Sài·gòn·eer

BackDi Sản » Trương Văn Bền và câu chuyện về Xà Bông Cô Ba

Trương Văn Bền và câu chuyện về Xà Bông Cô Ba

Từng là một trong những thương hiệu hàng Việt có tiếng nhất khu Sài Gòn – Chợ Lớn, xà bông cô Ba là thành tựu to lớn nhất gắn liền với sự nghiệp kinh doanh lẫy lừng của doanh nhânh tài ba Trương Văn Bền. 

Sinh ra ở khu Chợ Lớn, nơi quy tụ nhiều người Việt gốc Hoa (còn được gọi là người Minh Hương), Trương Văn Bền (1883-1956), là cháu trai của một người huyện trưởng huyện Rạch Giá thời Nguyễn, thuộc dòng dõi Phúc Kiến. Xuất thân từ một gia đình khá giả, ông được hưởng nền giáo dục tân tiến của Pháp thời bấy giờ tại các trường Pháp như École Municipale française de Cholon, và sau đó là trường quý tộc Collège Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn. Ngoài ra, ông còn được dạy kèm riêng các môn tiếng Việt và tiếng Hoa.

Trương Văn Bền bắt đầu sự nghiệp buôn bán vào năm 1901, khi ông mở một cửa tiệm tạp hóa nhỏ gần một con kênh ở số 40 quai du Cambodge (đường Kim Biên), Chợ Lớn. Ông dần mở rộng việc làm ăn bằng cách mua sỉ từ các thương gia Trung Quốc rồi bán lại cho các tiệm tạp hóa lẻ để ăn lời khoản chênh lệch. Nhờ đó, ông tích lũy được một khoản nhỏ.

Rue de Canton (Nay là đường Triệu Quang Phục) ở Chợ Lớn trong thời kỳ Pháp thuộc.

Năm 1905, từ số vốn đã tích góp, ông đầu tư mở một xưởng sản xuất và tinh luyện dầu ở Thủ Đức. Một năm sau, ông mở thêm nhà máy xay gạo ở Chợ Lớn và Rạch Các. Tuy nhiên, ông sớm nhận ra tiềm năng của ngành sản xuất dầu và tập trung mở thêm một cơ sở sản xuất ở Chợ Lớn, mang tên “Huilerie de Cholon,” với nhà máy ở Thủ Đức và kho bãi đặt tại 40-49 quai du Cambodge. Xưởng này của ông Bền kinh doanh thành công và trở thành một trong những doanh nghiệp có tiếng trong thành phố.

Năm 1917, ông mở rộng kinh doanh, gia tăng sản xuất, và xây dựng một nhà máy sản xuất công nghiệp lớn hơn trên đường Route basse de Cholon (nay là đường Võ Văn Kiệt) ở Chợ Quán, nhằm tăng sản lượng và đa dạng hóa các sản phẩm của mình bao gồm dầu ăn, dầu salad, dầu dừa, dầu vừng, dầu thầu dầu, dầu cao su và các loại dầu dùng trong kỹ nghệ. Ông Bền đầu tư rất nhiều vốn để nhập khẩu máy móc tiên tiến chạy bằng động cơ hơi nước từ Pháp và Mỹ cho các công đoạn làm sạch nguyên liệu, tách vỏ đến nghiền, ép và lọc dầu.

Trụ sở của Xà bông Việt Nam tại 40-49 Quai, sau này là Rue de Cambodge (nay là Chợ Kim Biên, quận 5)

Vào năm 1920, xưởng của ông sản xuất khoảng 10 tấn dầu mỗi ngày, chủ yếu phân phối dầu thầu dầu cho các bệnh viện, hiệu thuốc miền Nam và xuất khẩu dầu dừa qua Pháp và Mỹ. Đến giữa thập niên 1920, các nông trại của ông Bền ở Mỹ Tho và Đồng Tháp Mười đã đủ khả năng cung ứng phần lớn nguyên liệu thô cho các xưởng sản xuất của ông.

Cũng trong giai đoạn này, Trương Văn Bền phát triển thêm ngành sản xuất cao su, và thành lập đồn điền sản xuất rộng 70 hecta ở khu làng Linh Chiểu Trung và Phong Phú tại Gia Định (nay thuộc Quận 9 và Thủ Đức), cách Sài Gòn 15 cây số.

