Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Trích or Triết » Khát vọng cách tân trong thơ Trần Dần, ‘kẻ nổi loạn’ của thi đàn Việt

Trong mắt nhiều độc giả Việt, cái tên Trần Dần luôn gắn với tinh thần thử nghiệm và khát vọng cách tân. Thơ ông khác hẳn những tác giả tôi từng học ở trường phổ thông: vừa mới mẻ, vừa tươi lạ, lại mang cảm giác rất đương đại. Khi lần giở từng trang trong tuyển tập Thơ được xuất bản sau khi ông qua đời, tôi nhận ra di sản ấy vẫn còn sức truyền cảm hứng cho độc giả hôm nay, nhất là với lớp trẻ: rằng làm “nghệ sĩ” không chỉ dừng ở việc thưởng thức hay sáng tạo tác phẩm, mà còn là mang tinh thần nghệ sĩ vào từng khoảnh khắc đời sống thường ngày.

Đối diện với hiện thực trong cái trần trụi, gồ ghề của nó.

Khoảng năm 1954, Trần Dần tham gia kháng chiến chống Pháp trong chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng thời tích cực sáng tác cùng lớp văn nghệ sĩ cách mạng. Khi phần lớn đều chọn chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm khung sáng tác, thì điều làm ông khác biệt chính là khát vọng đối diện với hiện thực trong cái trần trụi, gồ ghề của nó.

Chân dung Trần Dần khi trẻ.

Hầu hết thi sĩ ngày ấy vẫn còn chịu ảnh hưởng của Thơ Mới với chất trữ tình lãng mạn, hoặc bám vào hình tượng cổ điển như trong Truyện Kiều. Họ mô tả chiến tranh một cách gián tiếp, đôi khi lý tưởng hóa, thiên về ca ngợi làng quê cần cù thay vì đi sâu vào nội tâm người lính hay nỗi đau nơi hậu phương. Trần Dần từng viết: “Người ta muốn thơ phải rõ ràng, phấn khởi, hồng hào, êm ả. Vì vậy, bây giờ tôi muốn một thứ thơ nào đó có cái phấn khởi của những giọt nước mắt, mồ hôi và máu đào; phấn khởi của những khói bụi, đất cát, thuốc súng, xác chết, nhà thiêu, [...] Tôi muốn một thang thuốc ngọt bởi những vị đắng và cay nhất của trái đất.”

Các chiến sĩ giương cờ “quyết chiến, quyết thắng” khi chiếm giữ thành công cầu Mường Thanh (1954).

Các chiến sĩ ngược dòng về thượng nguồn sông Mã (Thanh Hóa) để tiếp viện lương thực cho mặt trận Điện Biên Phủ.

Đoạn trích trên nằm trong Ghi 1954–1960, tuyển tập những ghi chép cá nhân của ông được xuất bản sau này. Ông còn viết thêm: “Tôi thích thơ thời sự, theo sát cái hồi hộp, lo lắng của Đảng tôi, dân tôi, triệu triệu quả tim dân chúng và quân đội, chiến sĩ và cán bộ, lãnh tụ và quần chúng.”

Nhà phê bình Đỗ Lai Thúy nhận xét rằng Trần Dần kịch liệt phản đối cách kể sáo rỗng, hời hợt về đời sống đương thời. Thay vào đó, ông đề cao sự quan sát trung thực, thể hiện lòng cảm thông sâu sắc với những trải nghiệm khiếm khuyết, đầy tính người. Nghe thì có vẻ hơi thiên về cảm tính, nhưng thực chất thơ ông luôn ôm trọn những mâu thuẫn, nước đôi bằng một con mắt tỉnh táo, cùng một giọng thơ mạnh mẽ và cách tân hơn hẳn so với nhiều đồng nghiệp. Đó mới chính là diện mạo của thi ca trong một kỷ nguyên cách mạng mới, như Trần Dần và nhiều nhà văn trong phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm đã hình dung.

