỗ, cô gái nhân vật chính gia cảnh nghèo khó ngồi tụm năm tụm ba cùng các bà cô trong xóm để buôn dưa lê về tình duyên gia đạo. Mọi người mặc đồ bộ đồng phục, đội khăn gấp kiểu “thủy thủ Mặt trăng” trên đầu. Lâu lâu họ cười phá lên, chọc ghẹo nữ chính vì quá si mê nam chính nhà tài phiệt giàu có. Đây chắc chắn là một khung cảnh quen thuộc với bất cứ ai lớn lên trong thập niên vàng của phim Hàn Quốc ở Việt Nam, nhưng ít người Việt nào có cơ hội được trải nghiệm phòng xông hơi kiểu Hàn thế này. Hôm nay đến lượt team Saigoneer.

Đi xông hơi kiểu Hàn thì không thể thiếu khăn tắm trên đầu.

Trong tiếng Hàn, phòng xông hơi được gọi là jjim jil bang, thường bao gồm một khu tắm ướt và một khu khô với nhiều tiện nghi. Thật khó để giới thiệu jjim jil bang một cách khách quan nhất, vì chỉ sau một lần đi, tôi đã trở thành fan trung thành của trải nghiệm này.

Cơm hộp dosirak.

Tổ hợp spa ở Golden Lotus bao gồm nhiều khu vực: rất nhiều hình thức mát-xa, nhưng chúng tôi chưa có dịp thử vì không đủ thời gian; phòng ngâm mình công cộng ở tầng một, với gian riêng biệt cho nam và nữ, vì ai cũng phải khỏa thân; trên tầng một là không gian chung với nhiều phòng đặc dụng, chiếu và ghế để khách ngồi tán gẫu, ăn đồ nhắm uống nước giải khát.

Bữa tối tại Mr. BBQ gồm nhiều món Hàn tiêu biểu như súp tương đậu.

Nếu cảm thấy đói bụng, spa có hẳn một nhà hàng ngay cạnh cửa ra vào, nơi chúng tôi ăn tối trong lúc chờ đến giờ giảm giá. Thức ăn ổn tuy nhiên cũng chỉ bao gồm những món thường gặp trong quán Hàn, nhưng tôi cũng có dịp thử dosirak (cơm hộp thiếc kiểu Hàn) khá vui. Tầng trên bên trong khu vực spa khô cũng có một quầy bán món trứng “nướng” đặc trưng và nước gạo sikhye, bên cạnh vài món ăn nhẹ như mì ly. Đồ ăn ở đây khá đắt (45.000 một ly mì Shin nhỏ), nhưng ai cũng nên thử qua đặc sản trứng nướng và nước gạo bùi bùi.

Trứng jjim jil bang nướng có vị bùi, béo và hơi phảng phất mùi khói.

Ai yêu thích cái nóng hoặc lạnh trong spa sẽ thấy thích khám phá từng phòng đặc dụng ở đây, bao gồm một phòng lạnh (y như ngồi trong tủ kem), phòng ủ nóng (nhiều hơi nước nhưng hơi khó chịu nếu ngồi lâu), phòng ô-xi (rất yên tĩnh nhưng không rõ lượng ô-xi có cao thật không), vài buồng hồng ngoại (ngột ngạt), một bồn massage cá khá nhột, và nhiều tiện nghi khác như buồng cho trẻ nhỏ và máy tập thể dục. Cá nhân tôi cảm thấy bất kì ích lợi nào được quảng cáo ở đây đều không đáng tin, tuy nhiên, điều chắc chắn rằng jjim jil bang mở ra trước mắt tôi một chân trời với vô vàn cách ngồi, nằm, lăn, lộn dưỡng sinh — nhiêu đó thôi đã đủ để tôi cho jjim jil bang 5 sao, vì không có gì tôi thích hơn nằm một chỗ chẳng làm gì.

Có gì vui?

  • 1.001 cách nằm, ngồi, lăn, lộn
  • Nhiều cơ hội việc làm cho cá
  • Đồ bộ xinh và thoải mái
  • Phương thức chế biến trứng mới mẻ

Giá:

  • Trung bình một vé có giá 315.000VND, nhưng sau 7:30pm mỗi vé chỉ còn 150.000VND.
  • Trước khi đến đây, tôi rất ngạc nhiên không hiểu sao spa có đến hàng ngàn đánh giá 5 sao trên Google Maps. Hóa ra, bất kì khách hàng nào đồng ý cho 5 sao sẽ được giảm giá vé xuống 170.000VND trước 7:30pm (sau đó thì không cần).
  • Trải nghiệm thực tế hoàn toàn xứng đáng với rating cao, nhưng khách đến nên đọc review thật thay vì chỉ nhìn vào điểm trung bình.

Nên:

  • Xem video YouTube hướng dẫn cách gấp khăn đội đầu.
  • Hồ massage cá nằm ngoài phòng chính, trên bậc tam cấp gần máy tập thể dục.
]]>
info@saigoneer.com (Khôi Phạm. Ảnh: Cao Nhân. Ảnh bìa: Trường Dĩ.) Văn Hóa Sat, 18 May 2024 08:59:35 +0700
Thuyền thúng: Nét văn hoá lâu đời của các làng chài Việt https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17041-thuyền-thúng-nét-văn-hoá-lâu-đời-của-các-làng-chài-việt https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17041-thuyền-thúng-nét-văn-hoá-lâu-đời-của-các-làng-chài-việt

Nói đến các thành phố tại Việt Nam, một trong những dạng công trình dễ bắt gặp nhất là những ngôi nhà ống. Loại kiến trúc phổ biến này bắt đầu xuất hiện từ thời Hậu Lê — khi mức thuế áp cho dân chúng không căn cứ vào loại hình kinh doanh hoặc doanh số, mà chỉ dựa vào chiều rộng của ngôi nhà. Vì thế, các tiểu thương thường cho xây dựng mặt tiền thật nhỏ, ưu tiên chiều dọc để tiết kiệm chi phí.

Một người phụ nữ đang đan lại chiếc lưới đánh cá.

Cũng trong một hoàn cảnh tương tự, một vật dụng thân thuộc khác của người Việt, thúng chai, hay thuyền thúng đã ra đời. Vào thời Pháp thuộc, chính quyền thực dân thường đánh thuế rất nặng lên nhiều mặt hàng, trong đó có các loại tàu thuyền. Lúc bấy giờ, người dân nghèo đã nhanh trí đan những chiếc thúng để di chuyển trên sông nước mà không phải nộp thuế vô lý.

Ngư dân trở về sau một đêm đánh cá.

Người dân lúc ấy lí lẽ rằng, thúng chai không thể tính là một chiếc thuyền thực thụ, do đó không thể nào bị đem ra đánh thuế. Nhưng dù có đúng với định nghĩa tàu thuyền hay không, chiếc thúng chai cũng dần trở thành một phương tiện hữu ích, miệt mài phục vụ nhu cầu mưu sinh và đi lại của bà con miền biển qua năm tháng.

Một ngư dân chuẩn bị lưới đánh cá.

Nghề chế tác thuyền thúng luôn đòi hỏi nhiều thời gian, công sức và kỹ nghệ. Quy trình làm thuyền thống thường bắt đầu bằng việc đan các miếng nan tre, lấy dây cước buộc chặt, đóng vào vành thuyền, sau đó quét một lớp vật liệu chống nước làm từ dầu dừa, dầu hắc ín, hoặc sợi thuỷ tinh. Nếu được bảo dưỡng cẩn thận, độ bền của những chiếc thúng có thể lên đến hàng thập kỷ.

