Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Trích or Triết » Đi tìm tia sáng trong tăm tối thời cuộc qua ngòi bút Nguyên Hồng

Mang biệt danh “nhà văn của những người cùng khổ,” Nguyên Hồng dường như bị ám ảnh với những mảnh đời ở đáy xã hội, khi mà các nhân vật của ông nếu không là phụ nữ bị chồng bỏ, bố mẹ ruồng rẫy thì cũng là những đứa bé bị bỏ rơi, nai lưng mưu sinh ở độ tuổi vẫn còn hôi sữa. Dẫu vậy, ông không mượn những thứ bất hạnh, khổ đau để kể lể, lấy lòng thương hại của người đọc. Ông đưa độc giả cùng nhân vật của mình đi xuống đáy để họ nhìn thấy con đường duy nhất chính là đường lên.

Chân dung Nguyên Hồng thời trẻ. Nguồn ảnh: NXB Văn Học.

Ở tuổi 19, Nguyên Hồng khiến giới văn chương ngỡ ngàng với tác phẩm đầu tay: Bỉ vỏ. Hơn 80 năm sau kể từ ngày đầu tiên phát hành, độc giả vẫn không ngừng tự hỏi ông đã phải trải qua những gì để sáng tác được ra nhân vật như Tám Bính — người đàn bà có cuộc đời tăm tối, khốn khổ không lối thoát đến như vậy?

Nguyên Hồng, nhà văn rứt thịt mình ra để viết

Nguyên Hồng ra đời vào năm 1918, đúng lúc Chiến tranh thế giới thứ Nhất vừa kết thúc. Nhiều người mô tả xã hội khi ấy chả khác gì một “phế tích tan hoang.” Nguyên Hồng lớn lên giữa bối cảnh bần cùng ấy: nhà ông nghèo, túng thiếu đủ thứ, và thứ ông thiếu nhất là tình thương. Ông biết mình là kết quả của một cuộc hôn nhân gượng gạo ngay từ khi lên bảy: “Thầy mẹ tôi lấy nhau không phải vì yêu thương nhau.”

Miền Bắc Việt Nam những năm 1930. Ảnh: Charles Peyrin.

Muốn có tiền đi học, ông sớm dấn thân vào con đường mưu sinh. Ông chung đụng với đủ mọi hạng trẻ hư hỏng ở các khu chợ, bến tàu hay ô tô, hay chốn vườn hoa nghiện ngập. Ông lén dạy học tư cho đàn con em của những người phu phen thuyền chợ. Quanh quẩn trong cái xóm nghèo đói, sống một đời cơ cực, tiếp xúc với hàng trăm mảnh đời ngang trái đã ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới quan và tâm hồn của chàng trai trẻ khi ấy.

Chính từ những trải nghiệm đó, ông không chọn cách né tránh hay khinh miệt bóng tối, mà lặng lẽ quan sát, cảm thông và viết. Không giống như câu tục ngữ ta vẫn thường nghe — “gần mực thì đen, gần đèn thì rạng” — Nguyên Hồng chọn ngòi bút như một cách để thắp sáng lên chính cuộc đời tăm tối của mình, và cả những kiếp người mà ông từng chứng kiến.

Sông Cấm Hải Phòng gần xóm trọ của Nguyên Hồng. Nguồn ảnh: Trang Facebook Hải Phòng Xưa.

Một thời đại lịch sử đầy nhiêu khê tạo nên những mảnh đời bên rìa vực thẳm

Nguyên Hồng ở đâu thì chất liệu văn chương của ông ở đó. Cuộc đời lang bạt khiến ông phải chứng kiến cái cảnh con người bị cưỡng đoạt, bị sa đọa trong xã hội đồng tiền mà không có cách nào để thoát ra.

Mỗi một tác phẩm của Nguyên Hồng giống như một tấm gương phản chiếu bối cảnh lịch sử chiến tranh lúc bấy giờ. Trong Bỉ vỏ (1938) hay Những ngày thơ ấu (1940), ta nhìn thấy một xã hội phong kiến suy tàn, hủ lậu do bọn cai trị Pháp cầm đầu.

Nông dân bị bóc lột tài nguyên, áp đặt sưu cao thuế nặng, lâm vào cảnh mất đất, đói nghèo. Công nhân ở các bến cảng, nhà máy làm việc cực nhọc với đồng lương không đủ sống.

Phụ nữ thời Pháp cai trị giai đoạn 1930–1940. Nguồn ảnh: tài khoản Flickr @manhhai.

Bên cạnh đó, thể chế phong kiến hủ lậu, “trọng nam khinh nữ” đẩy phụ nữ yếu thế vào cảnh túng quẫn: bị xem như món hàng phải bán thân để nuôi con, hoặc vì cái nghèo mà phải xin đi làm ô sin, lao công rồi rơi vào con đường làm gái mại dâm, gái giang hồ, v.v.

