Trong vòng 30 năm trở lại đây, nền kinh tế của thành phố Hồ Chí Minh đã và đang chứng kiến một sự chuyển mình mạnh mẽ. Từ năm 1986 khi nhà nước thực hiện chính sách Đổi Mới, nới lỏng một số luật đầu tư từ bên ngoài, cũng là lúc thành phố này trở nên cởi mở hơn với những thay đổi và dần khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế.
Thành phố bắt đầu trở thành điểm đến của nhiều người nước ngoài, người dân dần sở hữu xe hơi riêng, các công ty tư nhân mọc lên và sự xuất hiện của nhiều nhãn hàng, chuỗi kinh doanh quốc tế. Các con đường, ngõ phố không nhộn nhịp những hàng, những quán, thì cũng lổm nhổm những tòa nhà cao tầng. Các nguồn đầu tư ào ạt tuy có nhiều ảnh hưởng lên cuộc sống cũng như văn hoá của Sài Gòn, nhưng thể hiện rõ nhất về tinh hoa di sản có lẽ không ở đâu xa mà chính là ở kiến trúc đô thị của thành phố.
Tuyệt nhiên đây không phải lần đầu tiên người ta dựa vào kiến trúc để thăm dò sự dịch chuyển trong danh tính văn hoá của thành phố Hồ Chí Minh, và xem đó như một gợi nhắc về một thời đã qua nay vẫn còn miên diên giữa quang cảnh đô thị hiện đại.
Kiến trúc sư trưởng Hoàng Phương Thái nhìn nhận: “Thành phố này là một thực thể đang sống. Nó phát triển và phản chiếu tâm tư, suy nghĩ của người dân ở đây.” Với hơn 14 năm trong nghề, anh Phương Thái cũng như phần lớn đồng nghiệp của mình, luôn xem thay đổi là một phần tất yếu của cuộc sống.
Trò chuyện cùng chúng tôi, anh lấy dẫn chứng hình ảnh Sài Gòn những năm thuộc địa để khẳng định: “Thành phố luôn phải chiều lòng những nguồn chủ lực và những mong muốn của họ. Ngày đó, khi dân số Sài Gòn chỉ vỏn vẹn có 500.000 người thì tầng lớp giàu có quyền lực muốn xây nhà ở đâu, to bao nhiêu, cao thế nào tùy họ”.
Ngày nay, tình trạng đất chật người đông dẫn đến việc các tòa nhà buộc phải xây cao lên. Anh Phương Thái cũng nhận thấy xu hướng “Tây hóa” trong các xây dựng ở Sài Gòn những năm trở lại đây. Anh giải thích rằng các kiến trúc sư nước ta không tránh khỏi các ảnh hưởng ngoại lai bởi họ có kinh nghiệm trong việc xây dựng các kiến trúc cao tầng (hoặc các hệ thống đường dài như tuyến tàu điện ngầm đầu tiên của thành phố cũng hỏi hỏi từ công nghệ Nhật Bản).
Theo anh, phong cách kiến trúc thay đổi cũng một phần do tốc độ gia tăng dân số chóng mặt và như chẳng hề có dấu hiệu dừng. Anh bảo rằng “chỉ khi có phát minh công nghệ mới hoặc nhận thức của người dân thay đổi, còn không các nhà cao tầng thẳng đứng chính là tương lai tất yếu của các thành phố đang phát triển.”
Ta không cần phải ngược thời gian về thời Đông Dương Pháp thuộc để thấy được sự khác biệt trong lối kiến trúc của thành phố. Khi nhà nghiên cứu lịch sử kiến trúc Mel Schenck đến thành phố Hồ Chí Minh vào năm 1972, ông đã vô cùng ngỡ ngàng bởi sự hiện diện của hằng hà sa số những công trình đậm đặc tinh thần kiến trúc hiện đại. Theo nhận định của ông, chính nền văn hoá độc lập và đầy lạc quan về tương lai là kênh dẫn cho sự xuất hiện của chủ nghĩa Hiện đại. Ông tin rằng, chính những giá trị đó đã ám định một giai đoạn lịch sử của Việt Nam.
Ông chia sẻ thêm: “Các kiến trúc sư Việt Nam bỏ qua lối kiến trúc thuộc địa và Art Deco của Pháp mà nhảy cóc sang chủ nghĩa Hiện đại. Điều này có lẽ do họ muốn thể hiện sự tự do cũng như mong muốn quê hương họ trở nên hiện đại hơn trong thời kỳ công nghiệp.”
