Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Trích or Triết » Từ chiến tranh và đổ vỡ, Du Tử Lê tìm thấy giọng thơ cho nỗi cô đơn thời đại

“khi chúng ta làm người
cửa thiên đường đã đóng
đời sống sẽ còn gì
lúc cuộc tình cũng lụn”

Du Tử Lê viết những dòng thơ của ‘Dốc đá’ vào năm 1966, khi mới 24 tuổi. Đó đã có thể là những năm tháng đẹp nhất trong đời một người, với tất cả nhiệt huyết, hứng khởi, và tình yêu. Nhưng ở tuổi 24, ông viết nên những câu thơ nặng trĩu suy tư về thân phận và cuộc đời, làm cho người đọc nhiều thế hệ rung động và xao xuyến.

Nỗi suy tư ấy được gieo giữa một thực tại ngả nghiêng của quê hương, cộng hưởng với những giày vò của tình yêu thuở xuân thời. Dù các tác phẩm ra đời cách đây hơn 50 năm, nhưng những suy tưởng của ông đã vượt qua rào cản về không gian và thời gian, khiến cho người đọc hiện đại, nhất là người trẻ, có thể tìm thấy sự đồng điệu lớn lao, phần nào cảm thấy được lắng nghe và an ủi.

Chân dung Du Tử Lê. Nguồn ảnh: quenoi.com.

Du Tử Lê, một đời khám phá chữ nghĩa

Du Tử Lê tên thật là Lê Cự Phách. Ông sinh năm 1942 tại Hà Nam, sau đó cùng gia đình vào Nam sinh sống từ năm 1954. Ông có thời gian theo học tại Đại học Văn khoa Sài Gòn — nay là Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn TP. HCM, sau đó làm phóng viên chiến trường.

Từ trước 1975, thơ ông đã được phổ biến rộng rãi và gây nên những tiếng vang lớn, vì sự sáng tạo trong thơ ca, tính giàu nhạc điệu và cảm xúc của ngôn từ, cũng như sự chân thành và lay động mà thơ ông mang đến cho độc giả đương đại. Ông được sánh ngang với những cây bút tên tuổi cùng thời của miền Nam, như Nguyên Sa, Bùi Giáng hay Thanh Tâm Tuyền. Nhiều bài thơ của ông đã được các nhạc sĩ phổ nhạc, trở thành những ca khúc nổi tiếng.

Ca khúc 'Trên ngọn tình sầu' được phổ nhạc từ thơ Du Tử Lê. Nguồn ảnh: Báo Thanh Niên.

Trong một cuộc phỏng vấn, Du Tử Lê nói rằng, tuổi thơ ông đã mang nhiều bất hạnh. Ông sinh ra với một bàn tay sáu ngón, mang trong mình những sự tự ti nhất định và dần trở nên nhút nhát, cô độc. Vì thế, ông đã tìm đến thơ văn như một nguồn cảm hứng, một nơi chốn để xoa dịu nỗi lòng và gửi gắm tâm tư vào đấy.

Các tác phẩm của ông chạm đến nhiều chủ đề, nhưng nổi bật nhất có thể kể đến là thân phận và tình yêu con người, đặc biệt là trước những trái ngang của cuộc đời và thế sự, khiến nhịp sống bình thường trở nên đứt đoạn, những ước mơ vụn vỡ, và sự mông lung về tương lai trong tâm tưởng cộng đồng.

“Tôi thanh niên lớn lên cùng chiến tranh”

Thập niên 1960-1970, cuộc chiến ở Việt Nam bước vào giai đoạn ác liệt nhất. Ở miền Nam, trong giai đoạn đầu của cuộc chiến, bom đạn chỉ diễn ra ở những khu vực nông thôn, ngoại thành. Về sau, hơi thở chiến tranh có thể dần được cảm nhận rõ ràng trong các thành phố lớn, đặc biệt là Sài Gòn, tạo ra không khí lo âu trong công chúng.