Khung cảnh làng chài vào buổi hoàng hôn.

Để điều khiển thành thạo một chiếc thuyền thúng, người ngư dân phải dành không ít thời gian để rèn luyện tay lái. Bù lại, họ có được sự tự chủ và độc lập về tài chính, thay vì phải làm việc trên những tàu đánh cá lớn ra ngoài khơi xa. 

Một chiếc thuyền thúng vận chuyển hàng hoá từ tàu lớn về bờ.

Thuyền thúng cũng có thể được dùng làm thuyền cứu sinh, hoặc dùng làm thuyền chở hải sản từ tàu lớn về bờ.

Người dân đứng đợi để mua được những mẻ cá tươi nhất.

Cùng Saigoneer xem loạt ảnh dưới đây để hiểu thêm về vai trò của thuyền thúng trong đời sống người dân ven biển Hội An:

Một người phụ nữ đang chỉ dẫn thợ của mình.

Những chiếc thuyền thúng đang rời bến.

Hải sản được chuyển sang thuyền thúng từ tàu lớn.

Một ngư dân lấy cá từ trong lưới.

Thu lưới.

Giăng lưới.

Ngư dân ra khơi vào bình minh.

Thuyền thúng được chèo hoàn toàn bằng tay.

"Cô Ba."

Phân loại mẻ cá.

Darkroom là một series kể chuyện bằng hình ảnh về vẻ đẹp của cảnh vật, con người Việt Nam và châu Á trên những hành trình xê dịch. Bạn là một phó nháy thích đi đây đó? Hãy gửi ý tưởng về cho Saigoneer qua hòm thư contribute@saigoneer.com.

]]>
info@saigoneer.com (Adrien Jean. Ảnh: Adrien Jean.) Văn Hóa Wed, 17 Apr 2024 11:25:00 +0700
Một thoáng Việt Nam thân thuộc giữa Tokyo xa lạ https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17672-một-thoáng-việt-nam-thân-thuộc-giữa-tokyo-xa-lạ https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17672-một-thoáng-việt-nam-thân-thuộc-giữa-tokyo-xa-lạ

Nhìn sang phải, một xe bánh mì đầy ắp thịt nguội. Xa xa bên kia đường, loạt biển hiệu đủ màu đề chữ Bích Karaoke rực góc phố. Mặt tiền cửa hàng bên cạnh chào người qua đường bằng hàng tương ớt Chin-Su và cà phê G7 gói uống liền. Vài bước nữa, ta sẽ bắt gặp quán ăn xinh xinh nghi ngút khói phở nóng bên bàn ghế nhựa thân thương.

Khung cảnh dễ khiến người ta lầm tưởng rằng tôi đang ở Phố cổ Hà Nội, nhưng sự thật là tôi đang rảo bước ngay ngoài Trạm tàu điện ngầm Takadanobaba ở trung tâm Tokyo, “thủ phủ” của văn hóa Việt giữa đất khách. Chỉ với vài con đường, nhưng nơi đây hiện diện nhiều quốc kì Việt Nam đến mức vài người bạn Nhật của tôi đùa rằng đây là khu “Vietnam Town” (Phố Việt Nam) của Takadanobaba. Đùa là một chuyện, nhưng tôi đồ rằng, với tốc độ lan rộng như hiện nay, danh xưng đó chắc sẽ thành hiện thực một ngày không xa.

Trạm Takadanobaba là nút giao của 3 làn metro, và là trạm đông thứ 9 trên toàn hệ thống metro.

Khoảng năm 2020, ngay trước khi đại dịch COVID-19 vừa nổ ra, dân số học sinh Việt sinh sống ở Nhật đạt đỉnh với 73,389 người, chỉ sau Trung Quốc. Con số ấy chững lại đôi chút trong dịch bệnh, nhưng đã quay lại đà tăng tiến gần đây. Đó là chỉ là mới tính du học sinh. Tính cả toàn cộng đồng thường trú nhân, dân số người Việt ở Nhật gia tăng từ khoảng 52,000 người năm 2012 lên hơn 476,000 năm 2022, cũng chỉ sau cộng đồng Hoa Kiều. Với gần nửa triệu người, cộng đồng người Việt ở Nhật hiển nhiên có sức hưởng không nhỏ đến nơi mình sinh sống.

Rất dễ thấy cờ Việt Nam và biển quảng cáo Tiếng Việt trong khu phố.

Liệu sự hiện diện của yếu tố Việt tại nước bạn có khiến dân Nhật thêm tò mò về văn hóa Việt Nam không, trong nghệ thuật, âm nhạc, hay thời trang chẳng hạn? Nhưng trước tiên, có thực mới vực được đạo. Khu Takadanobaba có kha khá tiệm bánh mì, bao gồm Bánh Mì Xin Chào và Bánh Mì Sandwich. Chủ tiệm Bánh Mì Sandwich bảo với tôi rằng chính tiệm mình đã châm ngòi làn sóng ăn bánh mì ở Tokyo. Ngoài ra, nơi đây còn được “trang bị” hai quán karaoke theo kiểu Việt, vài tiệm chả giò nhà làm, và hàng tá hàng quán khác bán đủ thứ từ cao lầu cho đến bún bò Nam Bộ.

Bánh mì xá xíu và cà phê sữa đá ở Takadanobaba.

Anh Bích Khoáng, chủ tiệm tạp hóa trong khu vực, vui vẻ đón tôi vào thăm nhà mình, tiệm đồ nhập khẩu Việt Shop. Tầng trệt tiệm là nơi nhân viên hí hoáy chuẩn bị bento kiểu Việt để bán mang đi, và cả thức ăn cho nhà hàng Nón Lá gần đó, cũng do anh Khoáng làm chủ. Len lỏi lên cầu thang khá hẹp, ta sẽ đến gian phòng bày đầy “quà quê” Việt, như Bia Hà Nội và bánh snack Oishi.

“Ôi, nhiều lắm anh ơi,” Khoang trả lời khi tôi hỏi về hàng quán người Việt ở đây, không giấu được nét tự hào về cộng đồng mình mỗi khi anh kể tôi nghe về từng hộ kinh doanh. Đúng là nhiều thật. Nội lượng cờ đỏ sao vàng lấp ló trong từng góc kẹt cũng có thể khiến ta chóng mặt, nhưng cũng như được tiếp thêm sức mạnh. Ngay tại đây, giữa đô thị khổng lồ xa lạ, có ngôi làng Việt thân thương làm nơi neo đậu văn hóa quê hương cho hàng ngàn người Việt ở Tokyo.

Hàng quán Việt đem lại cảm giác thân thuộc nơi đất khách.

Diệu Linh, sinh viên quan hệ quốc tế đang sinh sống và làm việc ở Tokyo, cũng chia sẻ niềm vui mỗi khi cô đặt chân đến đây: “Đương nhiên em thấy vui chứ, được thấy cờ Việt Nam đầy đường, và khi thấy văn hóa Việt rất được đón nhận tại đây. Nhiều khi đi ở đây mà cứ ngỡ như em đang ở Hà Nội hay gì ấy.”

Được kết nối, dẫu chỉ trong giây lát, với những “đặc sản” văn hóa rất Việt luôn khiến Linh phấn khởi mỗi khi ghé thăm Takadanobaba, nhưng cảm giác tự hào khi thấy người dân sở tại chào đón sản phẩm văn hóa đất nước mình là một điều gì đó rất khó giải thích.

