Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Văn Hóa » Bên trong một trong những 'xóm tiền âm phủ' cuối cùng của Sài Gòn

Dân gian ta có quan niệm “trần sao âm vậy”: người âm cũng cần chi tiêu, sinh hoạt như người dương. Vì thế, thân nhân của người đã khuất thường đốt tiền âm phủ để họ có chút vốn liếng sử dụng ở thế giới bên kia.

Trong Việt Nam phong tục, Phan Kế Bính viết rằng tục đốt tiền mã bắt nguồn từ Trung Quốc thời Đường, rồi theo chân cộng đồng người Hoa di cư du nhập vào Việt Nam. Từ đó đến nay, tập tục này xuất hiện phổ biến trong các sinh hoạt tâm linh của người Việt, chủ yếu vào các dịp như cúng giỗ, rằm tháng Bảy, hay tảo mộ.

Từ cuối những năm 1980, khi Việt Nam chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường và nới lỏng các quy định về tín ngưỡng, nhu cầu sử dụng các loại vàng mã mau chóng nở rộ. Nhiều cơ sở được thành lập ở các khu vực như Chợ Lớn để phục vụ nhu cầu tiêu thụ khổng lồ tại các đô thị.

Tuy vậy, trong những năm gần đây, quan điểm xã hội về việc cúng kiếng đã đảo chiều. Người dân có xu hướng cắt giảm các nghi lễ mang tính hình thức, nhiều địa phương cũng chủ trương hạn chế vàng mã để tránh lãng phí. Dù vậy, vẫn có những người thợ chọn tiếp tục công việc, ngay cả khi những niềm tin và phong tục gắn bó với nghề của họ đã và đang dần biến mất.

Nhìn từ ngoài vào, xưởng tiền âm phủ của vợ chồng chú Súng-cô Mì nổi bật với những chồng giấy nguyên liệu cao ngút, xếp chi chít che gần kín cả mặt tiền.

Bên trong, không gian rộng rãi được tận dụng triệt để: máy in, máy cắt kê sát nhau; giấy cuộn và phẩm màu phủ kín các mặt phẳng. Không khí sản xuất diễn rất khẩn trương, gần như chẳng ai ngơi tay.

Xưởng tọa lạc tại một khu dân cư cạnh Kênh Đôi, thuộc địa phận quận 8 cũ, nơi từng có đông đúc người Hoa sinh sống và hành các nghề thủ công như làm nhang, in giấy cúng. Theo lời kể của người lớn tuổi nơi đây, giai đoạn hưng thịnh, gần như tất cả các hộ trong xóm đều tham gia hoạt động sản xuất và phân phối tiền âm phủ. Ngày này, cô chú là một trong những gia đình hiếm hoi còn bám trụ tại đây trong khi đa phần đã chuyển đi nơi khác hoặc ngừng hẳn.

Mỗi ngày, công việc bắt đầu từ tám giờ sáng và kéo dài đến chiều muộn. Giấy nguyên liệu được đặt theo cuộn lớn, chủ yếu là các loại giấy mỏng màu trắng, vàng hoặc đỏ, dễ bắt lửa, cháy sạch và ít để lại tàn tro.

Giấy sau khi xả cuộn sẽ đưa vào máy in để dập họa tiết bằng khuôn đúc sẵn. Trên từng xấp giấy lần lượt hiện ra hoa văn phong thủy như đinh vàng, thiên quan, địa quan, cùng các đoạn Kinh Phật. Mỗi loại tiền đều có quy cách và màu sắc riêng, mang ý nghĩa tâm linh khác nhau, có loại dùng để cầu an, có loại chuyên để cúng tài lộc.

Từ máy in, giấy được chuyển sang bàn cắt, dù có máy móc giúp đỡ nhưng đa phần vẫn làm thủ công. Mỗi xấp giấy được cắt theo khuôn, rồi xếp lại thành từng chồng đều tăm tắp. Mỗi tờ phải ngay ngắn, không xô lệch, để khi bó lại không bị cong mép hay rách cạnh.

Thành phẩm sau đó được buộc thành từng kiện lớn, chuẩn bị chuyển ra chợ đầu mối trong thành phố hoặc đi xa hơn về các tỉnh miền Trung và miền Nam. Những mẫu in dày đặc chữ Hán, thường được gọi là “tiền chuỗi,” xuất hiện nhiều trong các lễ cúng ở Huế, Đà Lạt hoặc Nha Trang. Các tỉnh miền Tây lại ưa chuộng những tờ in đơn giản hơn, ít họa tiết.