Giới trẻ miền Nam, những người vốn đầy nhiệt huyết và niềm tin, nay bị ném vào một hoàn cảnh đầy trớ trêu. Nhiều người trong số họ bị bắt quân dịch, hy sinh trên chiến trường hoặc trở về với thương tật vĩnh viễn. Số còn lại tiếp tục làm việc và sinh sống, nhưng mang nặng nỗi lòng về hiện tình đất nước, về sự bất định của tương lai, và về một xã hội xói mòn, rời rã.

Đống đổ nát sau một trận giao tranh ở Sài Gòn, 5/2/1968. Ở phía xa là chùa Ấn Quang. Nguồn ảnh: trang Flickr TommyJapan1.

Du Tử Lê bước vào giai đoạn sáng tác thăng hoa khi ông ở ngưỡng tuổi 20-30, lúc chiến tranh đang đi vào những tháng ngày gay go nhất. Sống trong một cộng đồng nhiều chia rẽ và giằng xé, đặc biệt là khi đảm nhận vai trò của một phóng viên chiến trường, và đối diện với sinh tử cùng những khía cạnh tàn bạo của cuộc chiến, chắc hẳn ông cũng có cùng tâm tư với giới trẻ miền Nam đồng trang lứa đương thời: những phận người bất an và tuyệt vọng về tương lai bấp bênh của chính mình và của quê hương, bất lực trước cảnh tình trái ngang của cuộc chiến.

Chiến tranh hiện lên tinh tế nhưng cũng đầy trần trụi

Nhiều bài thơ của Du Tử Lê phảng phất bóng dáng của chiến tranh. Dường như những cuộc đánh nhau luôn xuất hiện đâu đó, một cách rõ ràng hoặc ẩn nấp, trong các hình ảnh thơ hay những nét hồi tưởng của nhân vật.

Đọc những dòng trong bài 'Ý nghĩ khi rời Thông Tây Hội,' người ta có thể thấy chiến tranh hiện ra dần dần, như một tiền đề để Du Tử Lê bộc lộ những lời thở than.

nỗi kinh hoàng khựng điếng nào hỡi em
đã giục nàng rảo chân bỏ về với mẹ
những giờ giấc giới định
đã rút ngắn đời ta
trên mặt phẳng đổ nghiêng tím bầm tuyệt vọng
bây giờ thời gian
như một đoạn xích
dẫn độ ta về cùng tử thần đối mặt
bởi thế nên mỗi khi anh chợt bừng mắt dậy
không thấy được gì hơn
ngoài chiếc bóng mình ngã trên một nền đất ẩm
giữa tiếng đạn bom rơi
những cảnh đời phụt tắt

Chiến tranh làm gián đoạn những gặp gỡ, và trớ trêu thay, lại lấp đầy tâm trí của đôi lứa trong khoảng thời gian chờ đợi bằng sự hỗn loạn, tuyệt vọng, chết chóc. Giờ giới nghiêm làm cuộc hẹn kết thúc đường đột, thời giờ của đôi tình nhân dành cho nhau bị cắt gọt đi. Và thời gian trôi đi trong trống vắng, nhắc nhớ nhà thơ về sự mông lung giữa sống và chết. Mỗi giờ được sống nghĩa là một giờ ta tiến gần đến cửa tử — một cánh cửa không ai biết khi nào sẽ mở. Bằng cách miêu tả đó, Du Tử Lê điểm mặt chiến tranh qua một vài thiệt hại thấp thoáng của nó gây ra cho cõi đời này, chính là những đứt gãy và đổ vỡ của nhân duyên giữa người với người trong đời sống thường ngày

Dường như, có một phút nào Du Tử Lê trở nên vui hơn. Những dòng thơ ông viết khi ấy chỉ mô tả chiến tranh như một tiếng đại bác vọng từ xa.

hãy nói với tôi... ồ... có chi đâu mà em đã ngượng
nói đi em về đôi gối đang thêu
về tấm chăn đơn màu hồng hay xanh
lụa hay nhiễu
lụa và nhiễu thì mềm (thật mềm và mát như da em)
hãy nói với tôi
dù ngày mai chưa bao giờ có trên quê hương ta
bởi ngày mai biết đâu tôi chết
vì chiến tranh này
thôi đừng nhắc nữa phải không em
(‘Những đứa con không giống cha mẹ’)

Chiến tranh, dù là thấp thoáng từ xa hay đứng ngay trước mặt, đều khiến người ta ngại ngùng đối diện. Điều ấy cũng dễ hiểu, vì chết chóc chưa bao giờ nằm trong vùng an toàn của con người. Trong bài này, Du Tử Lê không nói về những vết đạn, những trái mìn. Ông khéo léo gợi nhắc chuyện chiến tranh bằng việc mô tả cách người ta nói về nó, rằng thôi đừng nhắc nữa, đừng nói ra thành lời về những đổ máu đao binh ngoài kia.

