Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Văn Hóa » Điểm lại những 'chị đẹp đạp gió rẽ sóng' trong cổ tích Việt Nam

Đạp cơn gió định kiến, cưỡi con sóng lề lối lễ nghi, giai thoại về các nữ nhân xưa có sức mạnh vượt thời đại, gửi gắm tiếng nói nữ quyền đến tâm hồn hậu thế khát khao bình đẳng.

Ngày nhỏ, tôi từng tin một cách rất ngây ngô rằng chỉ những người như Thánh Gióng, Thạch Sanh hay Sơn Tinh mới xứng làm nhân vật chính, vì chỉ họ mới có sức mạnh trời cho để cứu dân khỏi cảnh lầm than. Niềm tin trẻ con ấy phần nào phản ánh ảnh hưởng của mô-típ cổ tích quen thuộc, thường lấy nam giới làm đại diện cho khía cạnh mạnh mẽ và chính nghĩa của con người.

Nhưng khi lớn hơn một chút, tôi mới dần nhận ra kho tàng cổ tích nước mình sâu rộng đến nhường nào. Trong những mẩu truyện đã đi qua đời tôi, thấp thoáng bóng dáng của những người phụ nữ tài trí và kiên cường, vượt lên nghịch cảnh để tung bay trên đôi cánh tự do.

Có người tự chọn cho mình một cuộc đời độc lập, không màng những khuôn phép hà khắc. Có người lại mang trong mình tinh thần quả cảm, sẵn sàng gánh vác cả giang sơn, xã tắc. Họ là những bóng hồng truyền cảm hứng, đại diện cho khát vọng được sống, được lựa chọn và được làm chủ chính mình. 

Âu Cơ: Vị tổ mẫu quyền uy từ những lựa chọn quyết liệt

Trong ‘Con Rồng Cháu Tiên,’ Âu Cơ hiện lên với tầm vóc của một quốc mẫu, người mẹ khai sinh bọc trăm trứng khởi đầu giống nòi Việt. Nhưng bên cạnh biểu tượng thiêng liêng ấy, hình tượng Âu Cơ còn ẩn chứa tinh thần tự chủ và khí chất lãnh đạo mẫu hệ từ thuở hồng hoang.

Ngay từ khi xuất hiện trong những áng văn cổ, cái tên Âu Cơ đã ghi dấu bằng chính lựa chọn của mình. Là một nữ nhân phương Bắc chu du xuống phương Nam, Âu Cơ đem lòng yêu mến dung mạo và chí khí của Lạc Long Quân, quyết định ở lại và nên duyên vợ chồng cùng vị thần này. Đến khi bọc trăm trứng nở trăm con, nàng lại vì cảnh đơn chiếc, thiếu vắng chồng, khi Lạc Long Quân mải miết ở Thủy Quốc, mà quyết định đưa các con trở về quê cũ. Tin tưởng ở lại vì lý tưởng tình yêu, Âu Cơ cũng đủ dũng khí để rời đi khi mối tình ấy ngày càng phai nhạt.

Sự quyết liệt đó của nàng đã mở ra bước ngoặt mang tính biểu tượng trong truyền thuyết: cuộc chia ly giữa hai bậc Tiên-Rồng, chia đôi trăm con theo lời Lạc Long Quân. Dù các bản dịch Lĩnh Nam chích quái có khác biệt câu chữ, tất cả đều ghi lại lời trách thẳng thắn của Âu Cơ dành cho vị tổ phụ nước Việt:

“Thiếp vốn là người nước Bắc, ở với vua, sinh hạ được trăm con trai, vua bỏ thiếp mà đi,
không cùng thiếp nuôi con, làm người vô phu vô phụ, chỉ biết thương mình.”
(bản dịch Đinh Gia Khánh và Nguyễn Ngọc San)

Âu Cơ đã đặt vị thế bản thân ngang hàng với Lạc Long Quân trong cuộc hôn nhân. Nàng không phải kẻ phụ thuộc, mà sẵn sàng chất vấn trách nhiệm của chồng mình trong việc đồng hành dựng xây gia đình, nuôi dạy con cái. Để rồi khi không thể dung hòa lối sống, Âu Cơ đã đồng thuận trong việc “ly hôn,” mang 50 con về với cội nguồn giống Tiên, về với bản thể tự do, thanh cao của mình.