Đến giai đoạn kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ trong Giọt máu (1956) hay Sóng gầm (1961), ta thấy bom đạn, mất mát và cái đói như một bóng đen bao trùm lên cả miền Bắc.

Hàng triệu người mất nhà cửa, hàng triệu trẻ em mồ côi — đứa ăn xin, đứa bị bóc lột, đứa thì gia nhập vào băng đảng đường phố. Không được học hành, sống trong hoàn cảnh thiếu thốn tình thương và vật chất nên có lẽ những đứa trẻ ấy sau này đã trở thành những “anh chị” Năm Sài Gòn, Ba Bay.

Chuỗi domino của đói nghèo, bất công làm con người biến chất như thế nào?

Nếu Nam Cao được biết đến như một cây bút sắc sảo, am hiểu phong tục làng xã và những bi kịch nội tâm của người nông dân, thì Nguyên Hồng lại chọn một hành trình riêng: đi sâu vào thế giới của những phận người còn khốn khổ hơn thế — những kẻ sống bên lề xã hội. Họ là tâm điểm trong cả sự nghiệp văn chương của ông, từ cuốn tiểu thuyết đầu tay Bỉ vỏ (1938) đến bộ sử thi Cửa biển (1961–1976) đồ sộ được viết suốt cuối đời.

Trong suốt cuộc đời cầm bút, Nguyên Hồng đã vắt kiệt mình để sống trọn với những khổ đau của nhân vật. Ông từng bộc bạch trong cuốn nhật ký của mình rằng: “Khổ vì viết quá! Sáng tác! Thật là rứt thịt mình ra. Tôi phải nhìn sâu vào mình hơn nữa, nhìn vào tận cùng thẳm con người mình nữa, với từng lành giận, từng tiếp xúc. Nhất là phải giữ cho tấm lòng trọn vẹn, gần gũi với với những đau khổ của chung quanh.”

Người ăn xin Hải Phòng. Nguồn ảnh: Kênh14.vn.

Và quả thực, thế giới nhân vật của ông toàn là những phu bốc vác, cu li, trẻ lang thang, gái giang hồ, đám buôn thúng bán mẹt, những người sống bên rìa đô thị; cuộc sống của họ tăm tối, bế tắc do bị xô đẩy vào những ngã rẽ nghiệt ngã nhất của đời sống.

Nhân vật có số phận gây ám ảnh cho tôi nhất là Tám Bính (Bỉ vỏ). Bính là người phụ nữ thôn quê sống trong xóm trọ nghèo, khao khát một tình yêu giản dị với một mái ấm thiện lương. Thế nhưng chính cái mong ước đấy khiến cô bị lừa, bị cha mẹ ruồng rẫy vì chưa chồng đã chửa. Từ đây, Bính trượt dài vào kiếp gái giang hồ, ăn trộm, cướp giật, tù tội.

Rồi đến Cửa Biển, một nhân vật khác khiến ông phải bật khóc khi viết: Gái Đen, một nữ phu bến tàu ở Hải Phòng. Dù xuất thân từ gia đình có truyền thống yêu nước, nhân cách đức hạnh, cô lại lỡ lấy phải kẻ phản bội cách mạng. Lúc phát hiện ra thì đã bụng mang dạ chửa, rồi vì đau khổ tột cùng, cô qua đời sau khi mang thai. Khi viết đến chỗ Gái Đen chết, ông đã buông bút xuống mà oà lên nức nở với con rằng: “Con ơi! Gái Đen chết rồi, con ạ!”

Những tia sáng xuyên qua bóng tối của thời đại

Nguyên Hồng không đẩy nhân vật của mình vào một tấn bi kịch để rồi gượng ép họ phải tìm ra hy vọng, phải vươn lên như những câu chuyện truyền cảm hứng. Ông không mượn những “đứa con” của mình để giáo lý người đọc.

Con người dù đã bị tha hoá, vật hoá đến cùng độ thì họ vẫn có sự nhân hoá, tức là bản tính làm người. Mà đã làm người, không ai không mang trong mình một khao khát. Tôi không rõ chính xác điều gì khiến Nguyên Hồng viết trong cuốn nhật ký của mình rằng: “Tôi bâng khuâng và ghê sợ cái kỳ diệu của tinh thần. Tinh thần con người.” Nhưng tôi biết kể từ giờ phút ấy, Nguyên Hồng đã nhìn ra một thứ không bao giờ bị tước đoạt dẫu cho hoàn cảnh có ngặt nghèo thế nào: lẽ sống.

Bìa Những ngày thơ ấu.