Ka-ra-ô-kê và tương ớt, đặc sản Việt không thể thiếu ở nước ngoài.

“Khi em dẫn các bạn Nhật đi ăn món Việt, hay nghe người Nhật bàn về Việt Nam hay khen đồ ăn ngon, em cảm thấy vui khi đến Takadanobaba, và cả lễ hội Việt Nam thường niên tổ chức ở Công viên Yoyogi,” Linh kể. “Em thấy mình thoải mái hơn khi thấy người ta có thiện chí với cộng đồng mình.”

Tiệm Bánh Mì Sandwich xếp ghế nhựa rất Việt Nam cho khách ngồi.

Chị Meiko Tamura, chuyên viên thiết kế đồ họa tôi gặp ở Takadanobaba, đã sinh sống ở đây hơn 10 năm; chị tin rằng văn hóa Việt rất có tiềm năng tiến xa hơn ở Nhật. “Sao lại không chứ? Người Nhật rất thích ăn món Việt và tìm hiểu về văn hóa Việt,” Tamura nói. “Ở đây cũng có rất nhiều người Việt sinh sống, họ cũng hòa nhập rất nhanh nữa. Chị thấy ở đây có quá trời quốc kì Việt Nam nên cũng coi như ‘Phố Việt’ rồi.”

Tôi không dám chắc liệu quần thể hàng quán, cửa tiệm Việt ở đây sẽ phát triển thành “Phố Việt Nam” như mọi người nói không. Nhưng tôi biết rằng Takadanobaba đã gầy dựng cho mình tiếng tăm đáng kể trong mắt người Nhật, với cương vị là điểm đến không thể bỏ qua khi thèm món Việt ngon, và “đường vào tim em ôi băng giá,” nhưng có tô phở nóng thì như ngắn lại vô chừng.

]]>
info@saigoneer.com (Oliver Newman. Ảnh: Oliver Newman.) Văn Hóa Tue, 16 Apr 2024 17:37:51 +0700
Xông đất — nghệ thuật để 'thơm phức' cả năm https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17649-xông-đất-—-nghệ-thuật-để-thơm-phức-cả-năm https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17649-xông-đất-—-nghệ-thuật-để-thơm-phức-cả-năm

Những ngày này, không khí rộn ràng của dịp Tết Nguyên Đán đang dần tràn khắp phố xá. Và càng đến gần những ngày “mùng,” ta lại càng thấy nhiều bài viết hướng dẫn cách đi xông đất thế nào để được nhiều may mắn.

Xông đất là một niềm tin lâu đời của trong văn hóa Việt, bao gồm một bộ quy luật “chỉ định” người đầu tiên đến thăm và chúc Tết cho nhà bạn sau thời khắc giao thừa sẽ là ai. Theo quan niệm truyền thống, gia chủ sẽ gặp được tài lộc trong suốt cả năm nếu gặp được người xông đất “hợp tuổi.” Việc tính toán xem một người có hợp tuổi với gia chủ hay không sẽ dựa trên một hệ thống phức tạp liên quan tới phong thủy và 12 con giáp. Nếu vô tình để người khắc tuổi bước vào nhà trước, chủ nhà sẽ vận phải phải một năm mới nhiều xui xẻo. 

Tôi biết đến tục xông đất từ khi còn nhỏ, nhưng tới giờ tôi vẫn không ưa hoạt động này lắm, vì tôi cảm thấy chuyện người này hợp hoặc khắc tuổi người kia rất khó tin. Không những thế, hoạt động còn có thêm một số yêu cầu đi kèm mà tôi thấy hơi phiền hà, ví dụ như để là người đầu tiên xông nhà, chắc chắn bạn phải dậy sớm để đi chúc Tết, về quần áo thì phải mặc đồ màu sáng, tránh mặc những bộ có tông trắng hay đen.

Có những người rất nghiêm túc với việc xông đất, đôi khi là nghiêm túc đến cực đoan. Chỉ cần lên mạng tìm tòi một chút là ta sẽ tìm được những câu chuyện về những người sẵn sàng bỏ tiền triệu ra thuê một người hợp tuổi đến xông đất nhà mình. Dần dà, mọi người cũng điều chỉnh việc xông đất để thuận tiện hơn. Đơn cử như một lần khi mẹ tôi biết bố và tôi hợp tuổi với nhau, nên ngay sau đêm giao thừa bà đã kêu tôi đi dạo một vòng quanh khu phố rồi quay về nhà. Khi làm như vậy, thì theo lý thuyết, tôi đã tự xông nhà mình.

Tôi cũng từng tham gia những lần xông đất theo kiểu “cổ điển,” nhưng không nhớ gì về những chi tiết phong thủy cho lắm. Tôi nhớ một lần lúc còn thiếu niên, tôi phải dậy sớm đi xông đất nhà họ hàng trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê. Khi đến đó, tôi phát hiện ra ông anh họ của mình mới tậu một con PS4, nên cơn buồn ngủ cũng nhanh chóng biến mất. Thuở ấy tôi còn dùng một cái máy vi tính yếu tới nỗi mà chơi Minecraft cũng không được mượt cho lắm, việc được trải nghiệm game hiện đại vào ngày đầu trong năm đối là điều mà tôi không thể nào bỏ lỡ. Buổi xông đất hôm ấy tôi cũng chẳng biết là có mang lại may mắn gì hay không, nhưng tôi chỉ nhớ hôm ấy là một ngày tuyệt vời.

Có lẽ việc không thích xông đất của tôi là do tôi đang hiểu sai, tôi chú trọng quá mức về chuyện hợp tuổi và cho rằng đó là khía cạnh quan trọng nhất của hoạt động này. Nhưng khi tôi đọc một loạt những bài hướng dẫn xông nhà, tôi mới nhận ra là trước khi nhắc đến chuyện hợp tuổi, người ta sẽ nhắc đến quan niệm ngày đầu năm nếu khởi đầu tốt đẹp sẽ tạo tiền đề tốt cho phần còn lại của năm.

Tôi nghĩ cốt lõi của việc xông đất là để chúng ta có lý do chia sẻ niềm vui cho nhau và mở đầu một năm với nhiều cảm xúc tích cực. Và nếu ai đó muốn đặt ra một số điều lệ để họ có thể mở đầu một năm mới trọn vẹn với những người thân, thì tôi nghĩ điều đó cũng không có gì sai. Và dù tôi không thích một số quy tắc của việc xông đất, tôi vẫn sẽ sẵn lòng bỏ qua những bất tiện đó để đổi lấy những kỷ niệm đáng nhớ ngày đầu năm.

]]>
info@saigoneer.com (Khang Nguyễn. Ảnh bìa: Yumi-Kito.) Văn Hóa Tue, 06 Feb 2024 20:11:57 +0700
Nghệ nhân giữ lửa nghệ thuật múa rồng đất Thăng Long https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17646-nghệ-nhân-giữ-lửa-nghệ-thuật-múa-rồng-đất-thăng-long https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17646-nghệ-nhân-giữ-lửa-nghệ-thuật-múa-rồng-đất-thăng-long

Trong những dịp lễ hội, đặc biệt là Tết Nguyên Đán, những màn biểu diễn múa rồng thể hiện khát vọng của người dân về sự may mắn, phát đạt và hanh thông.