Ở chốn núi non, nàng là một người mẹ tự quyết con đường nuôi dạy con cái, sẵn sàng suy tôn con trai trưởng trở thành vị lãnh đạo đầu tiên của quốc gia. Công mở đường cho thời đại Hùng Vương rực rỡ khiến Âu Cơ không chỉ là nhân vật mang bản lĩnh cá nhân, mà còn là biểu tượng cho hình ảnh người phụ nữ chủ động lãnh đạo và dám kiến tạo bản sắc văn hóa Việt.

Tiên Dung: Công chúa kiến tạo vận mệnh bởi khí khái bất phàm

Câu chuyện về Tiên Dung vốn được biết đến qua mối duyên kỳ ngộ với Chử Đồng Tử, người sau này được tôn làm một trong “Tứ bất tử.” Nhưng đằng sau bóng dáng người vợ tào khang ấy là một cá tính tự do và kiêu hãnh, một người phụ nữ có hành trình rực rỡ và tự chủ chẳng kém bất kỳ bậc anh hùng nào.

Là con gái vua Hùng, Tiên Dung mang tư chất vượt thời đại, khác hẳn hình tượng công chúa khuôn phép thường thấy. Nàng ưa ngao du, say mê trời biển, mây gió. Trong khi các Mị Nương khác được gả đi để trọn đạo chính trị, Tiên Dung lại nguyện không lấy chồng, chỉ mong được sống theo ý mình giữa trời bể bao la.

Nhưng điều đó không khiến mối duyên giữa nàng và Chử Đồng Tử trở nên mâu thuẫn. Trái lại, nó thể hiện rõ nhất tinh thần tự do mà Tiên Dung tin tưởng: tự do chọn người mình yêu. Bởi vậy, khi vô tình thấy thân thể trần truồng của Chử Đồng Tử, nàng không hổ thẹn thoái thác, mà dám đứng ra nhận trách nhiệm cho định mệnh, cho đúng với lý tưởng hôn nhân tự do mà nàng hằng tin. Dẫu Chử Đồng Tử e ngại vì thân phận cơ hàn, Tiên Dung vẫn kiên định:

“Việc này tự trời tác hợp, việc gì mà từ chối?”
(bản dịch Lê Hữu Mục)

Với nàng, “thuận theo trời” không có nghĩa là phó mặc, mà là dám lắng nghe lòng mình.

Sự sáng suốt ấy giúp Tiên Dung vững vàng vượt qua những chỉ trích của vua cha và cả hệ thống lễ nghi cung đình. Mặc kệ thân phận nghèo hàn của Chử Đồng Tử, nàng quyết cùng chồng gây dựng cuộc sống mới: lập chợ, buôn bán, mở mang giao thương, một hành trình khởi nghiệp của hai tâm hồn tự do.

Vượt khỏi khuôn phép “tề gia nội trợ,” Tiên Dung cùng chồng tu tập, tự định đoạt con đường tâm linh của mình, rồi cùng đắc đạo. Khi vua cha nổi giận muốn trừng phạt, nàng không trốn tránh mà bình thản đối mặt, để rồi cảm động trời đất, cả hai hóa thân thăng thiên giữa hào quang huyền diệu.

Phép lạ của Tiên Dung không chỉ là thoát khỏi gươm giáo vua cha, mà còn là minh chứng cho sức mạnh của người phụ nữ dám lựa chọn và kiến tạo vận mệnh. Hình ảnh ấy vang lên như khúc ca về tự do, khi người phụ nữ không còn là cái bóng của ai, mà chính là người cầm lái con thuyền đời mình giữa muôn trùng sóng gió.

Tấm: Bản tuyên ngôn tự quyết thân phận bằng muôn lần tái sinh

Trong tâm khảm của người Việt Nam, những khổ ải của nàng Tấm đã quá đỗi thân thuộc. Nhưng Tấm không chỉ là một thân phận nhỏ bé bị vần vũ bởi lễ giáo và thứ bậc. Điều làm nên huyền thoại của nàng chính là những khoảnh khắc vượt thoát, những lần nàng tự mình viết lại số phận bằng những hình thức biến hóa kỳ lạ và kiên cường.

Kể từ khi được Bụt giúp đỡ thành công thoát khỏi gia đình của mẹ ghẻ, bước chân vào lầu son gác tía với thân phận hoàng hậu, hành trình của Tấm là một chuỗi những phép màu do chính nàng tạo ra, nhằm phản kháng mạnh mẽ trước tà ác rình rập. Bao lần bị tước đoạt mất mạng sống, Tấm vẫn không ngừng tái sinh, như một lời khẳng định đanh thép cho khát vọng được tự quyết số phận. Những hình tượng mà Tấm biến hóa cũng khôn lường, từ con vật, đồ vật đến cây cối đều có đủ. Nàng không chỉ quyết định về khoảnh khắc tái sinh, mà thậm chí tự vẽ nên những hình thái, dáng vẻ của chính mình.