Với tiếng tăm vang dội về tài kinh doanh của mình, ông Bền bắt đầu tham gia tích cực vào giới chính trị. Năm 1920, Trương Văn Bền được bầu cử làm thành viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ, và từ năm 1924, ông là hội viên của Phòng Thương mại Nam Kỳ. Sau đó, ông tiếp tục được đề cử và giữ những trọng trách lớn hơn. Vào năm 1932, ông là người Việt Nam đầu tiên trở thành Phó Chủ tịch của Phòng Thương mại Nam Kỳ. Ông Bền đã đương nhiệm 9 năm liên tiếp trước khi về hưu năm vào năm 1941.

Vào năm 1920, xưởng của ông sản xuất khoảng 10 tấn dầu mỗi ngày, chủ yếu phân phối dầu thầu dầu cho các bệnh viện, hiệu thuốc miền Nam và xuất khẩu dầu dừa đi Pháp và Mĩ. Đến giữa thập niên 1920, các nông trại của ông Bền ở Mỹ Tho và Đồng Tháp Mười đã đủ khả năng cung ứng phần lớn nguyên liệu thô cho các xưởng sản xuất của ông.

Cũng trong giai đoạn này, Trương Văn Bền phát triển thêm ngành sản xuất cao su, và lập đồn điền sản xuất (Plantation de Truong-Van-Ben) rộng 70 hecta ở khu làng Linh Chiêu và Phong Phú tại Gia Định (nay thuộc đất Quận 9 và Thủ Đức), cách Sài Gòn 15 cây số.

Với tiếng tăm vang dội về tài kinh doanh của mình, ông Bền bắt đầu có vai trò tích cực trong thế giới chính trị. Năm 1920, Trương Văn Bền được bầu cử làm thành viên Hội đồng quản hạt Nam Kỳ, và từ năm 1924, ông được làm thành viên của Phòng thương mại Nam Kỳ. Sau đó, ông tiếp tục được đề bạt giữ những trọng trách lớn hơn. Vào năm 1932, ông trở thành Phó chủ tịch của Phòng thương mại Nam Kỳ, đây là lần đầu tiên một người Việt Nam đã đạt được chức vụ cao như thế này. Ông Bền đã đương nhiệm 9 năm liên tiếp trước khi về hưu năm 1941.

Trương Văn Bền trước khi sang Pháp.

Đây cũng là thời kì mà làn sóng căm phẫn đối với độc quyền thương mại của các thương lái Pháp và Trung Quốc dấy lên mạnh mẽ nhất, dẫn đến sự phát triển của phong trào chủ nghĩa dân tộc kinh tế Việt Nam mới. Đi đầu trào lưu này không ai khác chính là ông Trương Văn Bền.

Đầu những năm 1920, chính quyền thuộc địa đặt ra “dự án Candalier” nhằm cho phép các công ty liên doanh Pháp thuê lại thương cảng Sài Gòn – Chợ Lớn trong vòng 15 năm. Nhận thấy nguy cơ tiềm ẩn tới hoạt động giao thương của thị trường Việt Nam, ông Bền đã có nhiều đóng góp tích cực để chống lại dự án này.

Năm 1926, ông tham gia vào việc thành lập Parti travailliste Indochinois (Phái Đông Dương Lao động) với tôn chỉ “tập hợp các thành phần: nhà kỹ nghệ, công chức, địa chủ, thương nhân và người lao động, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng cho chính họ.” Phái Đông Dương Lao động cũng đã phát hành hai tuần một lần các tờ L’Ère nouvelle và Nhựt Tân Báo.

Khi còn là thành viên thường trực của Grand Conseil des intérêts économiques et financiers de l’Indochine (Đại Hội đồng Kinh tế Tài chính Đông Dương) vào năm 1929, ông Bền đã đấu tranh quyết liệt để bảo vệ quyền lợi kinh tế cho người dân Việt Nam. Mười năm sau, vẫn vẹn nguyên tinh thần dân tộc quật cường ấy, ông Bền tiếp tục tích cực phản đối quyết định của chính quyền thuộc địa về việc ngăn cấm sử dụng các bài thuốc cổ truyền với lý do thiếu dẫn chứng thuyết phục. Ông cương quyết rằng đạo luật sẽ tạm hoãn việc đưa ra quyết định cho vấn đề này cho đến khi Hội đồng thuốc y học cổ truyền đã xem xét và đưa ra khuyến nghị.

