Tháng 7 Âm lịch vốn là khoảng thời gian có nhiều ngày lễ truyền thống mang đậm màu sắc tâm linh và triết lý nhân sinh từ nghìn xưa, thể hiện rõ nét văn hóa giàu đẹp của dân tộc.
Hãy cùng Saigoneer điểm lại nguồn gốc và ý nghĩa của các nghi lễ, phong tục diễn ra trong khoảng thời gian vô cùng quan trọng trong đời sống tâm linh của người Việt: Thất Tịch vào mùng 7, đại lễ Vu Lan báo hiếu vào ngày 15, và Tết Trung Nguyên cũng vào ngày rằm của tháng. Hi vọng qua đó, độc giả có thể tự nhìn nhận về độ "thiếu-đủ" trong sự chuẩn bị bản thân.
Lễ Thất Tịch
Lễ Thất Tịch bắt nguồn từ Trung Quốc và được tổ chức vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch hằng năm, đôi khi được người phương Tây gọi là ngày Valentine Đông Á. Lịch sử về ngày này bắt đầu từ thời nhà Hán và gắn liền với tích truyện Ngưu Lang Chức Nữ với nhiều dị bản được lưu truyền cho đến nay. Tại các quốc gia châu Á khác, ngày lễ Thất Tịch được tổ chức với nhiều nghi thức và hoạt động khác nhau: Hàn Quốc có lễ Chilseok, Nhật Bản tổ chức lễ hội Tanabata, và Việt Nam cũng ăn mừng ngày Thất Tịch.
Chuyện xưa kể rằng, Ngưu Lang là vị thần chăn trâu của Ngọc Hoàng, chàng đem lòng yêu nàng tiên dệt vải Chức Nữ. Cả hai vì đắm chìm trong tình yêu mà không hoàn thành tốt công việc của mình, khiến Ngọc Hoàng tức giận và đày hai người ra hai đầu dải Ngân Hà, mỗi năm chỉ được gặp nhau vào ngày Thất Tịch (7 tháng 7 Âm lịch) trên chiếc cầu Ô Thước do đàn quạ trời tạo nên. Khi tiễn biệt nhau, đôi uyên ương không ngừng khóc than và nước mắt của họ đã rơi xuống trần gian hóa thành cơn mưa.
Chuyện tình bi thương ấy đi vào văn hóa Việt Nam với một tên gọi nữa là Ông Ngâu bà Ngâu và được dùng để giải thích hiện tượng mưa ngâu — những cơn mưa rả rích và liên tiếp xuất hiện vào đầu tháng 7 Âm lịch hàng năm.
Thiên văn học Trung Quốc cũng gọi sao Vega, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Cầm (Lyra), là sao Chức Nữ; và gọi sao Altair, ngôi sao sáng nhất trong chòm sao Thiên Ưng (Aquila), là sao Ngưu Lang. Hai ngôi sao này nằm ở hai đầu con sông Ngân lấp lánh bắc ngang qua bầu trời đêm.
Điểm khác biệt lớn nhất trong ngày lễ Thất Tịch của văn hóa Việt có lẽ bắt đầu vào đời vua Lý Thánh Tông (1023-1072). Lịch sử ghi lại rằng, khi vua ở độ tuổi 42 nhưng vẫn chưa có con để truyền ngôi vị, vì vậy nên đã cầu tự vào ngày 7 tháng 7 ở một ngôi chùa, nhờ đó mà đón tin mừng, sinh ra Thái tử Càn Đức. Cũng bởi lý do này nên hàng năm vào ngày 7 tháng 7 Âm lịch trọng lễ đã được tổ chức ở chùa Hà và trở thành lễ hội cầu tình duyên, con đàn cháu đống, gia đình hạnh phúc.
