“Than ôi cái giống ma quỷ, tuy từ xưa không phải cái nạn đáng lo cho người thiên hạ, nhưng kẻ thất phu đa dục thì thường khi mắc phải.”
“Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lên núi Vọng Phu kia nữa.” (Trích 'Truyện Người Con Gái Nam Xương')
Khó mà quên được loạt câu văn giàu nhịp điệu như thể là thơ mà Vũ Nương đã nói với Trương Sinh vì ai cũng ít nhất một lần thử học thuộc câu văn trên để chuẩn bị cho kỳ thi tốt nghiệp cấp 2. Phải có tình cảm mãnh liệt hay ức chế dồn nén thế nào để có thể tuôn ra được những hình ảnh ẩn dụ nối tiếp nhau, chạy thẳng vào lòng người đọc như một đoàn tàu lau về phía trước.
Tự xưa, nếu Tứ Thư, Ngũ Kinh là khuôn vàng thước ngọc để trui rèn kỷ cương và phẩm giá, thì những câu chuyện dân gian phủ màu thần bí lại giáo dục về nhân quả và lối sống con người. Truyền Kỳ Mạn Lục — 傳奇漫錄, tức “Ghi chép tản mạn những truyện lạ” — chính là một trong số đó.
Truyền kỳ chuyện phiên dịch
Với những đầu sách trung đại Việt Nam, tôi thường chú ý đến vị dịch giả hơn là tác giả, bởi việc dịch văn bản Hán-Nôm sang tiếng Việt hiện đại là hành trình không phải dịch giả nào cũng dám khởi hành. Truyền Kỳ Mạn Lục được Nguyễn Dữ chép lại vào thế kỷ 16 bằng chữ Hán rồi được dịch ra chữ Nôm, tức gần một thế kỷ trước khi Từ điển Việt - Bồ - La ra đời. Nhưng mãi đến 1943, tác phẩm này mới được chuyển ngữ sang chữ Quốc ngữ nhờ vào tài trí của dịch giả Trúc Khê.
Trúc Khê tên thật là Ngô Văn Triện, là một nhà báo, dịch giả, nhà văn và nhà cách mạng hoạt động chủ yếu ở Hà Nội. Ông được biết đến qua những truyện ký danh nhân Việt Nam, các biên khảo về lễ tục và lịch sử dân tộc. Các tác phẩm dịch thuật nổi tiếng của ông gồm: Binh Pháp Tôn Tử, Bao Công Kỳ Án, Tang Thương Ngẫu Lục, v.v. Và thật tiếc khi cái tên của ông lại không được nhắc nhiều ở Việt Nam như các tác phẩm ông đã dịch.
Quay trở lại với tác giả, Truyền Kỳ Mạn Lục là tác phẩm duy nhất của danh sĩ Nguyễn Dữ (hay Nguyễn Dư). Tác phẩm chép lại 20 truyện ly kỳ trong dân gian từ tỉnh Nghệ An ra Bắc, xảy ra từ thời Lý đến Lê Sơ tức ngót nghét 500 năm. Thân thế của Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác vẫn hãy còn là vấn đề cần bàn luận vì có bản chép là Nguyễn Dữ, bản khác là Nguyễn Dư.
Dù vậy, dân gian lưu truyền ông là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm, sống vào giai đoạn tồn tại cả triều Lê Trung Hưng và nhà Mạc. Trong thời kỳ loạn lạc, nhiễu nhương, ông chủ trương ẩn cư vào núi rừng. Không thể phủ nhận rằng 20 câu chuyện trong Truyền Kỳ Mạn Lục đã tồn tại trong các giai thoại dân gian trước đó. Nhưng chính tác giả là người đã khéo léo cài cắm những tích truyện cổ Trung Hoa, kèm với đó là quan điểm chính trị và nhân sinh quan của bản thân để làm nên một ngôi sao sáng trên bầu trời văn chương Việt.