Đi! Đây Việt Bắc trước đó được xuất bản dưới cái tên Bài thơ Việt Bắc.

Tuyển tập Ghi 1954-1960.

Tập thơ sử thi Đi! Đây Việt Bắc! (1955), được ông viết trong một giai đoạn ngắn yên bình, lấy cảm hứng từ trải nghiệm ở Điện Biên Phủ, là minh chứng rõ rệt cho tinh thần ấy, được ông thể hiện trong một đoạn trích chương III:

Ở đây

manh áo vải

chung nhau.

Giấc ngủ

cùng chung

chiếu đất

[...] Con muỗi độc

chung nhau

cơn sốt.

Chiến trường

chung

dầu dãi đạn bom.

Tới khi ngã

lại chung nhau

đất mẹ.

Điệp từ “chung” được ông dùng để gợi sự gắn bó trong cảnh ngộ thiếu thốn của người lính. Họ cùng chia nhau manh chiếu, thậm chí cả tấm áo, rồi trong khốc liệt chiến trường, từ muỗi rừng truyền sốt rét đến bom đạn cận kề sinh tử. Đó đều là những trải nghiệm đau thương nhưng chân thực, vốn bị dòng chảy ký ức tập thể muốn quên lãng. Nhưng chính cái “chung” ấy cũng nhấn mạnh tinh thần thủy chung với lý tưởng của người lính giữa muôn vàn gian khổ. Qua đó có thể thấy khả năng của Trần Dần trong việc gói ghém trải nghiệm phức tạp bằng thứ ngôn ngữ ngắn gọn, giàu sức nặng; đồng thời phơi bày nguy cơ từ sự lãng quên có chủ đích trong ký ức xã hội, một sự lãng quên dễ xóa nhòa đi cả sự thấu cảm và vẻ đẹp được sinh ra từ chính bùn nhơ, cay cực của đời sống.

Các chiến sĩ ở Điện Biên Phủ đang được chữa trị.

Kết chương, Trần Dần khép lại bằng một cao trào thi vị: ông vận dụng sáng tạo khái niệm “nợ” để diễn đạt đức khiêm nhường và lòng tri ân của người lính với tất cả, kể cả những thực thể vô tri như đất đai, cỏ cây, muông thú, và dĩ nhiên, với đồng bào của mình:

Ta mắc nợ

những rừng xim bát ngát.

Nợ

bản mường heo hút

chiều sương.

Nợ củ khoai môn

nợ

chim muông

nương rẫy.

[...] Dù quen tay vỗ nợ

cũng chớ bao giờ

vỗ nợ

nhân dân !

Đi! Đây Việt Bắc! vừa mang tinh thần hiện thực xã hội chủ nghĩa, vừa phô bày sức sáng tạo táo bạo của Trần Dần, không chỉ ở những hình ảnh độc đáo, chính xác, mà còn trong lối thơ bậc thang với nhịp điệu vắt dòng — một thủ pháp mà ông tiếp thu từ nhà thơ Nga Mayakovsky. Ở Trần Dần, “cuộc cách mạng thi pháp” ấy tìm thấy sự cộng hưởng, đem lại cho tác phẩm một nhịp điệu dồn dập và đầy năng lượng.

Nhà thơ Nga Vladimir Mayakovsky thuộc trường phái Dada.

Tiếc rằng, dù có giá trị cả ở kỹ thuật lẫn nội dung, tác phẩm không được công bố ngay: Trần Dần bị cấm xuất bản, thậm chí phải ngồi tù một thời gian ngắn, chỉ được thả ra sau khi ông tìm đến cái chết bất thành. Nguyên do một phần xuất phát từ việc ông tham gia phong trào Nhân Văn–Giai Phẩm, khi ông công khai phê phán ‘Việt Bắc’ — một tác phẩm cùng đề tài của Tố Hữu, người giữ vai trò lãnh đạo văn học nghệ thuật lúc ấy, cũng là người có hướng tiếp cận rất khác Trần Dần. Ông cho rằng bài thơ, với việc vận dụng giọng điệu sử thi truyền thống để ngợi ca vẻ đẹp lãng mạn của chiến khu sau trận đánh, chưa thực sự đi sâu vào trải nghiệm của người lính, cũng không tạo nên bước tiến mới trong việc sử dụng tiếng Việt để biểu đạt những điều ấy, nên còn thiếu sức mạnh và sinh khí cần có của một tiếng nói thi ca cách mạng.

