“Ta nhân lúc giải phiền muộn xin mệnh xa giá đi bắn chim, nếu hợp hoàn cảnh thì cho, không hợp thì không, không nói nhiều lời. Mỗi khi thường răn về số lần, mẹ nghiêm và từ như thế.”
Việc dưỡng dục con cái thời nào cũng là một chủ đề đau đầu, bởi đó là yếu tố tiên quyết cho sự phát triển của những thế hệ đi sau. Ở Việt Nam, khó có ai vượt qua được Hoàng Thái hậu Từ Dụ về cung cách giáo huấn. Đó cũng là lý do bệnh viện phụ sản nổi tiếng nhất Sài Gòn, bệnh viện Từ Dũ, được đặt theo tên của bà.
Chỗ dựa cho bậc đế vương
Những lời răn dạy con cháu của bà đã được đích thân vua Tự Đức ghi chép lại, tập hợp thành sách có nhan đề Từ Huấn Lục (chép những lời giáo huấn của Đức Từ). Thông qua tác phẩm này, hậu thế không chỉ hiểu thêm về những giá trị sống của vương triều Nguyễn, mà còn hiểu hơn cách hoàng gia nhìn nhận Nho giáo.
Vua Tự Đức được biết đến là một vị hoàng đế có đức tính khiêm nhường và dũng cảm thừa nhận những thiếu sót bản thân. Đó cũng là lý do ông đặt cho lăng của mình cái tên Khiêm Lăng, cũng là quần thể lăng mộ lớn nhất thời Nguyễn. Trong khu lăng mộ của ông, còn có lăng của người mẹ đáng kính là bà Từ Dụ.
Là vị hoàng đế thứ tư của triều Nguyễn, Tự Đức trị vì trong một giai đoạn đầy biến động của đất nước; kể đến như biến loạn trong nội bộ gia đình khiến ông mang tiếng là người giết anh. Liên quan đến vận mệnh đất nước, ông đã rơi vào thế phải nhượng bộ trước người Pháp, gây nên nhiều bất bình trong lòng dân chúng. Là một người đa cảm, những biến cố này khiến vị hoàng đế phải tìm chỗ dựa tinh thần nơi người thân, bà Từ Dụ. Vì thế, cũng là lẽ dĩ nhiên khi ông dành thời gian ghi chép lại những lời răn của mẫu hậu.


Vua Tự Đức (trái) và Hoàng thái hậu Từ Dụ (phải).
Dù không trực tiếp can dự vào triều chính, bà luôn tự nhận thấy mình có phần trách nhiệm trước tình hình đất nước. Xuất thân từ một gia đình gia giáo tại Gò Công, từ nhỏ bà đã am tường kinh sử, hiểu biết lễ nghi. Tiếng thơm của bà lan đến Thuận Thiên Cao Hoàng Hậu, vợ vua Gia Long. Và từ đó (năm 1858), bậc mẫu nghi đã luôn phải cáng đáng chuyện chính sự cũng như hậu cung.
Một thoáng cung đình qua 225 lời răn dạy
“Vạn vật đều nhờ cái khí trời đất để phát triển, thật dễ tốt tươi. Dù cho con người hết sức tưới thì vạn chẳng được một.” Tư tưởng sống thuận theo chữ thời này có thể nói là tinh thần xuyên suốt 225 lời răn dạy của bà được vua Tự Đức ghi lại.
Theo ghi chép của vua Tự Đức, hoàng thái hậu mỗi sáng sớm đều chu đáo răn dạy ông một lời, nhưng không sao thuật lại hết. Chỉ những chuyện truyền hỏi riêng trong cung mà người ngoài không được nghe được kể khái quát. Mục đích là chuẩn bị cho về sau “soạn sử lấy làm gốc cho tiện.” So sánh với Đại Nam thực lục, nhóm nghiên cứu nhận thấy những chuyện không được ghi lại chủ yếu rơi vào việc phê phán quan lại tham nhũng.
Điểm qua bốn tập ghi chép làm nên Từ Huấn Lục, chúng ta dễ nhận ra những chủ đề bà hay bàn luận cùng nhà vua:
- Thể hiện tình yêu với nhân dân, cầu cho mưa thuận gió hoà dân chúng ấm no,
- Đề cao lối sống tiết kiệm và phê phán những hoàng thân, công chúa chỉ biết hưởng lộc,
- Phê phán quan lại tham nhũng và những người họ ngoại của hoàng gia ỷ thế làm càn,
- Rút ra những bài học từ những tích truyện xưa từ sử Trung Hoa, lên án những hủ tục và chủ trương cấm thuốc phiện.
Bà không phải lúc nào cũng là người chủ động răn dạy hoàng đế. Có những đoạn được mở đầu bằng “Ta tâu,” “Lại tâu rằng,” nhưng những cụm từ như “Lại kính vâng lời dạy rằng,” “Mẹ ta dạy,” “Lại nghe lúc Thánh mẫu…,” lại phổ biến hơn xuyên suốt tác phẩm. Những lúc vua bẩm tâu về tình hình sức khoẻ của bà, bà thường hay xem nhẹ bệnh tình mà quay sang lo cho dân chúng. Tính cách này cũng xuất phát từ lối sống tiết kiệm, vị tha từ nhỏ của bà. Dường như chỉ có “quốc thái dân an” mới có thể chữa bà khỏi những căn bệnh.


Toàn bộ văn bản Hán Nôm của bốn cuốn ghi chép làm nên Từ Huấn Lục đều được đưa vào sách.
Do triều Nguyễn có luật không cho người ngoài dòng tộc lên nắm quyền, những dòng họ bên ngoại của hoàng gia luôn là vấn đề nhức nhối chốn hậu cung. Ở mỗi lần phê phán một vị hoàng thân hay vị quan họ ngoại, vua Tự Đức luôn bẩm tâu rõ tình hình, công trạng cũng như tội lỗi. Những lúc này, vị Thánh mẫu hiền từ đã khoác lên mình một bức màn nghiêm minh. Thế nhưng, thay vì khép tội, bà chỉ thường chốt hạ bằng một câu hỏi tu từ, hoặc chí ít là vua Tự Đức đã chép lại như thế.
Tình cảm nhất phải kể đến những đoạn hai mẹ con tâm tình, điểm qua những tích truyện cổ trong sử Trung Hoa, nhất là Tam Quốc Chí. Bà thường nhớ lại những giai thoại xưa, thi thoảng liên hệ đến những quyết định của ba đời vua Nguyễn trước đó. Từ đó, bà đưa ra những nhận định liệu những giá trị sống lúc xưa có còn hợp với thời cuộc lúc bấy giờ, đôi khi còn cảm thương cho cố nhân mà mất ngủ. Những lời dạy ấy cũng đã phần nào phản ánh quan điểm của bà và vua Tự Đức về Nho giáo, vốn được triều đình nhà Nguyễn tôn vinh qua mọi đời vua.
Lời kết
Từ Huấn Lục là một tư liệu quý cho việc nghiên cứu về văn hoá và giáo huấn trong cung đình triều Nguyễn. Qua tác phẩm, người đọc không chỉ thấm thía tình mẫu tử giữa bậc mẫu nghi và đế vương, mà còn hiểu hơn về thái độ và tâm tư của triều đình Nguyễn trong thời “tiến thoái lưỡng nan.” Với văn phong gần gũi nhưng đỗi nghiêm trang được dịch từ Hán Nôm, chắc chắn mỗi độc giả đều sẽ tìm thấy điều mình quan tâm trong tác phẩm này.