Nhưng chiến tranh Việt Nam trong ngòi bút của nhà thơ không phải chỉ được thể hiện qua cách nói giảm nói tránh. Ông không chủ trương lãng mạn hóa chiến tranh trong sáng tác của mình. Tác giả đã không khoan nhượng khi mô tả xung đột bằng những hình ảnh tàn bạo và trần trụi nhất, trong một bài thơ nổi tiếng đã gắn liền với tên tuổi của ông.

trên xác người chưa rữa
trên thịt người chưa tan
trên cánh tay chó gặm
trên chiếc đầu lợn tha
tôi sống như người mù
tôi sống như người điên
tôi làm chim bói cá
lặn tìm vuông đời mình
(‘Khúc Thụy Du’)

Trong một bài đăng trên chính website của mình, Du Tử Lê chia sẻ, ông viết bài này vào mùa xuân 1968, khi giao tranh diễn ra ác liệt trên khắp miền Nam và ngay trong Sài Gòn. Là một phóng viên chiến trường, ông đã chứng kiến những cảnh tượng ghê rợn nhất của cuộc chiến: những căn nhà đổ nát, những xác người cháy nám không còn nhận diện được, những phần cơ thể vương vãi dọc đường. Khi được yêu cầu viết bài thơ cho một số báo xuất bản sau Tết, ông lưỡng lự. Ông cho rằng không thể viết một bài thơ tình, vì giữa không khí tang thương đó, làm một bài thơ tình là không phải với độc giả và với cả những người đã khuất. Do đó, ông chỉ viết xuống những điều ông đã thấy trên đường đi.

Có lẽ không cần một diễn giải nào thêm cho những câu từ của Du Tử Lê trong ‘Khúc Thụy Du’ vì tự thân chúng đã nặng trĩu sự ám ảnh và tàn khốc của cảnh tượng mà tác giả hầu mong ghi lại. Giữa cảnh tình đó, con người đã trở nên méo mó, biến dạng cả về thể xác lẫn tinh thần.

Nói cách khác, tình yêu chỉ là phần phụ; với những câu hỏi được đặt ra cho những người yêu nhau, giữa khung cảnh chết chóc kia, là gì? Nếu không phải là những tuyệt vọng cùng, tất cả sự vô nghĩa chói gắt của kiếp người?
(Du Tử Lê về ‘Khúc Thụy Du’)

Trong thơ Du Tử Lê, cuộc chiến không còn là giữa các phe bên này và bên kia. Thơ ông nhìn nhận cuộc chiến thuần túy là một sự hủy diệt đồng loạt. Do đó, người đọc ở mọi khu vực và thời gian đều có thể đọc thơ ông và cảm thấy được lắng nghe và đồng cảm từ góc nhìn của ông.

Với Du Tử Lê, viết là để ẩn nấp và tuyên ngôn. Dù vậy, thơ Du Tử Lê không chỉ thuần túy là một bản tóm tắt về chiến tranh. Tuy xuất hiện và để lại sự choáng váng cho người, phông nền chiến tranh cơ bản chỉ là một gợi mở, một cái cớ để ông giãi bày, trao gửi những tâm tư, tình cảm của mình đến người đọc mà thôi.

tôi hỏi lại chính tôi
mày là ai đứng đó
đợi chờ muôn ngàn năm
tiếng than mình dội lại

ngay từ phút làm người
ta đã là hai kẻ
quỷ và thần chia ngôi
đều như nhau đốn mạt
(‘Doi dấu’)