Trần Dần (phải) và vợ Ngọc Khuê (trái).

Cho đến tận năm 1988, nhiều độc giả vẫn hết lòng ủng hộ tác phẩm của ông. Trần Dần thậm chí còn được mời ra Huế trò chuyện văn chương cùng công chúng, và chính ông thú nhận: “Tôi cảm thấy rét vì phải đối diện với đám đông, sau đó lại quá xúc động vì tính chất thẳng thắn của những câu hỏi đặt ra cho tôi.” Cuối cùng, những cống hiến của ông cũng được ghi nhận chính thức với Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật (truy tặng) vào năm 2007.

Nhìn chung, hành trình phi thường nhưng đầy sóng gió của Trần Dần là một lời nhắc nhở ngậm ngùi rằng, dẫu gian nan ta vẫn cần giữ gìn lương tri và sự nhạy cảm trong cuộc sống. Đó không chỉ là chuyện sáng tác nghệ thuật, mà còn là triết lý làm nghệ thuật: phải luôn lắng nghe và đối diện với những khía cạnh xã hội thường bị bỏ quên, không tô hồng, cũng không nổi loạn vô nghĩa. Chỉ như thế, ta mới có thể tự truyền cảm hứng cho mình và những người xung quanh, để nhìn lại đời sống một cách trung thực và có nhận thức.

Thách thức bản thân và quá khứ, vì ta đang sống.

Nếu không có trận Điện Biên Phủ, hẳn những số tiếp theo của Dạ Đài đã được ra đời. Tạp chí này do Trần Dần, khi ấy mới 19 tuổi, cùng các bạn thơ trong nhóm Tượng Trưng thành lập. Họ chịu ảnh hưởng từ thơ tượng trưng nhưng đồng thời còn từ các trào lưu kế tiếp như siêu thực hay Dada — vì thế nên ấn phẩm mới có cái tên “Dạ Đài.” Trong tuyên ngôn của Tượng Trưng, họ khẳng định: “Chúng ta đã chán ngắt cái thi ca nông hẹp, nhai đi nhắc lại những phong cảnh trần gian, những tâm tình thế tục [...] chúng ta muốn vào sâu ngoại vật, nội tâm và muốn đi xa thiên đường, địa ngục.”

Bìa tuyển tập Thơ.

Ngay từ đầu, Trần Dần đã là kẻ nổi loạn. Ngoài ảnh hưởng từ nhà thơ Nga Mayakovsky của trường phái Dada, trong những cuộc trò chuyện với bạn bè, ông còn nhắc đến các tượng đài thơ tượng trưng Pháp như Baudelaire, đặc biệt là Rimbaud, những tác giả ông đọc từ thuở thiếu thời. Điều này đối lập hẳn với lớp đàn anh trong phong trào Thơ Mới như Xuân Diệu, Thế Lữ, vốn chịu ảnh hưởng chủ nghĩa lãng mạn Pháp qua Victor Hugo hay Musset. Với Trần Dần và nhóm bạn Tượng Trưng, những bậc tiền bối ấy quá nặng tình, dễ sa vào u sầu, trong khi họ muốn khơi mở một làn sóng thi ca mới mẻ, táo bạo hơn.