Vài nét về nghệ thuật múa rồng 

Rồng là một loài vật không có thật, được linh thiêng hóa và trở thành hình tượng giữ vị trí đặc biệt trong văn hóa, đời sống tâm linh của người Việt từ lâu đời. Đứng đầu trong Tứ linh (Long, Lân, Quy, Phụng), rồng tượng trưng cho sức mạnh, uy quyền, sự phồn thịnh và may mắn. Vì thế, ông bà quan niệm, năm Thìn (Rồng) là năm đại cát. Trong tâm thức dân gian, rồng cũng gợi nhắc về nguồn gốc “con Rồng, cháu Tiên” của người Việt. 

Hình tượng rồng biểu trưng cho sự mạnh mẽ, phồn vinh.

Với vai trò và ý nghĩa quan trọng ấy, từ xưa đến nay, hình tượng rồng đã xuất hiện trong nhiều loại hình nghệ thuật: từ kiến trúc, hội họa, điêu khắc cho đến những loại hình biểu diễn dân gian. Múa rồng là một trong số đó. Các màn múa rồng được biểu diễn vào các dịp lễ, Tết Nguyên Đán, Tết Trung Thu, hội làng nhằm gửi gắm khát vọng đời sống phồn thịnh.

Có nguồn gốc từ Trung Quốc, nghệ thuật múa rồng nhanh chóng du nhập và lan tỏa tại nhiều nước châu Á, trong đó có Việt Nam. Thăng Long xưa được cho là cái nôi của nghệ thuật múa rồng ở nước ta. Nhiều tài liệu nghiên cứu cho rằng múa rồng trên đất Thăng Long xuất hiện từ thế kỷ thứ 10, thời Lý. Ông cha ta đã tiếp thu, chắt lọc và phát triển điệu múa rồng bằng cách phối hợp với võ cổ truyền dân tộc, múa dân gian để tạo thành một loại hình biểu diễn nghệ thuật mang đậm dấu ấn văn hóa Việt. Tuy tồn tại lâu đời, song đến ngày nay, múa rồng vẫn cho thấy sức sống bền bỉ, phổ biến trong các sinh hoạt cộng đồng từ Bắc vào Nam.

Múa rồng là nghệ thuật biểu diễn dân gian phổ biến từ Bắc vào Nam.

Trong các loại hình, múa rồng vải phổ biến hơn cả. Ở miền Nam, múa rồng vải được cho là xuất hiện lần đầu trong cộng đồng người Hoa từ những năm 1944–1945, cụ thể là từ hãng xà bông Trung Nam ở Sa Đéc của ông Trần Bôi. Một ý kiến khác cho rằng, đội múa rồng vải đầu tiên đã có từ vài năm trước đó tại chùa Ông, Phan Thiết; đầu rồng vẫn được thờ tại chùa này là dấu tích còn lại. Kể từ đó, ở miền Nam, nghệ thuật múa rồng trải qua một giai đoạn trầm lắng cho đến năm 1987, đội múa rồng Phước Kiến được tái lập, lấy chùa Ông Bổn (quận 5) làm trụ sở. Múa rồng ngày càng phổ biến trong các dịp lễ, Tết, hội hè và ngày càng được đầu tư với quy mô hoành tráng, đẹp mắt, đa dạng. 

Giữ lửa múa rồng đất Thăng Long

Trong âm vang nghìn năm của đất Thăng Long xưa, múa rồng ngày nay được duy trì ở nhiều địa phương tại thủ đô Hà Nội, phổ biến hơn cả là tại Chương Mỹ, Thanh Trì, Sơn Tây, v.v. Những điệu trống vang dồn, hình ảnh rồng uyển chuyển uốn lượn ở sân đình mỗi dịp lễ Tết đã trở thành một phần ký ức sâu đậm trong tâm thức của nhiều người dân. Múa rồng ở Hà Nội ngày nay vẫn mang trong mình hơi thở truyền thống, sức sống bền bỉ và luôn có sự chuyển mình để thích ứng với nhu cầu thưởng thức nghệ thuật đương đại. Có ít nhất hơn 30 điệu múa rồng, tiêu biểu là: Bàn long, Thủy ba, Phong đằng, Phong chuyển, Phi long, Chồng tháp, Dao bãi, Thanh long xuất trận, Long quá vũ môn, Hoàng long chúc phúc, Kim long xuất động, Hồng long đảo thủy, Uyên ương dạ quang long, Dạ quang long (con Rồng cháu Tiên), v.v.

Võ sư Bùi Viết Tưởng làm rồng phục vụ Tết Nguyên Đán Giáp Thìn.

Tại xã Quảng Bị, huyện Chương Mỹ, Hà Nội, nhiều người vẫn nhắc đến một võ sư trẻ ngày đêm miệt mài giữ lửa cho nghệ thuật lân-sư-rồng nói chung và múa rồng nói riêng. Anh là Bùi Viết Tưởng. Những ngày cận kề Tết Nguyên Đán Giáp Thìn, bên cạnh lịch biểu diễn bận rộn, võ sư Bùi Viết Tưởng cùng các học trò phải tăng công suất gấp nhiều lần, làm không ngơi tay mới đáp ứng được nhu cầu đầu lân, rồng trên địa bàn Hà Nội và nhiều địa phương khác. Những đợt rét đậm giữa tháng Chạp Âm lịch dường như không làm giảm nhiệt tại xưởng sản xuất Tưởng Nghĩa Đường. Đây cũng là xưởng sản xuất đầu lân, rồng hiếm hoi tại Hà Nội.

Bắt đầu học võ từ năm 10 tuổi, và sau đó là múa lân sư rồng, trải qua thời gian thi đấu và biểu diễn, võ sư Bùi Viết Tưởng về quê nhà mở lớp võ thuật và thành lập đội múa lân sư rồng Tưởng Nghĩa Đường với mong muốn lan tỏa bộ môn này đến thế hệ trẻ địa phương.

Quy trình làm rồng phục vụ biểu diễn lễ, Tết trải qua nhiều bước.

Tại xưởng, võ sư Bùi Viết Tưởng và các học trò, ai cũng cặm cụi cắt, may, trang trí bằng sự tập trung cao độ. “Quy trình làm rồng múa gồm nhiều công đoạn, đòi hỏi người nghệ nhân phải thật sự kiên trì, tỉ mỉ và yêu nét đẹp truyền thống mới có thể ngồi hàng giờ mỗi ngày để trang trí từng chi tiết, căn chỉnh từng bộ phận cho đến khi rồng thành hình,” anh Tưởng bộc bạch. Bên cạnh đó, rồng trong tiết mục múa đa dạng về kích thước, màu sắc; cho nên tùy mục đích, sẽ có sự sáng tạo và biến tấu phù hợp.

Phổ biến nhất trong nghệ thuật múa rồng là rồng vải, có cấu tạo gồm 3 phần đầu, thân và đuôi, được gắn vào các chân bằng tre. Rồng thường mang màu sắc rực rỡ như đỏ, tượng trưng cho sự may mắn; hoặc vàng, thể hiện sự phồn vinh, sung túc. Mỗi đầu rồng cần 5 đến 6 ngày để hoàn thiện. Trong khi đó, phần thân và các bộ phận khác mất tới 10 ngày để làm. 

Đầu rồng là sự phối hợp giữa các chất liệu tre, mây, vải, giấy decal. Sau khi lên khung, đầu rồng được vẽ trang trí các chi tiết. Anh Bùi Viết Tưởng cho hay, chất liệu làm đầu rồng giúp chống chịu thời tiết nóng, ẩm thay đổi bốn mùa ở miền Bắc. Trong trang trí, từng nét vẽ được chú trọng làm toát lên thần thái dũng mãnh của loài vật thiêng này. Thân rồng làm bằng vải. Vảy được in nhiệt hoặc làm nổi bằng giấy decal. Số lượng vảy lên đến hàng nghìn chiếc, ánh lên lấp lánh vô cùng đẹp mắt.  