Xuyên suốt các tác phẩm, dường như ông cố giữ một giọng điệu đối thoại: đôi khi là giữa ông và người đọc, hoặc giữa ông và một nhân vật nào đó trong đời sống riêng tư của ông, hoặc có khi là sự hòa trộn của cả hai tuyến đối thoại. Những lời thủ thỉ của ông, đôi khi tràn ngập sự chua chát và cay đắng, làm ta rung cảm và thổn thức.

em đừng tưởng đời em
không cần người sưởi ấm
khi hàm răng chưa một lần cắn vỡ
chính giọt lệ mình lúc chảy ngang môi

hãy cố sống đời ta
đừng vẽ lầm chân dung kẻ khác
(‘Thạch sùng’)

Bằng những hình ảnh thơ táo bạo, Du Tử Lê cố gắng định nghĩa con người với những sự bất toàn của nó, hay nói đúng hơn, là ông muốn bào chữa cho chính những sự bất toàn, va vấp ấy của con người. Ông thừa nhận con người có thể rất cẩn trọng trong từng bước đi của hành trình tìm kiếm hạnh phúc, vốn là một hành trình đầy cản trở, như người làm xiếc trên dây, nhưng vẫn có thể không tránh khỏi những lỗi lầm ngoài ý muốn.

Con người cũng có thể không bao giờ hiểu được chính mình dù cố tìm kiếm và định hình bản thân trong những lằn ranh nhị nguyên, vì từ thuở hồng hoang, hai nửa “quỷ” và “thần” đều có những mặt xấu-tốt. Và cũng là con người ấy, tưởng chừng sẽ tồn tại một cách độc lập và cứng rắn, nhưng rồi cũng có thể trở nên dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết trong một phút giây cô độc, đối diện sự khắc nghiệt của cuộc đời.

Với tất cả những thừa nhận, những biện bạch ấy cho sự bất toàn của loài người, dường như nhà thơ muốn truyền tải thông điệp về sự bao dung và yêu thương, từ đó hướng đến một đời sống ý nghĩa hơn. Ông nghĩ, bởi chúng ta đều thiếu sót và mỏng manh như nhau, và vì bản thân đời sống đã tàn nhẫn và hạn định, nên không chi bằng mở lòng ra đến trân trọng nhau và tha thứ cho nhau, thay vì tiếp tục giày vò nhau bằng những ganh tị, bon chen, những khuôn mẫu kìm kẹp và áp chế.

Du Tử Lê đã mượn thi ca như một phương tiện ẩn nấp trước sự vô nhân tính của chiến tranh, qua đó cất lên những lời than thở, suy tư, đôi khi mang dáng dấp mạnh mẽ của một lời tuyên ngôn về tình yêu, con người, cuộc đời trước guồng quay vội vã của cuộc sống đã đành — lại còn bất định và gian nan hơn trước một cuộc chiến mà người ở thời điểm ấy không biết khi nào kết thúc. Những tuyên ngôn ấy được thể hiện dưới những hình thức nghệ thuật sáng tạo, ngôn ngữ thơ giàu hình ảnh, và quan trọng hơn hết là một giọng điệu chân thành, đầy cảm xúc.

Một “mạch nước đau thương” cho thế hệ trẻ hiện đại soi bóng mình

Những thông điệp về thân phận, tình yêu, con người mà Du Tử Lê gửi gắm trong các bài thơ của ông có thể được xem là những thông điệp vượt thời gian. Chúng không bị hạn định trong một sự kiện nào cụ thể, cũng không được uốn nắn để khớp vào những khuôn phép nhất thời. Những triết lý của nhà thơ về đời sống bất định và ồn ào, về sự quan trọng của tình yêu và tha thứ, hay những câu hỏi đầy tính phản tư về sự hiện diện của mỗi người trong cuộc đời, thật ra là một mạch nguồn tinh thần rất gần gũi với chúng ta, với những điều mà chúng ta chạm trán mỗi ngày. Bằng mạch nguồn chân thành đó, ta có thể soi bóng mình, thấy cả những đau thương của hôm nay và những hy vọng cho ngày mai, để ta cảm thấy được an ủi và tìm ra cách để ứng xử với đời sống.