Dù nhóm Tượng Trưng sớm tan rã, tuyên ngôn của họ vẫn trở thành kim chỉ nam trong hành trình văn chương của Trần Dần. Ông kiên quyết thoát khỏi những khuôn mẫu của thế hệ trước về việc thế nào thì mới là “chủ đề” hay “thẩm mỹ” phù hợp. Vì vậy, bên cạnh việc đưa các vấn đề đương thời của đất nước vào thơ, trong lý tưởng về một “cuộc cách mạng toàn diện,” ông còn mạnh dạn khai phá những đề tài như giải phóng tình dục, chủ nghĩa cá nhân, với cùng sự mãnh liệt và những kỹ thuật tiên phong đã định hình phong cách riêng, ngay trong thời kỳ mà chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa được xem như khuôn vàng thước ngọc duy nhất. “Tôi lại cũng thích thơ không thời sự,” ông nói. “Thơ bao trùm đất nước và thời gian, thơ ăn lấn sang mọi thế kỷ, và thơ nhập cả vào cái biện chứng bao la của sự vật.”

Trong ‘Đố ai chọc mắt các vì sao,’ ông đan xen những hình ảnh quen thuộc của phố xá (như phố, mưa, lá, cành, nhà, và ngõ) với những từ ngữ gợi cảm, thậm chí mang sắc thái xác thịt (như khoả thân, khe, toẻ, and xoạc) để làm bật lên một cảm giác siêu thực, vừa gần gũi vừa gây ám ảnh:

Phố khoả thân mưa

In hình võng mạc nước

Lập lờ khe lá dọc

Toẻ cành xanh nét móc

Thẹm nhà đôi ngõ xoạc

Khoả thân mưa…

Bằng cách đặt cạnh nhau hai lớp ngôn ngữ đối lập, Trần Dần buộc người đọc nhìn lại quan niệm về tính dục: từ chỗ vốn bị xem là điều cấm kỵ, thành một phần cần được thừa nhận, bình thường hoá; bởi chính những từ ngữ ấy vốn hiện diện trong vô vàn hiện tượng đời thường, tự nhiên. Với thủ pháp này, ông phác hoạ một thế giới sau cơn mưa, như được gột sạch trở về trạng thái nguyên sơ, “trần trụi” và thuần khiết, chưa bị gò bó bởi luật lệ.

Thật ra, sự khai phá của Trần Dần có thể đặt song song với công trình The History of Sexuality (Lịch sử tính dục, 1976) của Michel Foucault. Foucault chỉ ra rằng những giá trị đạo đức mang tính trấn áp và cả các khung lý thuyết khoa học mang tính bệnh lý hoá đều nhằm kiểm soát diễn ngôn về tính dục trong xã hội. Cũng vậy, nhiều tác phẩm của Trần Dần thường xuyên phá vỡ ranh giới vốn quy định cái gì “được” hay “không được” dùng, từ đó giải phóng cách biểu đạt khỏi những định nghĩa và liên tưởng xã hội sẵn có. Hơn nữa, dù ông không phải là người đầu tiên viết về tính dục, việc chủ đề này đã từng xuất hiện trong văn học dân gian hay trong thơ Hồ Xuân Hương cho thấy tính thời sự và sức sống lâu dài trong những thử nghiệm của ông; nhất là khi ngày nay, những trao đổi về tính dục ngày càng cởi mở trong cả nghệ thuật lẫn đời sống thường nhật.

Tranh vẽ của Trần Dần.

Trần Dần còn đi xa hơn khi thử nghiệm vị trí của cái tôi trong xã hội, bằng cách phá vỡ quy tắc chính tả và dùng những “thủ pháp mở rộng” để sắp đặt chữ trên trang giấy. Điều này thể hiện rõ trong trích đoạn ‘Con I,’ nơi chính chữ “i” trở thành trọng tâm — một ký tự mà ông dường như coi như âm vị đơn giản nhất, biểu tượng thị giác cơ bản và viên gạch nền tảng của ngôn ngữ:

NGƯỜI Đi. NGÀY Đi. LỆ KÌA

ici Cie i i i i i mọi đồng hồ vẫn khóc như ri

ĐỒNG HỒ QUẢ ĐẤT

mọi đồng hồ thế jới (nếu đồng hồ) đều tham ja mưa rả ríc .. i

CHẠY NHƯ Ri i i

[...]