Bên cạnh công việc may rồng, để phục vụ biểu diễn, ngay từ trước tết Giáp Thìn hơn một tháng, không khí luyện tập tại câu lạc bộ vô cùng sôi nổi. Càng gần Tết, lịch tập càng tăng cường.

Nghệ sĩ múa rồng cần có nền võ thuật.

“Múa rồng là một loại hình biểu diễn mang tính nghệ thuật cao, đòi hỏi nghệ nhân phải khéo léo trong tạo hình để diễn tả đúng thần thái uy nghiêm, mạnh mẽ của con rồng. Vì thế, sự kết hợp nhịp nhàng giữa sự uyển chuyển và tính dứt khoát là tố chất cần có của một người múa rồng. Ngoài kỹ năng biểu diễn, nền võ thuật là điều kiện vô cùng quan trọng”, anh Tưởng chia sẻ từ kinh nghiệm 15 năm huấn luyện võ thuật cũng như múa rồng.

“Một người muốn tham gia vào tiết mục múa rồng cần phải trải qua một quá trình khổ luyện. Sức khỏe tốt là điều kiện tiên quyết để đáp ứng được yêu cầu vận động thay đổi động tác liên tục. Bên cạnh đó, sự phản xạ linh hoạt, dẻo dai là tố chất quan trọng không kém. Vì thế, một người đã có nền võ thuật, đã thuần thục những thế tấn, thủ sẽ rất mau chóng tiếp cận được với môn này,” anh Tưởng nói. 

Sự phối hợp đồng đội quyết định sự thành công của màn biểu diễn múa rồng.

Ngoài ra, khả năng phối hợp đồng đội cũng quyết định sự thành công của một màn biểu diễn múa rồng. “Làm sao phối hợp ăn ý để có thể biến hóa, tạo hình liên tục mà vẫn có liên kết chặt chẽ giữa các thành viên là điều tôi luôn nhắc nhở học trò,” võ sư Bùi Viết Tưởng nhấn mạnh. Trong một đội múa, số thành viên sẽ tùy thuộc vào kích cỡ rồng. Ở câu lạc bộ Tưởng Nghĩa Đường, một màn biểu diễn thường có 9 người. Mỗi người đều là mắt xích quan trọng, tuy nhiên, vất vả nhất là vị trí đầu, số 5 và đuôi.

Là người điều khiển đầu rồng, anh Đỗ Văn Tới nói: “Để rồng di chuyển, tạo ra những động tác đẹp mắt, người đứng đầu phải luyện tập sự nhạy bén và tinh nhanh; động tác chính xác để các thành viên còn lại tạo hình theo. Đồng thời, vị trí này cũng đóng vai trò xử lý các tình huống khi màn biểu diễn bị chệch hướng.”  

Anh Đỗ Văn Tới – người cầm đầu rồng.

Mỗi dịp Tết đến, xuân về, tiếng trống lại vang dồn, giục giã trong những hội làng. Trước sân đình cổ kính, những thân rồng uốn lượn mạnh mẽ, hừng hực khí thế là minh chứng cho thấy nghệ thuật truyền thống này vẫn đóng vai trò quan trọng trong văn hóa Việt. Những màn múa rồng không chỉ là ký ức tuổi thơ đẹp đẽ, mà còn là ước nguyện về sự may mắn, phát đạt và khát vọng vươn lên mạnh mẽ. Chừng nào còn những người trẻ tuổi tiếp nối bộ môn nghệ thuật truyền thống này, chúng ta còn có cơ sở tin tưởng, nét đẹp ấy sẽ còn bền bỉ với thời gian.

]]>
info@saigoneer.com (Xuân Phương. Ảnh: Xuân Phương.) Văn Hóa Mon, 05 Feb 2024 13:00:00 +0700
Một số kiểu chơi bài Tây thống lĩnh 'ngày mùng' miền Bắc-Nam cho người mới nhập môn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17182-một-số-kiểu-chơi-bài-tây-thống-lĩnh-ngày-mùng-miền-bắc-nam-cho-người-mới-nhập-môn https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17182-một-số-kiểu-chơi-bài-tây-thống-lĩnh-ngày-mùng-miền-bắc-nam-cho-người-mới-nhập-môn

Bên cạnh những tập tục quan trọng và ý nghĩa như thăm chúc họ hàng, viếng chùa chiền và trao nhau những bao lì xì đỏ, một hoạt động được người Việt yêu thích trong dịp đầu năm là gặp gỡ bạn bè để chơi những trò chơi kinh điển như Lô tô hay Cá ngựa. Trong đó, các ván bài tây là được ưa chuộng nhất vì mang lại nhiều sự thích thú, phấn khích cùng khả năng gây chia rẽ cực cao, có thể khiến hội bạn thân phải tương tàn, tình chị em phải rạn nứt vì những lần sát phạt “không nương tay.”

Lời từ ban biên tập: Saigoneer không khuyến khích các lối chơi bài thiếu lành mạnh. Bài viết khai thác luật chơi đơn thuần của các ván bài giao lưu đầu năm.

Nhân dịp Tết lại gần kề, Saigoneer xin điểm qua những kiểu chơi bài phổ biến nhất hai miền Nam-Bắc trong cẩm nang rút gọn sau đây. Dù là người mới nhập môn cần ôn tập cấp tốc, hay lão tướng thượng thừa cân hết cả team, chúng tôi mong độc giả nào cũng sẽ biết thêm điều gì đó hay ho về thú vui quốc dân này cho những ngày mùng sắp tới.

1. Tiến lên Miền Bắc

Thật khó để viết về những trò chơi bài Tây phổ biến dịp đầu xuân với cách tiếp cận “trong sáng” nhất, mà không đả động tới các vấn đề “trong tối.” Dù biết vậy, người viết vẫn muốn khởi đầu với tinh thần vô tư nhất và giới thiệu một trò chơi được cả người lớn lẫn trẻ nhỏ yêu thích những ngày Tết này: Tiến lên. 

Nếu thường chơi theo luật Tiến lên miền Bắc, bạn có thể bỏ qua phần sơ lược luật chơi; nếu đã quen với cách chơi miền Nam, có lẽ bạn chỉ cần lướt mắt qua một chút; còn nếu chưa nghe tới Tiến lên bao giờ, nội dung sau đây nên được chụp lại và cài đặt làm hình nền điện thoại vì nó sẽ giúp bạn kết thân bạn mới dễ dàng hơn, cải thiện vận may (và biết đâu cả tài chính) trong những buổi giao lưu đầu xuân, vì không sòng nào là không có Tiến lên. 

Tiến lên miền Bắc có luật chơi gần giống trò tú lơ khơ President của phương Tây. Số người chơi thường là bốn hoặc đông hơn; nếu có bốn người tham gia, toàn bộ bộ bài được chia đều hết, mỗi người nhận 13 lá. Người đánh sau chặn người đánh trước bằng những lá bài có số lớn hơn hoặc mạnh hơn. Ai đánh hết bài trước dành chiến thắng.

So với Tá lả hay Phỏm, một kiểu chơi cũng rất phổ biến ở miền Bắc, luật đánh của Tiến lên đơn giản hơn rất nhiều, có thể ví như đại số Trung học cơ sở và đại số Trung học phổ thông. 