Người ta tin rằng hai người yêu nhau nếu cùng ngắm sao Ngưu Lang, Chức Nữ trong đêm mồng 7 tháng 7 thì sẽ mãi mãi bên nhau. Ngoài ra, giới trẻ cũng thường truyền miệng nhau rằng ăn chè đậu đỏ sẽ giúp tình yêu đôi lứa thêm bền vững hay người độc thân sẽ tìm sớm được tình duyên cho mình.
Lễ Vu Lan
Lễ Vu Lan (15/7 Âm lịch) là một trong những đại lễ quan trọng của Phật giáo, thường được gọi là lễ Vu Lan Bồn hay lễ Báo hiếu. Đại lễ này bắt nguồn từ một bộ kinh Đại Thừa là kinh Vu Lan Bồn (kinh Ullambana).
Bộ kinh kể về câu chuyện sau: Thời Phật Thích Ca Mâu Ni còn tại thế, trong số các đệ tử của ngài có một vị tôn giả tên Mục Kiền Liên (Maudgalyayana), sau này đắc quả A La Hán, thoát khỏi nghiệp sinh tử và có pháp lực thần thông cao cường. Sau khi đắc đạo, Mục Kiền Liên dùng thiên nhãn để tìm kiếm song thân đã khuất, ngài nhìn thấy mẹ của mình là bà Thanh Đề đã bị đọa làm ngạ quỷ, bị đói khát hành hạ khổ sở. Mục Kiền Liên vô cùng đau xót bèn cầm một bát thức ăn dùng thần lực mang xuống âm phủ cho mẹ. Tuy nhiên, do đói ăn lâu ngày nên khi ăn bà đã dùng một tay che bát cơm của mình đi không cho các cô hồn khác đến tranh cướp, vì vậy khi thức ăn đưa lên miệng đã hóa thành hòn than rực đỏ.
Mục Kiền Liên đành cầu xin Đức Phật giúp đỡ. Đức Phật khuyên rằng đợi đến ngày rằm tháng bảy, ngày chư tăng mãn hạ, thiết lễ và nhờ chư tăng chú nguyện, mới giúp mẹ thoát khỏi cảnh địa ngục.
Mục Kiền Liên làm theo lời Đức Phật và đã giải thoát được cho mẹ mình. Đức Phật cũng dạy rằng: chúng sanh ai muốn báo hiếu cho cha mẹ cũng làm theo cách này. Từ đó, ngày lễ Vu Lan ra đời.
Ngày nay, Vu Lan còn được xem là Ngày của Mẹ ở Việt Nam. Các chùa thường có nghi lễ cài hoa hồng trên áo cho Phật tử tham gia lễ: ai còn mẹ thì đeo bông hồng đỏ, ai không còn mẹ thì đeo bông hồng trắng. Nghi thức này nhắc nhở mọi người phải làm tròn chữ Hiếu. Vu Lan cũng đã trở thành ngày lễ hàng năm để tưởng nhớ công ơn cha mẹ và các bậc tổ tiên, nhắc nhở mỗi người phải biết trân trọng những gì mình đang có và luôn biết ơn các bậc tiền nhân.
Tết Trung Nguyên
Theo quan niệm dân gian, tháng 7 Âm lịch được gọi là Tháng cô hồn và mang lại nhiều xui xẻo vì đây là khoảng thời gian địa phủ mở cửa cho phép vong linh đến thăm dương thế, vất vưởng khắp nhân gian. Vì thế trong tháng này, người ta sẽ kiêng thực hiện các việc đại sự như ký kết hợp đồng, kinh doanh hay đi đến việc đến bệnh viện, vì lo sợ ma quỷ đến phá. Ngày rằm của tháng là Tết Trung Nguyên hay còn gọi là ngày Xá tội vong nhân với phong tục cúng cô hồn để siêu sinh cho những linh hồn không nơi nương tựa ấy.