Mỗi lần biến thân tuy khác nhau, nhưng tinh thần phản kháng của Tấm vẫn vẹn nguyên và mạnh mẽ. Đó là con chim vàng anh xẵng giọng đe dọa:

“Phơi áo chồng tao phơi lao phơi sào
Chớ phơi bờ rào rách áo chồng tao.”
(bản chép Nguyễn Đổng Chi)

Là khung cửi cót két sẵn sàng mỉa mai:

“Cót ca cót két
Lấy tranh chồng chị
Chị khoét mắt ra.”
(bản chép Nguyễn Đổng Chi).

Cô Tấm ngoan hiền chỉ có thể khóc rấm rứt tủi thân của ngày xưa đã biến mất, thay vào đó là một nàng Tấm không cam chịu, sẵn sàng đáp trả, giành lại những gì xứng đáng thuộc về mình.

Tấm không phải “hắc hóa” mà để ngọn lửa hận thù cuốn trôi đi nhân tính của mình hoàn toàn. Con chim ấy tuy lên giọng với Cám, nhưng lại hiền dịu đậu vào tay áo của người chồng yêu thương. Khung cửi tuy cót két giọng điệu chua chát, nhưng lại dệt cho vua gấm áo lụa là. Quả thị tuy nhỏ bé nhưng biết đáp đền công ơn người hái đã cưu mang. Chính bởi giữ được ánh sáng thiện lương trong từng lần hóa thân, Tấm mới có đủ sức mạnh để dưỡng nuôi ý chí phản kháng đến cuối con đường.

Nhưng hơn hết, mỗi lần tái sinh còn là một lần nàng bảo lưu nhân phẩm, là một lần nàng khẳng định rằng cái chết hay sự áp đặt không thể xóa đi quyền được sống trọn vẹn. Tấm trở thành hình ảnh phảng phất những mong ước vượt thoát định mệnh, mong ước của muôn vàn phụ nữ: được tự chủ, được công bằng, và được đi theo tiếng gọi của lòng mình.

Cô Út: Hình mẫu của lòng tin và sức mạnh nội tại của phụ nữ

Trong câu chuyện ‘Sọ Dừa,’ chàng trai kỳ dị ấy hiện lên như một vị thần giáng thế, hóa thân xấu xí để thử lòng người đời. Với cha mẹ nghèo khó đã hết mực yêu thương, chàng đáp lại bằng phú quý, nhà cao cửa rộng. Với cô Út, người duy nhất không chê thân phận hèn mọn, chàng trao tặng vinh hiển, địa vị và cả sự sống khi nàng đối diện lằn ranh sinh tử.

Nhưng nếu nhìn câu chuyện ở một góc nhìn bình đẳng hơn, ta thấy cô Út không phải chỉ là một người được Sọ Dừa “cứu chuộc” mà chính những phẩm chất đáng quý của nàng mới nâng đỡ cuộc đời chính mình. Khi Sọ Dừa xin được chăn trâu cho nhà phú ông, trong ba người con gái, chỉ có cô Út là đối đãi chàng tử tế. Để rồi một ngày tình cờ nghe được tiếng sáo giữa đồng trâu, nhìn thấy tướng mạo chàng khôi ngô, nàng bèn sinh lòng cảm mến Sọ Dừa, tin tưởng chàng không phải người phàm trần.

Có thể xem nhân dạng xấu xí của Sọ Dừa như ẩn dụ cho những giới hạn mà con người bị trói buộc: ngoại hình, giai cấp, địa vị. Hai cô chị hắt hủi chàng là tiếng vọng của những bất công cố hữu, còn cô Út là người dám đi ngược lại lề thói, dám tin vào cái thiện trong nội tâm của chàng. Nhờ lòng tin và sự tử tế ấy, Sọ Dừa sẵn sàng hóa thân, sống thật với chính mình, và tình cảm của họ nảy nở từ đó.