Drama không chỉ ở cõi trần thế
Đọc 20 câu truyện TKML, lắm lúc tôi thầm thốt lên “Cái quỷ gì vậy?!” Thực vậy, thế giới trong TKML thật mà ngỡ là hư, khó mà biết đâu là âm là dương, thiên đàng địa ngục chỉ cách nhau một dấu chấm câu. Dẫu vậy, thật không khó để nhận ra bài học xuyên suốt tác phẩm là “thiện giả thiện báo, ác giả ác báo,” và càng thú vị hơn khi đọc những lời bình khuyết danh ở cuối mỗi truyện.
Dân gian Việt luôn có những cách rất sáng tạo để triệt cái ác tận gốc. Nói cách khác, người ác sẽ bị trừng phạt không phải trên thân xác, mà phải huỷ diệt cả linh hồn. Cái chết trong TKML chỉ nhẹ bằng một câu văn, linh hồn kẻ ác sau sẽ bị trừng trị thích đáng. Thế nhưng có phạt thì cũng có thưởng; truyện 'Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào' là truyện duy nhất lấy việc trọng thưởng người hiền làm chủ đề.
Sinh vào thời nhiều biến động, niềm tin của tác giả vào triều đình lẫn kẻ sĩ bị lung lay đến gốc rễ; và người dân đương thời cũng có chung nỗi niềm. Những vị thánh thần như Long Thần, Thuỷ Thần đều trở thành kẻ ác trong TKML. Các vị không chỉ lừa dân chúng lấy của cúng bái, mà còn chiếm nơi thờ tự các vị Thổ Thần hay Thành Hoàng để có thêm của cải. Lúc đó, các vị thần bị hại phải tìm đến người trần để đâm đơn kiện lên trời. Tinh thần “không tin được ai” này cũng có thể xem là một mắc xích trong chuỗi DNA của TKML.
Nhưng lớp nhân vật được khắc hoạ nhiều nhất trong TKML chính là người phụ nữ. Họ cũng có thể là người, là ma, là hoa, là tiên. Người phải chịu tủi nhục lẫn người được thăng hoa; người chung thuỷ sắc son lẫn “tiểu tam,” “trà xanh” không biết liêm sỉ; người chết trở thành quỷ ma bị yểm bùa cho tiêu biến, người gieo mình xuống sông thì trở thành ngọc nữ trong Thuỷ cung. Tỉ như 'Chuyện Người con gái Nam Xương' — ai đọc cũng phải “đến lạy” cái máu ghen và sự gia trưởng của Trương Sinh. Vì hắn mà học sinh bao thế hệ đã phải học thuộc lời oán của Vũ Nương!
Ấy mà với tôi, truyện ấn tượng hơn cả chính là 'Truyện Kỳ ngộ ở trại Tây,' vì câu chuyện kể về một “gia đình hai con vợ, chồng hạnh phúc” từ trong buồng lẫn ngoài hiên. Một chàng thư sinh và hai nàng “việc xuân chưa trải, nhuỵ thắm còn phong” cùng hưởng lạc thú, rồi tục ngâm cho nhau nghe những vần thơ dâm dấp, rồi một nàng ghen chỉ vì chàng lỡ khen nàng kia, rồi lại làm hoà, rồi chia phôi, rồi tới đoạn “twist” có-trời-mới-đoán-được ở cuối truyện. Ai mà ngờ một ấn phẩm từ trăm năm trước cũng có thể loại nội dung xấu hổ mà tôi vẫn hay thấy trên “chú chim xanh” ngày nay.
Lời kết
Qua Truyền Kỳ Mạn Lục, có thể thấy rõ quan niệm của người Việt rằng người chết cũng sống như người sống. Người dưới âm trên thiên cũng đều có những tham dục, thói hư tật xấu, tính khí khó đoán làm khổ cõi trần, nhưng rồi chuyện cũng đâu vào đó nhớ vào tài lực của người trần mắt thịt. Ấy là “có trời mà cũng có ta,” 20 câu truyện như truyền thêm niềm tin vào chính mình nơi nhân dân đang phải chịu quá nhiều lầm than của thời đại. Song, đây cũng là tác phẩm hiếm hoi soi vào chốn buồng the của nhân gian khiến độc giả hiện đại không khỏi ngạc nhiên trước sức “chịu chơi” của ông bà ta.