mỗi chúng ta như một vùng đất trũng
mà đau thương là mạch nước trôi xuôi
(‘Thạch sùng’)

Còn những phác họa chiến tranh của Du Tử Lê, liệu chúng còn liên quan gì đến người đọc trẻ ở Việt Nam nửa thập kỷ sau hay không? Theo tôi, câu trả lời là có. Mạch nguồn triết lý của Du Tử Lê bắt đầu giữa một khung cảnh suy tàn của thời cuộc. Nửa thế kỷ sau, tuy nhiều thế hệ đã đến và rời đi trên cõi đời này, người trẻ có thể thấy mình đồng cảnh ngộ với Du Tử Lê, khi họ cùng sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn có quá nhiều biến đổi diễn ra nhanh chóng, khi đời sống trở nên ngày càng khắc nghiệt và bất định, khi con người trở nên chia rẽ nhiều hơn và dấn thân vào những cuộc xung đột diễn ra khắp nơi. Dẫu cho bối cảnh có khác đi thì tất cả đều chỉ là những sự giằng xé và tổn thương.

Thơ Du Tử Lê đã không ngần ngại khắc họa cuộc chiến trong quá khứ dưới góc nhìn nhân văn ấy, do đó có thể vượt qua rào cản của không gian và thời gian để cùng hòa điệu với người đọc hiện đại. Và trong những khoảnh khắc tuyệt vọng, người trẻ có thể một lần nữa trở lại, tìm kiếm câu trả lời cho tương lai của mình bằng những thông điệp về con người và tình yêu, như đã trình bày ở trên. Đôi khi, tiếng thở dài của Du Tử Lê cũng đã đủ để một người được cảm thấy bớt cô đơn.

 

Bài viết liên quan

in Trích or Triết

Một thế hệ can đảm trong thế giới khắc nghiệt qua ngòi bút Lan Khai

Ồ, tại sao người ta cứ lẩn thẩn tìm mãi cho đời mình một mục đích? Mục đích của sự sống chẳng phải chính là sống đấy ư? Sống một cách đầy đủ, không bị đè nén, không bị trói buộc, không bị ép uổng dùng...

in Trích or Triết

Triết lý phồn thực và tiếng nói phản kháng trong thơ Hồ Xuân Hương

“Cái tên Xuân Hương cứ gợi lên trong trí óc ta một người còn trẻ, ta cảm thấy gọi ‘bà’ là không ổn; trong ý niệm của ta, Xuân Hương không bao giờ già; ta thích gọi bằng ‘nàng’ bằng ‘cô’; đẹp hơn hết, ...

in Trích or Triết

Đọc Nguyễn Tuân để chiêm nghiệm cách sống giữa một thế giới bất định

"Bầu trời khô sáng và nền trời xanh gắt mầu biếc cánh chả kia muốn biến tôi hóa làm con chim bằng. Nó thúc giục tôi đừng đứng im. Muốn dời đi đâu thì đi, miễn là đừng ở mãi chốn này. Phải thay đổi."

in Trích or Triết

Tình dục, giáo dục giới tính và mại dâm qua giọng văn thẳng-mà-thật của Vũ Trọng Phụng

“Vấn đề nam-nữ giao-hợp phải đem ra giảng cho tuổi trẻ.”— Vũ Trọng Phụng

in Trích or Triết

Vũ Bằng và ngòi bút chất chứa niềm thương nỗi nhớ về Hà Nội

Từ Thương Nhớ Mười Hai đến Miếng Ngon Hà Nội, hình ảnh Hà Nội đan xen với nỗi hoài niệm trong lời văn Vũ Bằng luôn đưa tôi quay ngược trở về vòng tay của thành phố tôi yêu, đặc biệt sau khi chuyển tới...

in Trích or Triết

Xuân Quỳnh: Từ cảm quan tính nữ đến vẻ đẹp riêng tư

Trong mỗi giai đoạn phát triển của địa hạt thơ ca Việt Nam, những nhà thơ nữ luôn có những đóng góp tiêu biểu riêng và xác lập được một vị thế rõ ràng trong lòng độc giả. Sau Cách mạng tháng Tám ...