Lẽ sống của Tám Bính chưa bao giờ là làm giàu để mà phải sa ngã đi làm bỉ vỏ. Bính chỉ mong ngày nào đó gặp được đứa con mình từng bỏ lại, sống trong một mái ấm “làm đủ ăn đủ mặc thôi, nhưng được cái thẳng lưng mà sống.” Trong suốt những đêm dằng dứ giữa việc trộm cắp hay sống thiện lương, cái khao khát tình mẫu tử của Bính luôn là điểm neo để cô bước tiếp.

Với Hồng, cậu có một tuổi thơ bất hạnh nhưng lại luôn dũng cảm chiến đấu với nỗi sợ bị bỏ rơi. Trong hằng hà sa số những lúc tủi nhục, chỉ một khoảnh khắc ôm mẹ trong vòng tay và cảm nhận hơi ấm “thơm tho lạ thường” đã đủ cho Hồng sức mạnh để vượt qua bóng tối tuổi thơ.

Còn với nhân vật Gái Đen, Nguyên Hồng dường như mượn nhân vật này để đối thoại với quan điểm của Nam Cao: “Một người đau chân có lúc nào quên được cái chân đau của mình để nghĩ đến một cái gì khác đâu?” Nguyên Hồng tin rằng kể cả khi con người đang ở trong cái khổ nhất của họ, việc chia sẻ nâng đỡ nhau luôn là thứ được nhiều hơn là mất. Do đó mà cái Gái Đen dù mai ăn gì cũng còn chưa biết, vẫn sẵn sàng chia sẻ miếng cơm của mình cho người khác.

Cuộc sống có những cái hàng ngày rất quỷ, nó lôi cuốn người ta đến lúc ngã sấp mặt xuống lúc nào không hay biết.

Chẳng phải riêng nhân vật của ông bị cái đời sống thành thị làm biến dạng hình hài, chính Nguyên Hồng tự thừa nhận với mình như vậy, rằng có lúc bản thân ông chán ngán, hồ nghi và chỉ muốn bỏ cái nghiệp viết lách.

Dẫu vậy Nguyên Hồng nói không với việc từ bỏ việc viết, dù cái đời sống của ông khốn khổ vô cùng. Giống như các nhân vật của mình, cả ông và họ tuy bị vắt kiệt trong sự lo âu, khắc khoải nhưng đồng thời ở mặt khác, ông cũng sống trong cái sự nương tựa, cưu mang, đùm bọc, và không ngừng chiến đấu cho cái lẽ sống giản dị của riêng mình.

“Tôi sẽ chỉ biết có ánh sáng. Và chính tôi là ánh sáng”

Lời bộc bạch trên của Nguyên Hồng giống như một cái vỗ vai khiến tôi thấy mình như đang được ngồi cạnh trò chuyện cùng ông. Về cách mà chúng ta nên làm thế nào để đối mặt với những ngày tăm tối, cách để thay đổi góc nhìn của bản thân trước nghịch cảnh.

Thông qua các nhân vật của mình, Nguyên Hồng thừa nhận rằng dẫu cho sự đau khổ và cảm giác chuếnh choáng trong một xã hội bất định là điều không thể tránh khỏi, ta vẫn có thể sống một đời ý nghĩa. Hai yếu tố then chốt giúp chúng ta làm được điều đó là: sự chấp nhận và lòng can đảm. Mỗi người phải tự vượt qua nỗi sợ và tiến lên phía trước, ngay cả khi chưa thấy ánh sáng cuối đường hầm. Sự chấp nhận là bước đầu tiên để ta giải thoát mình khỏi vị trí “nạn nhân,” lấy lại quyền làm chủ cho đời mình.

Tám Bính không còn đổ tội cho những kẻ đẩy mình vào kiếp giang hồ, cô chấp nhận rằng mình đã sống một cuộc đời lừa lọc và luôn trăn trở tìm cách để sống lương thiện hơn. Hồng vượt qua nỗi đau bị bỏ rơi không phải bằng cách trách móc ai oán gia đình mình. Thay vào đó, Hồng trân trọng từng khoảnh khắc hiếm hoi được ở bên mẹ.

Cách phản ứng này gợi nhớ tôi đến triết lý của Albert Camus về “sự phi lý hạnh phúc”: con người có thể tìm thấy ý nghĩa và niềm vui ngay cả khi đối diện với một thế giới vô nghĩa và đầy bất công. Thái độ này sẽ giúp ta sống thực với hiện tại và không bị đánh lừa bởi những niềm tin mộng tưởng hay sự tuyệt vọng cực đoan.

Tám Bính trong phiên bản điện ảnh của Bỉ vỏ, phim Người đàn bà ăn cắp. Nguồn ảnh: kienthuc.net.