Điều làm nên tên tuổi lẫy lừng của Trương Văn Bền trong giới thương nhân Sài Gòn là khi ông quyết định đầu tư sản xuất xà bông vào năm 1932. Con trai ông là Trương Khắc Cẩn, người trực tiếp đứng quyền điều hành công ty từ năm 1970 đến 1975, kể lại “Có 2 sản phẩm mà nhất nhất ai cũng dùng, là giấy và xà bông. Ba tôi chọn bán xà bông”.

Thời đó, xà bông hàng nội địa thường kém về chất lượng lẫn mẫu mã và đa số xà bông được tiêu thụ ở miền Nam đều được nhập khẩu từ Pháp, đặc biệt là nhãn hiệu Savon de Marseille nổi tiếng. Với tham vọng sử dụng nguyên liệu Việt Nam sẵn có, ông Bền đã tạo ra sản phẩm xà bông tốt phục vụ nhu cầu của số đông người tiêu dùng bình dân.

Xà bông Savon de Marseille được nhập khẩu với số lượng lớn trong thời kỳ Pháp thuộc.

Được sản xuất bởi một công ty mới có tên Xà bông Việt Nam (Savon Việt Nam), Xà bông Cô Ba mới của ông Bền nức tiếng một thời với chất lượng hảo hạng, giá cả phải chăng, đủ sức cạnh tranh với các hàng nhập khẩu từ Pháp, như hãng Marseille đang thống lĩnh thị trường. Ông Bền có nhiều phương thức kinh doanh và quảng cáo độc đáo gắn liền với lợi ích kinh tế dân tộc. Ông là doanh nhân Việt đầu tiên kêu gọi người Việt Nam dùng hàng nội địa với khẩu hiệu đi vào lòng người “Les gens devraient utiliser du savon de Việt Nam” (Người Việt Nam nên xài xà bông Việt).

Tên gọi của công ty và hình ảnh in trên sản phẩm xà bông của ông toát lên lòng yêu nước nồng nàn và sự tự hào dân tộc. Có nhiều câu chuyện xung quanh thương hiệu xà bông này. Có người cho rằng cô Ba chính là vợ của ông Trương Văn Bền. Một giả thuyết khác giải thích hình cô Ba được in trên xà bông là con gái của một người đàn ông Trà Vinh. Cha nàng bị chính quyền thuộc địa xử án tử hình vào năm 1893 vì tội giết người, sau khi một tên luật sư Pháp có hành vi xâm phạm tình dục vợ ông.

Việc quảng cáo đánh vào lòng tự tôn dân tộc của ông Bền mang lại hiệu quả vượt bật, đưa thương hiệu Xà bông Việt Nam phủ sóng khắp các chợ miền Nam.

Xà bông cô Ba cũng được xuất khẩu sang thị trường Lào, Campuchia, Hồng Kông, đảo New Caledonia ở Thái Bình Dương và một số nước Châu Phi. Trong những năm 1940, ông Bền được mệnh danh là doanh nhân sản xuất dầu và xà bông thành đạt nhất Đông Dương.

Xà bông Cô Ba nổi tiếng.

Cũng như các doanh nhân giàu có cùng thời, Trương Văn Bền đã có nhiều đóng góp nhân ái cho xã hội. Đầu năm 1920, ông đứng ra chi trả phí cho hãng thầu Brossard et Mopin để trùng tu Cầu Ba Cẳng đã sụp đổ 2 năm trước.

Cùng với gia đình “Tổng Đốc” Đỗ Hữu Phương, ông Bền thường hào phóng quyên góp cho quỹ duy trì và sửa chữa Hội quán Nghĩa Nhuận, một trong những ngôi chùa đẹp nhất của người Minh Hương ở Chợ Lớn, nay là 27 Phan Văn Khỏe.

Ảnh Trương Văn Bền trong những năm cuối của cuộc đời.

Sau năm 1948, Trương Văn Bền sống tại Paris, để lại gia tài cho những đứa con trai của ông tiếp quản. Ông qua đời năm 1956, hưởng thọ 73 tuổi.

Các nhà máy mà ông đặt nền móng từ bước đầu tiên tiếp tục phát triển thịnh vượng đến những năm 1950 và 1960, vốn đầu tư lên đến 90 triệu đô vào năm 1971, và sản xuất 4.000 tấn xà bông giặt và 1.800 tấn xà bông thơm hàng năm.