THẾ JỚI VẪN KHÓC NHƯ Ri

ici i i i i i i i i i i ici

KHÔNG i KHÔNG THÍC NGi .

Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Thuỳ Dương, hình dáng chữ i gợi đến dáng người, qua đó tượng trưng cho cá thể. Bản thân tôi cũng thấy thú vị khi chữ cái này lại tương đồng với đại từ nhân xưng “I” trong tiếng Anh. Giống như những chỗ thay thế phụ âm bằng ký tự phát âm tương tự (chẳng hạn j thay cho gi trong “jới”), chữ i liên tục biến đổi giữa viết hoa và viết thường, thử nghiệm nhiều “nhân dạng” và cách đứng trong từ, như thể đi tìm chỗ thuộc về. Nó xuất hiện trong “Đi hay NGi,” thường phá vỡ quy tắc chính tả và hoa/thường, rồi lại trở về chuỗi “i i i i i” gợi âm thanh lộp bộp của mưa hoặc hình ảnh một hàng người xếp thẳng tắp. Và vòng lặp cứ thế tiếp diễn.

Phải chăng Trần Dần muốn cho thấy cái tôi luôn trong trạng thái dao động, không ngừng trượt đi và từ chối định vị ổn định (“KHÔNG i KHÔNG THÍC NGi”), giữa một xã hội đồng chất hoá — tượng trưng bởi dãy i vô tận — và những nhóm rời rạc, chưa trọn vẹn dù mang tính cá thể, tượng trưng bởi những từ bị biến dạng chính tả? Nếu vậy, ông không xem khái niệm “chúng ta” như một khối đơn nhất, mà kêu gọi thừa nhận từng cái tôi để từ đó hình thành nên tập thể. Thông điệp này có niềm đồng cảm lạ lùng trong vở Tôi và Chúng ta của Lưu Quang Vũ mười năm sau, đúng vào thời điểm xã hội Việt Nam đang giằng co trước lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở đường cho Đổi Mới.

Quyết định của Trần Dần trong việc mở rộng thực hành nghệ thuật, cả ở bình diện hình thức lẫn chức năng, bằng những cách thách thức những quy ước thẩm mỹ vốn có, đã mở ra những khả thể mới về trải nghiệm con người và về những đề tài mà nghệ thuật có thể, và nên, chạm tới.

Thật dễ để gạt bỏ mọi thử nghiệm tiên phong của ông như một thứ nghệ thuật xa lạ, khó hiểu và vô nghĩa. Thế nhưng, Trần Dần từng nói: “Tất cả mọi giá trị Chân Thiện Mỹ đều là khó hiểu, trượt băng nghệ thuật cũng khó hiểu (!).” Ông còn nói thêm: “Cái biết rồi là nghĩa, cái chưa biết là chữ. Cái chưa biết là cái thăm thẳm. Anh làm câu châm ngôn hay như Khổng Tử chưa phải là thơ, nghịch lý như Lão Tử chưa phải là thơ. Nhảy qua bóng mình mới là thơ. Mình chưa hiểu thơ, vì khó mà nhảy qua bóng của mình.”

Chính vì thế, quyết định của Trần Dần trong việc mở rộng thực hành nghệ thuật, cả ở bình diện hình thức lẫn chức năng, bằng những cách thách thức những quy ước thẩm mỹ vốn có, đã mở ra những khả thể mới về trải nghiệm con người và về những đề tài mà nghệ thuật có thể, và nên, chạm tới.