Về cơ bản, chỉ có hai luật chính: thứ tự số và quy luật chặt. Trước hết là thứ tự số: nếu cùng chất, bộ số tiến từ thấp đến cao sẽ là:  3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, J, Q, K, A, 2.

Luật thứ hai, cũng là điểm khác biệt lớn nhất so với Tiến lên miền Nam, là khi muốn “chặt” bài người đánh trước, người chơi cần ra lá có số lớn hơn có cùng màu, cùng chất. Ví dụ, khi muốn chặt cây ♠9, bạn không thể đánh ♥10, mà cần đánh lá  có số lớn hơn như ♠10.

Quy luật này cũng áp dụng với các bộ đôi cùng số (chỉ có đôi ♦5 ♥5, hay ♠5 ♣5, mà không có ♦5 ♣5) và bộ dây số tiến (chỉ có ♦5 ♦6 ♦7 mà không có ♦5 ♦6 ♣7). Với quân 2 (hay được gọi là heo) quyền lực, bạn cần bộ tứ quý (bốn cây cùng số bất kỳ), hoặc dùng lá 2 lớn hơn (>> ♣ > ♠) để đánh bại.

Bạn đọc đến từ các tỉnh thành miền Nam sẽ thấy cách tôi mô tả luật chơi có phần chân chất khi nói “bộ đôi,” “dây tiến” mà không dùng từ chuyên ngành nào. Đây cũng là điểm khác biệt thú vị khác. Dù luật chơi chặt hơn so với kiểu chơi miền Nam, nhưng cách gọi trong Tiến lên miền Bắc bỗ bã hơn nhiều và ít tiếng lóng: không nói “sám cô,” “đôi thông” hay “sảnh.”

Chính nhờ luật chơi đơn giản, kiểu chơi này phổ biến ở mọi “chiếu” trong dịp Tết — cả “chiếu” trẻ em lẫn “chiếu” người lớn. So với các bạn nhỏ bây giờ, một trong những kỹ năng mà tôi tự tin mình giỏi hơn là khả năng chơi bài, đặc biệt là Tiến lên. Hồi nhỏ, mỗi lần về quê ngoại ăn Tết, niềm vui lớn nhất của chị em bốn đứa chúng tôi là  được dịp đua tài với hơn 20 anh chị em họ khác ở mọi mặt trận. Những đứa không thích kiểu đánh nhanh thắng nhanh của Tôm, Cua, Cá hay ủ ê quá lâu với Cá ngựa thì sẽ đều tụ lại để chơi Tiến lên. Có những ván “trong sáng” thì đặt cược những cái búng tai, tẹt mũi, đánh tay; nhưng cũng có ván “trong tối,” khi chúng tôi đặt cọc những tờ tiền lì xì 200, 500 đồng mới kính coong vừa nhận được. 

 Ngay cả ở thời điểm hiện tại, Tiến lên vẫn là kiểu chơi yêu thích của người viết. Phần vì thời gian chơi không quá lâu, dễ chơi với nhiều người, nhưng chủ yếu vẫn là do khả năng tính toán “trên chiếu trẻ em, dưới chiếu người lớn” của tôi. Do vậy, trong các kiểu chơi dành cho cao nhân như tá lả được trình bày ngay sau đây, tôi chủ động đóng vai khán giả.  

2. Tá lả

Đây là kiểu chơi bài thống lĩnh trong các dịp gặp mặt đầu xuân ở miền Bắc. Khi ai đó rủ: “Chơi bài đi!” nếu không nói cụ thể thêm, kiểu chơi bài ở đây mặc định là Tá lả. 

Với thời lượng chơi mỗi ván lý tưởng khoảng 5–7 phút cùng những luật chơi đòi hỏi khả năng quan sát, tính toán và kinh nghiệm “đọc vị” người chơi, Tá lả là một trong những kiểu chơi trí tuệ (và may rủi) cho người chơi cảm giác phấn khích làm chủ vận mệnh và sự nơm nớp trước những sự chuẩn bị bí mật của đối thủ. 

Sơ lược luật chơi

Tá lả thú vị nhất khi có 4 người chơi, ăn thua hơn khi có cặp đôi ngồi ở vị trí “chéo cánh” — họ có thể kìm kẹp người ngồi kế bên để đồng đội của mình có nhiều cơ hội hơn.

Mỗi người sẽ được chia 9 lá, riêng người đi đầu bốc thêm một lá ở “nọc,” tức xấp bài dư để giữa bàn. Mục đích cuối cùng của người chơi là kết hợp các lá bài, tạo bộ số đẹp hay gọi là “phỏm,” rồi hạ phỏm để bài ít điểm nhất có thể. 

Phải nói luôn rằng, tôi không kỳ vọng bạn đọc có thể nằm lòng quy tắc chơi Tá lả thông qua phần viết này. Các video hướng dẫn có lẽ sẽ trực quan hơn và quan trọng hơn cả vẫn là kinh nghiệm thực chiến như người ta vẫn hay đùa: “Cứ thua là hiểu ngay.” Hi vọng rằng, phần sơ lược luật chơi Tá lả sau sẽ giúp người đọc hứng thú để tìm hiểu thêm.

 

Một vài thuật ngữ cơ bản trong Tá lả

  • Phỏm: Bộ ít nhất 3 lá bài cùng số, hoặc dây tiến cùng chất
  • Cạ: Bộ hai lá bài, “suýt” đủ để tạo phỏm
  • Ù tròn: Toàn bộ bài tạo phỏm. Người chơi hạ bài và chiến thắng ngay lập tức
  • Móm: Không tạo được phỏm nào

Một vòng chơi diễn ra như sau:

  1. Người chơi đầu tiên cầm 10 lá, đánh một lá bài rác xuống. Người kế tiếp có quyền ăn nếu thấy có cơ hội tạo phỏm. Nếu không, bốc một lá bài ở nọc và tiếp tục bỏ một lá bài rác xuống cho người tiếp theo.
  2. Tiếp tục như vậy cho đến khi hết bài ở nọc hoặc có người ù. 
  3. Hạ phỏm và tính điểm. Không tính điểm phỏm chỉ tính tổng điểm bài rác. Người thắng là người có điểm ít nhất. 

Thực ra luật chơi không quá phức tạp, nhưng làm thế nào để “dụ” đối phương nhả đúng các lá bài mình thiếu thì cần một tay chơi lão luyện. Ngoài ra, với Tá lả, cái phức tạp nhất, cũng là điều khiến người ta mê say nó nhất lại là quy ước phạt. Tùy từng vùng miền và thống nhất của người chơi, các mức phạt-thưởng cho người thua, hớ, thắng khác nhau, nhưng có những cấm địa chính sau mà không ai muốn sa phải. Trong đó, phổ biến nhất là “đền”: Nếu vô tình nối giáo cho giặc bằng cách thả ba lá bài rác liên tiếp giúp người kế bên ăn, tạo phỏm và ù, bạn sẽ phải thay cả làng nộp phạt cho người ù (người  thắng). 

 

3. Tiến Lên miền Nam

 

Ở miền Nam, Tiến lên có thể được xem là “vua của mọi loại bài” vì độ phổ biến rộng rãi cũng như tính cạnh tranh cao của trò chơi. Về quy luật, Tiến lên miền Nam không có quá nhiều khác biệt so với phiên bản miền Bắc, nhưng cũng có những đặc điểm riêng để làm thay đổi cục diện thế trận.