Giữa cái nóng oi ả của Sài Gòn, xưởng luôn kín bưng, mùi phẩm màu và giấy mới xộc lên nồng nặc. Dù chỉ là những thao tác đơn giản nhưng vẫn đòi hỏi thể chất bền bỉ cũng như độ tập trung cao. 

Phải thật cẩn thận khi dùng máy cắt, bởi chỉ cần sơ ý một chút là lưỡi dao có thể chém trật, làm hỏng cả xấp giấy hoặc tệ hơn là gây chấn thương nghiêm trọng. Người thợ phải luôn đứng nghiêng người đúng góc, nhấn nhả tay đều nhịp, cứ thế hàng chục lần mỗi ngày. Thợ xếp phải ngồi hàng giờ trong cùng một tư thế gò bó, những chuyển động lặp đi lặp lại khiến cổ tay dễ tê, lưng ê ẩm.

Vất vả là vậy, lại thêm chuyện sức mua cứ giảm dần theo năm tháng, nên nghề in tiền âm phủ chẳng còn nhiều tương lai. “Con nó học công nghệ thông tin, hỏi có chịu làm không thì nó lắc đầu. Nó sinh 2007, thấy màu mè quá là nó sợ rồi,” chú Súng nói nửa đùa nửa thật. 

Chú Súng.

Việc thay đổi tập tục là lẽ tự nhiên trong dòng chảy xã hội, nên khó có thể nói sự mai một của tiền âm phủ là một diễn biến hoàn toàn tốt hay xấu. Dẫu còn nhiều tranh cãi, điều không nên phủ nhận là giá trị tinh thần mà tập quán này mang lại cho những ai mang đức tin, cũng như công sức lao động mà các nghệ nhân dành để duy trì thứ nghề cũ ở chặng đường cuối cùng của nó.

Bài viết liên quan

in Văn Hóa

Bên trong miếu Phù Châu, ngôi 'Miếu Nổi' bí ẩn giữa lòng Gò Vấp

Tọa lạc trên một cồn đất nhỏ trên sông Vàm Thuật ở quận Gò Vấp, miếu Phù Châu, hay còn được gọi bằng cái tên thân thương “Miếu Nổi,” đã mở cửa chào đón các đạo hữu trong hơn ba thế kỷ.

in Văn Hóa

Bên trong tháng Ramadan của cộng đồng Hồi giáo Châu Đốc

Cùng lúc Việt Nam bước vào chuỗi ngày lễ quốc gia dài hơi, cộng đồng người Hồi giáo trong nước cũng bắt đầu sự kiện quan trọng nhất năm với mình: tháng Ramadan.

in Văn Hóa

Di sản trăm năm của làng gốm Bát Tràng giữa thời đại công nghiệp hóa

Làng gốm Bát Tràng mang trong mình di sản hơn 700 năm, nhưng nổi bật hơn cả là những thập niên gần đây, khi sự phát triển của ngôi làng này phản chiếu rõ nét tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế Việt Na...

in Văn Hóa

Gia đình 3 thế hệ giữ hồn nghề làm đầu lân truyền thống xứ Huế

Nằm ở miền Trung, mảnh đất cố đô Huế là cái nôi của nhiều sản phẩm thủ công truyền thống. Ẩn hiện trong từng sản phẩm là những đường nét mộc mạc, thanh thoát mang đậm dấu ấn tâm hồn người nơi đây. Tro...

in Văn Hóa

Giữa lòng Sài Gòn, xóm lồng đèn truyền thống Phú Bình giữ hồn Trung thu Việt

Lồng đèn giấy kiếng, một nét đẹp truyền thống gắn liền với những mùa trăng tròn trong ký ức, vẫn còn được lưu giữ qua bàn tay khéo léo của những người nghệ nhân tại làng nghề lồng đèn Phú Bình nổi tiế...

in Văn Hóa

Khám phá tín ngưỡng thờ cá voi của cư dân làng chài qua Lễ hội Nghinh Ông

Cách phố biển Vũng Tàu sầm uất một đoạn không xa là sự bình đạm của thị trấn-làng chài Phước Hải.