Trong cùng cuộc phỏng vấn, Trần Dần đã bàn đến ca dao: “Đó là gia sản quốc gia, thầy giáo phải đặt nó ngang hàng với Nguyễn Du, hay Cao Bá Quát. Phải học nó để rồi chôn nó.” Với ông, việc phá vỡ quy phạm và thách thức của bậc tiền bối là điều tất yếu. Ông còn tin rằng lớp trẻ rồi sẽ làm điều tương tự. “Thế hệ trẻ à? Tôi cứ đợi mãi. Nó bị trong vòng vây của văn chương cung đình, tôi sốt ruột đợi lớp trẻ đủ sức lớn lên để chôn bọn tôi, như chúng tôi đã chôn tiền chiến.”

Nhóm bạn của Trần Dần (thứ hai từ bên trái) cùng Trần Trọng Vũ, con trai út của ông (thứ hai từ bên phải).

Có thể nói, nếu còn sống hẳn Trần Dần sẽ ngạc nhiên và vui mừng trước sự xuất hiện của nhiều cộng đồng viết lách độc lập ở Việt Nam hôm nay. Dù không có sự hậu thuẫn từ hệ thống, họ vẫn tạo nên không gian cho những người trẻ muốn thử nghiệm với tiếng Việt và đối thoại phê phán với trải nghiệm đương đại. Có lẽ đó mới là kỳ vọng lớn nhất mà Trần Dần gửi gắm: sống và yêu đời như một nghệ sĩ, với niềm đam mê còn mãnh liệt hơn cả những gì chính ông từng làm.

Bài viết liên quan

in Trích or Triết

Bàn về sự giáo dục phụ nữ trong Nam Phong tạp chí qua ngòi bút Phạm Quỳnh

Đầu thế kỷ 20 ở nước ta, sự du nhập của văn hóa phương Tây cùng với cái nền sẵn có của văn hóa phương Đông đã tạo nên nhiều cuộc tranh luận ở nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Thứ nhất, An Nam là ...

in Trích or Triết

Hoàng Việt và bản tình ca dang dở từ hai đầu chiến tuyến

Giữa hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, tình yêu của nhạc sĩ Hoàng Việt dành cho vợ ông, bà Ngọc Hạnh, như một giai điệu lặng thầm, len lỏi qua những biên giới vô hình, vượt qua làn sóng radio chập chờn ...

in Trích or Triết

Một thế hệ can đảm trong thế giới khắc nghiệt qua ngòi bút Lan Khai

Ồ, tại sao người ta cứ lẩn thẩn tìm mãi cho đời mình một mục đích? Mục đích của sự sống chẳng phải chính là sống đấy ư? Sống một cách đầy đủ, không bị đè nén, không bị trói buộc, không bị ép uổng dùng...

in Trích or Triết

Triết lý phồn thực và tiếng nói phản kháng trong thơ Hồ Xuân Hương

“Cái tên Xuân Hương cứ gợi lên trong trí óc ta một người còn trẻ, ta cảm thấy gọi ‘bà’ là không ổn; trong ý niệm của ta, Xuân Hương không bao giờ già; ta thích gọi bằng ‘nàng’ bằng ‘cô’; đẹp hơn hết, ...

in Trích or Triết

Vũ Bằng và ngòi bút chất chứa niềm thương nỗi nhớ về Hà Nội

Từ Thương Nhớ Mười Hai đến Miếng Ngon Hà Nội, hình ảnh Hà Nội đan xen với nỗi hoài niệm trong lời văn Vũ Bằng luôn đưa tôi quay ngược trở về vòng tay của thành phố tôi yêu, đặc biệt sau khi chuyển tới...

in Trích or Triết

Đi tìm tia sáng trong tăm tối thời cuộc qua ngòi bút Nguyên Hồng

Mang biệt danh “nhà văn của những người cùng khổ,” Nguyên Hồng dường như bị ám ảnh với những mảnh đời ở đáy xã hội, khi mà các nhân vật của ông nếu không là phụ nữ bị chồng bỏ, bố mẹ ruồng rẫy thì cũn...