Đầu tiên, Tiến lên miền Nam có phần dễ thở hơn khi cho phép người chơi đáp trả bằng những cây bài không đồng chất hoặc đồng màu. Nói cách khác, bạn có thể thỏa thích “mix and match” những cây bài tréo ngoe như bộ ba ♥5 ♠5 ♣5 hoặc sảnh ♠8 ♥9 ♥10 ♦J. Điều này tạo lợi thế lớn cho người chơi, vì không phải từng ngừng xé lẻ những cặp bài ăn ý hay cố thủ đến hết trận.

Tiếp theo, biến thể miền Nam có sự góp mặt của một “vũ khí hạng nặng” để “diệt” heo là đôi thông. Đây là tên gọi của tổ hợp ba đôi liên tiếp trở lên, như ♥5 ♠5 ♣6 ♥6 ♠7 ♥7 (ba đôi thông) hay ♣6 ♠6 ♣7 ♥7 ♠8 ♥8 ♦9 ♠9 (bốn đôi thông). Đôi thông càng lớn thì công lực càng mạnh. Chẳng hạn, ba đôi thông có thể chặt được một heo, nhưng phải đến bốn đôi thông thì mới hạ gục được đôi heo. 

Ngoài ra, ván bài có thể diễn ra chóng vánh và kết thúc ngay sau khi chia bài, gọi là “tới trắng,” nếu người chơi sở hữu một đội hình “quyền lực.” Có rất nhiều cây bài có khả năng làm điều này, nhưng một số tổ hợp thường được bắt gặp là:

  • Tứ quý heo: ♥2 ♦2 ♣2 ♠2
  • Sảnh rồng (12 lá bài liên tiếp nhau): ♠3 ♦4 ♥5 ♣6 ♥7 ♦8 ♦9 ♠10 ♥J ♠Q ♣K ♣A
  • Năm đôi thông: ♥4 ♠4 ♥5 ♦5 ♦6 ♣6 ♥7 ♣7 ♥8 ♦8
  • Sáu đôi: 4 ♥4 ♦5 ♥5 ♠6 ♥6 ♣7 ♥7 ♠J ♦J ♠K ♣K
  • Hai tứ quý: ♥4 ♦4 ♣4 ♠4 ♥9 ♦9 ♣9 ♠9

 

4. Xì dách

Bắt nguồn từ bài Blackjack, Xì dách được người chơi yêu thích nhờ sự gây cấn, cùng những khoảnh khắc khiến cả hội “ngỡ ngàng, ngơ ngác và bật ngửa” khi những lá bài nghiệt ngã được tiết lộ.

Để bắt đầu một ván Xì dách, chúng ta cần có ít nhất hai người chơi. Một người sẽ đảm nhận vai trò nhà cái, những người còn lại sẽ vào vai nhà con. Nhà cái là nhân vật cao tay nhất khi có quyền kiểm bài của tất cả người chơi. Ngược lại, các nhà con có thể hợp tác và tiết lộ bài cho nhau để chống lại thế lực này.

Trong mỗi ván, nhà cái sẽ lần lượt chia cho mình và nhà con mỗi người hai lá. Sau khi chia, tất cả người chơi sẽ cùng xem bài, tùy vào điểm số của mỗi người mà chọn bốc thêm bài hay không, nhưng nhà cái luôn người bốc sau cùng. Mục tiêu của người chơi là không để tổng điểm (của tất cả các lá bài trên tay) vượt quá 21. 

Trong Xì dách, các lá bài được tính điểm như sau: 

  • Các lá từ 2 đến 10 có giá trị tương ứng với số ghi trên bài. Chẳng hạn, nếu bốc phải lá 5, bạn sẽ có nhận được 5 điểm.
  • Các lá J, Q, K được tính là 10 điểm.
  • Lá A (Át/Xì) được tính là 1, 10, hoặc 11 tùy vào trường hợp.

Sau khi chia bài, nếu nhà cái hoặc nhà con sở hữu tổ hợp nào sau đây, người đó sẽ lập tức thắng cuộc:

  • Xì bàn: Hai lá A (20/21 điểm)
  • Xì dách: Một lá A và một lá 10, J, Q hoặc K (21 điểm)

 

Trong trường hợp không ai có xì bàn hoặc xì dách, người chơi có quyền bốc thêm bài để đạt điểm số mong muốn, hoặc chấp nhận kết quả số phận đã an bài (hành động này gọi là “dằn”). 

Tuy nhiên, bất kỳ lúc nào, nhà cái cũng có quyền lật bài nhà con nếu bản thân đã có đủ 16 điểm (đủ tuổi). Nếu nhà con chưa có đủ 16 điểm (chưa đủ tuổi) khi bị kiểm bài, họ sẽ bị xử thua ngay lúc đó. 

Khi tiến hành rút thêm bài, một số trường hợp đặc biệt như sau có thể xảy ra:

  • Ngũ Linh: Khi người chơi đạt dưới hoặc bằng 21 điểm với năm lá bài trên tay. Lúc này, họ sẽ là người thắng cuộc. Trong trường hợp có hai hay nhiều người chơi đạt Ngũ Linh, ai có ít điểm hơn sẽ là người chiến thắng. 
  • Quắc, chuyện xui rủi không ai muốn của xì dách: Khi người chơi có sổ điểm vượt quá 21. Người chơi bị quắc sẽ tự động thua cuộc và không được bốc tiếp.

5. Bài cào

Trong các loại bài phổ biến, bài cào có lẽ là trò chơi có quy luật đơn giản nhất, rất phù hợp cho những ai “gà mờ” nhưng vẫn muốn bon chen vào các cuộc vui Tết. Mỗi ván bài cào có thể ngã ngũ trong chưa đến vài phút, để lại nhiều ngẩn ngơ cho kẻ thua cuộc.

Không đòi hỏi chiến thuật cân não như Tiến lên, hay khả năng diễn xuất thần thánh như Xì dách, Bài cào thực sự là bài test nhân phẩm cho người chơi vì phụ thuộc hoàn toàn vào may mắn.

Mỗi người chơi sẽ được phát ba lá bài và dựa vào đó để tính tổng điểm (hay còn gọi là nút). Điểm trong Bài cào được tính trong khoảng 0 đến 9 — với 0 là nhỏ nhất và 9 là lớn nhất. Người chơi với số điểm bằng 9 hoặc gần 9 nhất sẽ là người chiến thắng. 

Cách tính điểm của Bài cào có một số tương đồng với Xì dách, trong đó:

  • Các lá từ 2 đến10 có giá trị tương ứng với số ghi trên bài. 
  • Các lá  J, Q, K, được tính là 10 điểm.
  • Lá A (Át/Xì) được tính là 1 điểm.

Tuy nhiên, trong Bài cào, tổng điểm chỉ được lấy từ hàng đơn vị. Chẳng hạn, nếu bạn rút được ba lá 8, 5, và 4, khi cộng lại là 17, tổng điểm của bạn sẽ là 7 điểm/nút. 

Trong một số trường hợp đặc biệt, dù không có số nút cao nhất, người chơi vẫn có thể vinh quang chiến thắng nếu sở hữu những combo đặc biệt như sau:

  • Sáp: Khi người chơi có ba lá bài giống nhau, như ♦3 ♣3 ♠3 hay ♥9 ♦9 ♣9. Trong trường hợp nhiều người chơi cùng có sáp, sáp của ai lớn hơn người đó sẽ thắng. Trong Bài cào, A là sáp có giá trị lớn nhất, và 2 là sáp có giá trị nhỏ nhất.
  • Liêng: Khi người chơi có ba quân bài liên tiếp nhau như ♦3 ♣4 ♠5. Trong trường hợp nhiều người chơi cùng có liêng, liêng của ai lớn hơn người đó sẽ thắng. Trong Bài cào, QKA là liêng có giá trị lớn nhất, còn A23 là liêng có giá trị nhỏ nhất.
  • Ba tây: Khi người chơi có ba lá mặt người JQK. Trong trường hợp nhiều người chơi cùng có ba tây, người chơi có thể phân định thắng thua bằng cách so chất của các lá bài theo thứ tự (> > ♣ > ♠).