Ngày nay, xà bông Cô Ba vẫn được sản xuất và phân phối bởi Công ty Cổ phần Liên doanh Phương Đông (ORDESCO), tại nhà máy Xà Bông Việt Nam cũ ở 40 Kim Biên, Chợ Lớn. Ngoài các siêu thị lớn bày bán mặt hàng này thì cửa hàng Ngọc Loan ở 36 Kim Biên chuyên bán sỉ với giá 40.000 VNĐ 01 lô 10 cục xà bông. Nếu chịu tìm kiếm, người tiêu dùng vẫn có thể mua lẻ một cục với giá 4.000 đồng. Xà bông Cô Ba là món quà lưu niệm vừa đầy ý nghĩa lại vừa túi tiền cho du khách ghé thăm Chợ Lớn.

Công trình xây dựng lại cầu Pont des Trois Arches (Cầu Ba Vòm) vào năm 1920 do Trương Văn Bền tài trợ.

Cánh cửa giả, một trong những tác phẩm nghệ thuật tinh xảo ở Hội trường Nghĩa Nhuận, được Trương Văn Bền tài trợ.

Tim Doling là tác giả của cuốn sách The Railways and Tramways of Viet Nam (White Lotus Press, 2012) và các sách hướng dẫn lịch sử Exploring Huế (Nhà Xuất Bản Thế Giới, Hà Nội, 2018), Exploring Saigon-Chợ (Nhà Xuất Bản Thế Giới, Hà Nội, 2019) và Exploring Quảng Nam (Nhà Xuất Bản Thế Giới, Hà Nội, 2020). Để biết thêm thông tin về lịch sử Sài Gòn, hãy truy cập trang web của Tim, www.historicvietnam.com.

Bài viết liên quan

in Di Sản

Chuyện về Marie đệ nhất, tên gian hùng trở thành 'quốc vương' Tây Nguyên

Lịch sử thế giới ghi nhận không ít câu chuyện về những đức vua Tây Âu với vương triều ngắn ngủi ở Đông Á. Ta có thể kể đến James Brooke, quốc vương (rajah) da trắng đầu tiên của Ấn Độ — người đã ...

in Di Sản

Câu chuyện lịch sử đằng sau 'Nhà Thờ Hồng' của Tân Định

Ở Sài Gòn, có lẽ ai cũng đã từng nghe danh Nhà thờ Tân Định với màu hồng vô cùng đặc trưng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng đằng sau vẻ ngoài ấn tượng, công trình là còn là một trong những thánh đường Công...

in Di Sản

Cầu Long Biên: Từ biểu tượng sức mạnh đế quốc đến chứng nhân lịch sử thủ đô

Trải qua vòng đời hơn trăm năm, không ít dấu tích của thời gian đã phủ đầy cầu Long Biên. Nhưng chiếc cầu sắt qua sông Hồng vẫn giữ một vị trí quan trọng trong kho tàng di sản Hà Nội. Hãy cùng Ti...

in Di Sản

Giai thoại về Quách Đàm, 'ông tổ' của vùng đất Chợ Lớn — Phần 1

Đường Hải Thượng Lãn Ông (trước đây là đại lộ Gaudot) ở trung tâm Chợ Lớn là nơi vẫn bảo tồn được vẻ cổ kính của nhiều cửa hiệu cũ từ thời thuộc địa. Trong số đó, đặc biệt nhất có lẽ phải là tòa nhà s...

in Di Sản

Giai thoại về Quách Đàm, 'ông tổ' của vùng đất Chợ Lớn — Phần 2

Những năm 1920, vị thương gia Quách Đàm đã nắm trong tay quyền sở hữu chợ Bình Tây cũ và phần lớn khu vực xung quanh. Từ đó, ông đề xuất với chính quyền thuộc địa phá bỏ những tòa nhà hiện c...

in Di Sản

Hồ Con Rùa, minh chứng sống động của lịch sử đa tầng Sài Gòn

Khu vực Công trường Quốc tế-Hồ Con Rùa đã trải qua nhiều thay đổi về thiết kế và công năng xuyên suốt dòng lịch sử của vùng đất Sài Gòn. Từ một cổng thành của công trình phòng thủ quân sự thời Ng...