Nhưng chấp nhận là chưa đủ, ta cần nuôi dưỡng lòng can đảm để sống chủ động với sự phi lý ấy thay vì tìm cách giải thoát cực đoan hoặc buông bỏ bản thân. Nguyên Hồng truyền tải thông điệp này qua nhân vật người mẹ vô danh trong Những ngày thơ ấu.

Hôn nhân của bà là kết quả bài tính giữa hai gia đình mà không có tình yêu. Sau khi chồng chết vì nghiện, bà quyết tâm bỏ đi tha hương cầu thực chứ không chịu cảnh nghèo khó. Người phụ nữ ấy nhanh chóng tái hôn và bị cả xã hội chửi rủa thậm tệ vì dám đi ngược lại phong kiến “thủ tiết thờ chồng.” Dẫu vậy, bà vẫn tần tảo làm lụng nuôi con, không để sự sỉ nhục làm lung lay trách nhiệm, giữ trọn tình mẫu tử.

Nếu đặt câu hỏi “ý nghĩa” của đời bà là gì sau tất cả chuỗi bất hạnh phải trải qua, hẳn ta sẽ cảm thấy bất lực và oan ức. Thế nhưng ý nghĩa vốn không phải là điều có sẵn để khám phá, nó là thứ con người tự tạo nên thông qua lựa chọn và hành động của mình. Vậy nên nếu nói “đời là bề khổ” — thì cách ta gán lên ý nghĩa của việc đấu tranh lại là niềm vui thú trong cái bề khổ đó.

Còn sống là còn đau, và còn đau là còn sống

Lối viết của Nguyên Hồng mang đậm tính suy tư và chất vấn sâu sắc. Cách ông xây dựng chân dung nhân vật bao hàm mọi sắc thái của nỗi đau: xung đột tâm lý giữa thiện và ác, đan xen giữa hy vọng và tuyệt vọng, giữa phẫn uất cuồng nộ và cái bình thản buông bỏ để bước tiếp. Đời sống nội tâm trong thế giới văn chương của ông luôn có cái sự hỗn loạn và đau đớn, nhưng cũng vì thế mà độc giả sau hàng trăm năm vẫn cảm thấy Nguyên Hồng đang cất tiếng thay họ.

Trong một thế giới ngày càng phân cực chia rẽ, việc phải đối mặt với những nỗi đau và khủng hoảng cá nhân là điều không tránh khỏi. Để tìm thấy điểm neo của riêng mình trước nghịch cảnh, việc thay đổi góc nhìn trước vấn đề và can đảm tiến lên dẫu còn nhiều sợ hãi sẽ là bước đầu tiên giúp ta tìm thấy ánh sáng cuối đường hầm. Đó là thông điệp mà Nguyên Hồng đã dành cả đời để gửi gắm qua ngòi bút cùng khổ của mình.

Bài viết liên quan

in Trích or Triết

Khát vọng cách tân trong thơ Trần Dần, ‘kẻ nổi loạn’ của thi đàn Việt

Trong mắt nhiều độc giả Việt, cái tên Trần Dần luôn gắn với tinh thần thử nghiệm và khát vọng cách tân. Thơ ông khác hẳn những tác giả tôi từng học ở trường phổ thông: vừa mới mẻ, vừa tươi lạ, lại man...

in Trích or Triết

Bàn về sự giáo dục phụ nữ trong Nam Phong tạp chí qua ngòi bút Phạm Quỳnh

Đầu thế kỷ 20 ở nước ta, sự du nhập của văn hóa phương Tây cùng với cái nền sẵn có của văn hóa phương Đông đã tạo nên nhiều cuộc tranh luận ở nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Thứ nhất, An Nam là ...

in Di Sản

Bên trong nhà nguyện cổ 160 tuổi tại Sài Gòn

Nằm bên trong Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn là một nhà nguyện cổ trăm năm vẫn còn tồn tại.

in Trích or Triết

Hoàng Việt và bản tình ca dang dở từ hai đầu chiến tuyến

Giữa hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tình yêu của nhạc sĩ Hoàng Việt dành cho vợ ông, bà Ngọc Hạnh, như một giai điệu lặng thầm, len lỏi qua những biên giới vô hình, vượt qua làn sóng radio chập chờn ...

in Trích or Triết

Một thế hệ can đảm trong thế giới khắc nghiệt qua ngòi bút Lan Khai

Ồ, tại sao người ta cứ lẩn thẩn tìm mãi cho đời mình một mục đích? Mục đích của sự sống chẳng phải chính là sống đấy ư? Sống một cách đầy đủ, không bị đè nén, không bị trói buộc, không bị ép uổng dùng...

in Uống

Ngõ Nooks: Không gian hoài niệm cho người trẻ Hà thành tại Căng Tin 109

Ở Hà Nội, thị trường cafe theo phong cách hoài cổ đang có xu hướng bão hòa.