Cú thoát thai ngoạn mục này của kiến trúc Việt bắt đầu thành hình ngay khi người Pháp rời Đông Dương vào năm 1954, và trở nên phổ biến mãi đến cuối những năm 1970. Sau đó, thi thoảng người ta vẫn thấy hiện diện của phong cách hiện đại lấp loáng đâu đó. Đó là quãng thời gian của tự hào dân tộc, vì thế cũng chẳng mấy bất ngờ khi hầu hết các công trình lớn là tạo tác của các kiến trúc sư người Việt.
Các kiến trúc và cung cách xây dựng của họ hồi này phản ánh sâu sắc bối cảnh văn hóa, xã hội ở thời kỳ trọng đại của đất nước. Nhắc đến Dinh Độc Lập, Mel bảo rằng công trình này chính là một “biểu tượng về tinh thần và khát vọng của một đất nước độc lập chủ quyền.”
Chính diện của Dinh Độc Lập.
Người Pháp xây dựng và hoàn thành cấu trúc cơ bản của Dinh Độc Lập vào năm 1873, sử dụng toàn bộ nguyên vật liệu nhập khẩu từ châu Âu. Lần thay da đổi thịt thứ hai và vẫn tồn tại đến bây giờ do tổng thống Ngô Đình Diệm “đặt hàng” kiến trúc sư Ngô Viết Thụ thiết kế.
Một số công trình đáng chú ý khác còn có Thư viện Khoa học Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh nằm trên đường Lý Tự Trọng (hoàn thành năm 1971) – là tạo tác của cặp kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thiện và Bùi Quang Hanh. Ngoài ra, còn có vòng xoay Hồ Con Rùa (hoàn thành năm 1963) ở quận 3 do tướng Nguyễn Văn Thiệu đề xuất và thực hiện bởi kiến trúc sư Nguyễn Kỳ. Những ví dụ này chỉ là một phần của tảng băng trôi và tôi tin còn nhiều công trình như thế rải rác quanh các quận huyện trong thành phố.
Thư viện Khoa học Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh trên đường Lý Tự Trọng, quận 1.
Quay lại với hiện tại, ta không thể phủ nhận việc chính sách đổi mới kinh tế đã có nhiều ảnh hưởng lên thành phố Hồ Chí Minh. Vậy thì, khi ta gióng chỉnh nó trên bản đồ thế giới, liệu thành phố Hồ Chí Minh có đang mất đi cái hồn cốt riêng?
Mel thừa nhận: “Xu thế hội nhập đang ăn mòn danh tính đô thị của thành phố Hồ Chí Minh bởi lẽ nhiều toà nhà có giá trị lịch sử đang dần biến mất.” Ông nói thêm: “Ở đây, ngày càng có nhiều khách sạn cao tầng và nhà ở theo phong cách tân cổ điển ‘Pháp kiểu mới’ mọc lên.”
Tuy nhiên, ông cũng nhận thức được rằng cuộc sống ở đây không chỉ phụ thuộc vào mỗi các tụ điểm du lịch và trung tâm kinh tế. Mel bảo: “Hầu hết dân bản xứ tập trung sinh sống ở các khu dân cư ngoài quận 1, quận 2 và quận 3 và hiếm khi chạy xe lên trung tâm. Vậy nên, cảm quan về văn hoá của thành phố này chính là những gì họ nhìn thấy ở khu vực họ sống.”
Bản sắc văn hoá qua lăng kính mỗi người có một màu sắc khác nhau. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng cả Mel và anh Phương Thái đều chung nhận xét rằng đa số các công trình kiến trúc quy mô của thành phố hiện nay đều ưu tiên lợi nhuận hơn là thiết kế. Khác với anh Phương Thái, Mel dường như thông cảm hơn với các kiến trúc sư Việt Nam bởi họ đã nằm ngoài cuộc chơi trong một thời gian quá dài.
Vinhomes Central Park là một trong những ví dụ tiêu biểu của công trình hiện đại có quy hoạch lớn.
Dù vậy, Mel vẫn có niềm tin vào những dự án đương đại do các kiến trúc sư người Việt dẫn dắt, đơn cử là dự án mở rộng Kho Bạc Nhà Nước trên đường Nguyễn Huệ vào năm 2007. Ông hy vọng rằng thành phố sẽ sớm định hình một nếp kiến trúc riêng trong nay mai bởi theo ông, “những kiến trúc sư Việt đi trước đã chứng minh rằng đó là điều khả thi.”