Nhân dịp Tết lại gần kề, Urbanist xin điểm qua những kiểu chơi bài phổ biến nhất hai miền Nam-Bắc trong cẩm nang rút gọn sau đây. Dù là người mới nhập môn cần ôn tập cấp tốc, hay lão tướng thượng thừa cân hết cả team, chúng tôi mong độc giả nào cũng sẽ biết thêm điều gì đó hay ho về thú vui quốc dân này cho những ngày mùng sắp tới.



]]>
info@saigoneer.com (Diệu Anh và Uyên Đỗ. Graphic: Phan Nhi và Hannah Hoàng. Ảnh: Lê Thái Hoàng Nguyên. ) Văn Hóa Mon, 05 Feb 2024 12:49:00 +0700
Tự chọn áo dài Tết, tôi tìm thấy mình trong hình ảnh nữ tính 'không truyền thống' https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17644-tự-chọn-áo-dài-tết,-tôi-tìm-thấy-mình-trong-hình-ảnh-nữ-tính-không-truyền-thống https://saigoneer.com/vn/vietnam-culture/17644-tự-chọn-áo-dài-tết,-tôi-tìm-thấy-mình-trong-hình-ảnh-nữ-tính-không-truyền-thống

Trung học có lẽ là giai đoạn ẩm ương đối với hầu hết chúng ta, như những mô típ kinh điển trong các bộ phim tuổi mới lớn. Sinh ra và lớn lên tại Việt Nam và đã trải qua khoảng thời gian mài đũng quần ở đây, nét văn hóa từng làm tôi vô cùng chật vật chính là quy định mặc áo dài mỗi sáng thứ 2 chỉ áp dụng riêng cho học sinh nữ.

Quy định này là lý do duy nhất khiến tôi bị mời phụ huynh, vì hàng tuần liền tôi đã cố gắng lách luật. Thông thường, các bạn nữ dù có khó chịu với việc mặc áo dài cũng sẽ ngậm đắng nuốt cay tuân theo vì cố ý vi phạm chỉ gây phiền toái. Hành động cố ý không mặc đồng phục áo dài của tôi trong mắt thầy cô tôi như cái vẫy vùng để gây chú ý. Trên thực tế, việc tôi kiên trì “cúp” mặc áo dài không phải vì tôi ghét bỏ gì bộ trang phục, nó đến từ việc giáo viên liên tục cố gắng “đóng khung” chúng tôi vào hình ảnh nữ tính mà họ muốn khi chúng tôi mặc áo dài.

 

Tháng Giêng

2024

 
Áo dài truyền thống. Nguồn ảnh: Thanh Niên.
 

Tháng Giêng

2024

 
Tuy có nhiều phiên bản áo dài khác nhau nhưng các cơ sở trường học tại Việt Nam chỉ chấp nhận loại áo dài trắng, ôm sát cơ thể làm đồng phục cho nữ sinh.

Ngày nay áo dài được thiết kế và may dưới nhiều kiểu dáng và phong cách khác nhau, ngoài áo dài truyền thống, chúng ta còn có áo dài dáng suông, và cả áo dài cách tân với đủ màu sắc và loại vải. Tuy nhiên trong môi trường học đường, áo dài truyền thống vẫn luôn là dáng áo duy nhất được chấp nhận. Áo dài truyền thống bấy lâu nay vẫn luôn là dáng áo dài phổ biến nhất, nhưng form ôm sát của loại áo dài không thật sự dành cho tất cả mọi người. Cách áo ôm sát cơ thể, làm cho việc xoay sở hoạt động thường nhật khó khăn, cách áo thắt eo cũng gây nhiều khó khắn cho các bạn gái tuổi teen chưa có hình thể lý tưởng hay sự tự tin.

 

Tháng Giêng

2024

 
Áo dài dáng suông thể hiện sự diệu dàng nhưng vẫn mang giữ được kiểu dáng thoái mái. Nguồn ảnh: Thể thao và Văn hóa.

Lúc ấy tôi đang tuổi mới lớn, còn khổ sở với vấn đề cân nặng và cách nhìn nhận bản thân, tôi cảm thấy như mọi sự lo âu và khuyết điểm cơ thể mình đều bị phô bày cho cả thế giới thấy khi mặc áo dài đồng phục. Nhưng điều bực mình hơn cả có lẽ là những khuôn phép giáo điều mà giáo viên lúc ấy muốn áp đặt lên chúng tôi khi mặc áo dài. Các bạn nữ được dạy là phải ra vẻ e lệ và thanh nhã, đi đứng ăn nói nhỏ nhẹ và cố gắng tươi tỉnh xinh xắn nhất có thể khi mặc áo dài, hãy luôn tươi cười dù cảm thấy không thoải mái, bởi vì bài học ở đây là phụ nữ thì phải ưu tiên việc nhìn sao cho đẹp hơn là cảm thấy thoải mái với chính bản thân mình. Lúc ấy trong mắt tôi, áo dài chỉ là một công cụ dùng để áp đặt hình ảnh nữ tính truyền thống mà giáo viên cho rằng là lý tưởng lên chúng tôi, một cùm gông đặt ngoại hình của phụ nữ quan trọng hơn tất cả mọi phẩm chất khác.

Mùa xuân năm 2023, tôi cũng đã sắp 23 tuổi, một người bạn trong nhóm gợi ý cả bọn thuê áo dài mặc Tết năm ấy. Tôi ngạc nhiên vì trong nhóm chúng tôi chả có ai từng mặn mà với việc mặc áo dài. Tôi cũng hơi e ngại vì cứ nghĩ đến kỷ niệm không mấy tốt đẹp với áo dài ngày còn ngồi trên ghế nhà trường. Nhưng lần này, tôi tự nhủ, đã không còn giáo viên nào cố gắng bắt ép tôi đi đứng hay cư xử ra sao, tôi quyết định thử xem sao. Tốn một chút thời gian nhưng cuối cùng tôi cũng tìm được một bộ áo dài dáng suông màu xanh ngọc. Lúc khoác bộ áo dài lên người, tôi bất ngờ vì nó hợp tôi đến vậy. Thoải mái mà vẫn vui vẻ là hai tâm trạng mà trước đó tôi không nghĩ mặc áo dài có thể mang lại. Khoảnh khắc ấy khiến tôi thật sự hạnh phúc được mặc một bộ trang phục mà tôi từng cho rằng tượng trưng cho cái tính nữ học đường đầy bó buộc mà tôi chưa bao giờ thấy hợp với mình.

Suy cho cùng, có lẽ hành trình học yêu lại tà áo dài cũng là một phần của hành trình tìm kiếm danh tính — từ việc chật vật vì không thấy chính mình trong hình ảnh nữ tính truyền thống, tôi đã học cách trân trọng một nét văn hóa mặc áo dài mà không đánh mất bản thân.

]]>
info@saigoneer.com (Ngọc Hân. Ảnh: Yumi-kito.) Văn Hóa Fri, 02 Feb 2024 17:54:21 +0700