Chính chọn lựa ấy đã mở ra mối duyên vợ chồng từ lòng tin và nghị lực của đôi bên. Nhưng hai cô chị, như những cơn sóng dữ của định mệnh, đã nhân lúc Sọ Dừa lên kinh đi sứ, mà đẩy ngã em mình xuống biển. Trôi lạc một mình giữa ngàn khơi, cô Út đã dùng bản lĩnh của mình để vượt qua hiểm nguy và sinh tồn nhờ những đồ mà Sọ Dừa để lại: con dao mổ bụng cá kình, hòn đá đánh lửa, đôi trứng nở thành gà bầu bạn cùng cô giữa đảo hoang. Và rồi một buổi bình minh, con gà đã cất tiếng gáy khải hoàn:

“Ò…ó…o
Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.”
(bản chép Nguyễn Đổng Chi)

Bình minh của cô Út đã đến bằng niềm vui đoàn tụ cùng người chồng đầu ắp tay gối, nhưng hơn hết đó là cả một chiến thắng của một người phụ nữ nhân hậu và thông tuệ. Từ niềm tin chân thành để tự quyết cuộc hôn nhân với Sọ Dừa, cô Út cũng giữ vững lòng tin ấy khi đối mặt hiểm nguy. Sự sinh tồn của nàng, sau tất cả, trở thành hình mẫu cho nghị lực tự thân của người phụ nữ vượt qua mọi nghịch cảnh.

Kết

Truyện cổ tích vốn là chiếc đĩa than ghi lại tất thảy những mong ước của người xưa gửi gắm trong những phép lạ của cõi trần thế. Và trong những giai điệu ngàn năm đó, sự hiện diện của người phụ nữ là tiếng vọng thống thiết nhất của hàng vạn số phận, mong mỏi được thoát khỏi những bất công, khuôn phép đã giam hãm họ trong chiếc lồng son của “tam tòng, tứ đức.”

Những tiếng vọng đó biến những phụ nữ trong truyện cổ tích Việt Nam trở thành những hình bóng mạnh mẽ bằng tất cả nỗ lực tự quyết định, nghị lực sinh tồn, năng lực kiến tạo và tinh thần phản kháng. Dù nằm trong khuôn khổ huyền thoại và dân gian, những Âu Cơ, Tiên Dung, cô Tấm, nàng Út hay hằng hà sa số nhân vật nữ đã gieo vào văn hóa dân tộc hạt mầm của tinh thần bình đẳng và nguồn cảm hứng vượt thời gian về giá trị của phái nữ.

Bài viết liên quan

in Văn Hóa

'Thấy đỏ là thấy Tết' tại Hải Thượng Lãn Ông, phố trang trí sầm uất giữa lòng Chợ Lớn

Dạo một vòng quanh khu vực Sài Gòn - Chợ Lớn, tôi mới nhận ra chẳng ở đâu câu nói “thấy đỏ là thấy Tết” lại đúng như ở phố trang trí Hải Thượng Lãn Ông.

in Văn Hóa

Bên trong miếu Phù Châu, ngôi 'Miếu Nổi' bí ẩn giữa lòng Gò Vấp

Tọa lạc trên một cồn đất nhỏ trên sông Vàm Thuật ở quận Gò Vấp, miếu Phù Châu, hay còn được gọi bằng cái tên thân thương “Miếu Nổi,” đã mở cửa chào đón các đạo hữu trong hơn ba thế kỷ.

in Văn Hóa

Bên trong một trong những 'xóm tiền âm phủ' cuối cùng của Sài Gòn

Dân gian ta có quan niệm “trần sao âm vậy”: người âm cũng cần chi tiêu, sinh hoạt như người dương. Vì thế, thân nhân của người đã khuất thường đốt tiền âm phủ để họ có chút vốn liếng sử dụng ở thế giớ...

in Văn Hóa

Bên trong tháng Ramadan của cộng đồng Hồi giáo Châu Đốc

Cùng lúc Việt Nam bước vào chuỗi ngày lễ quốc gia dài hơi, cộng đồng người Hồi giáo trong nước cũng bắt đầu sự kiện quan trọng nhất năm với mình: tháng Ramadan.

Linh Phạm

in Văn Hóa

Chuyện về danh họa Nguyễn Cát Tường, người thiết kế nên chiếc áo dài đầu tiên của Việt Nam

Điều gì tạo nên danh tính văn hóa của một quốc gia?

in Văn Hóa

Chuyện đời cụ Huỳnh Văn Ba, cha đẻ của đèn lồng gấp gọn Hội An

Ở tuổi 90, cụ ông tóc đã bạc phơ, thế mà khi nói về những chiếc đèn lồng, giọng vẫn hào sảng và mắt sáng rực hy vọng. Nhờ công thức đèn lồng gấp gọn của cụ Huỳnh Văn Ba, món đồ thủ công mang đậm hơi t...