Ngày lễ này có nguồn gốc từ Đạo giáo của Trung Quốc, gắn liền với truyền thuyết kể rằng vào ngày 2 đến ngày 14 tháng 7 Âm lịch, Diêm Vương sẽ mở cửa địa ngục để mọi linh hồn đói khát trở về dương thế. Vì thế, các nhà phải cúng thức ăn, thắp nhang và đốt vàng mã ở ngoài sân hay trước cửa nhà để cô hồn không đến quấy nhiễu. Mặt khác, lễ xá tội vong nhân xuất phát từ quan niệm ban phước cho các cô hồn chưa được siêu thoát, vì vậy việc tế lễ không đơn thuần là cầu cúng theo mê tín mà thể hiện tấm lòng của người còn sống với người đã khuất.
Khi nhang vừa hết, chủ nhà mang ra một mâm đồ cúng bao gồm tiền lẻ, bắp rang, khoai lang luộc, cùng các loại bánh kẹo ra đường. Những đứa trẻ trong xóm sẽ chờ đợi để được giật cô hồn, chúng cố gắng giật đồ cúng từ mâm càng nhiều càng tốt. Người ta tin rằng càng nhiều người chia sẻ thức ăn, thì chủ nhà sẽ càng có nhiều may mắn và những đồ cúng ấy ăn vào không bị sao cả. Tuy nhiên, có một điều cần ghi nhớ là món nào khi người khác đã cầm thì ta không nên đụng vào. Và nếu đồ cúng ta giật được lại bị người khác lấy mất thì cũng nên bỏ qua, vì rất có thể đó là do một linh hồn đói khát đang đòi lại thức ăn của mình.
Trong kinh nhà Phật cũng có nói về ngạ quỷ (ma đói) và nghi thức tế lễ bố thí. Đó là câu chuyện về A Nan, một trong mười đại đệ tử và là thị giả của Đức Phật, cùng với một ngạ quỷ tên Diệm Khẩu miệng nhả ra lửa.
Chuyện kể rằng: Một buổi tối, A Nan đang ngồi trong phòng thì thấy một con quỷ tiều tụy với chiếc cổ nhỏ dài và miệng phát ra lửa. Quỷ báo cho A Nan rằng, ba ngày sau A Nan sẽ mất và sẽ luân hồi vào cõi ngạ quỷ. A Nan hoảng sợ, hỏi nhờ quỷ hướng dẫn tránh khỏi kiếp nạn.
Quỷ nói: "Ngày mai phải thí cho bọn tôi mỗi đứa một chút thức ăn và soạn lễ cúng dường Tam Bảo thì ông sẽ được tăng thọ, còn tôi sẽ được sinh về cõi trên.”
A Nan đem chuyện này báo với Đức Phật. Ngài truyền dạy cho A Nan một bài chú để làm lễ, và tục cúng cô hồn bắt nguồn từ sự tích trên.
Nói về tháng cô hồn, Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm, Phó Chủ tịch Hội đồng Trị sự, Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam chia sẻ rằng không có tháng nào gọi là tháng cô hồn trong kinh của Phật giáo. Người Phật tử tu tập để trả lại bốn ơn lớn: ơn cha mẹ sinh thành và thầy cô dạy bảo; ơn quốc gia xã hội; ơn tất cả mọi loại chúng sinh; và ơn Tam bảo — Phật, Pháp và Tăng. Riêng trong tháng 7, Phật giáo nặng về ơn cha mẹ sinh thành nhất, vậy nên dân gian ta mới có câu “cúng cả năm không bằng rằm tháng 7.”
Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, người Việt đã kết hợp phong tục này cùng với lễ báo hiếu. Các Phật tử thường tổ chức nghi lễ thả đèn hoa đăng để cầu bình an cho người thân, thể hiện sự hiếu đễ đối với các bậc sinh thành. Nói thêm về việc cúng rằm tháng 7, Hoà thượng Thích Bảo Nghiêm cho rằng đó là để tri ân, báo hiếu tổ tiên, ông bà, cha mẹ, trên tinh thần của Phật giáo là yêu thương muôn loài, nên khi cúng người ta cúng cả cho những cô hồn không mồ mả, không con cháu hương hoả.