Từ các “bài ca lao động” được phát bởi loa tuyên truyền, đến những nhạc phẩm ướm màu hoài niệm về một thời đã qua, những thanh âm của Hà Nội kể nên câu chuyện về một thành phố chưa bao giờ sống trọn vẹn ở thì hiện tại.
Sau thời gian dài sinh sống ở nước ngoài, tôi mới phần nào thấm thía được tâm trạng của những người đã rời xa Hà Nội vào năm 1954 để vào Nam, hay lớp người lên đường sang Đông Âu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Berlin, Warsaw, Prague, Sofia những năm 1960, khi bom đạn đế quốc tàn phá thủ đô thân yêu. Ở Hà Nội giờ đây, những tòa nhà chọc trời mọc lên như nấm sau cơn mưa, rừng bê tông thay thế cảnh sắc xanh mướt từng bao phủ vùng ven.

Cao ốc phủ kín chân trời Hà Nội. Nguồn ảnh: Wikimedia Commons.
Thế hệ trẻ tiếp nhận những thay đổi này với thái độ tương đối lạc quan. Tôi và nhiều bạn đồng trang lứa không còn thấy lạ lẫm khi bước vào các khu phố trung tâm ở Bắc Mỹ, châu Âu hay Singapore. Ở những thành phố lớn trong nước như Hà Nội, Hải Phòng hay Sài Gòn, các trung tâm thương mại, khu công nghệ cao hay những vùng ngoại ô mở rộng giờ cũng nhộn nhịp chẳng kém gì phương Tây.
“Socialism works, finally!” (Cuối cùng thì chủ nghĩa xã hội cũng thành công rồi!) — tôi vẫn hay nghe các giáo sư cánh tả người Canada lẫn những người Việt ủng hộ chủ nghĩa Mác-Lênin mừng rỡ nói. Có lẽ, niềm hân hoan của họ cũng từng là tâm trạng chung của người dân miền Bắc vào những năm đầu xây dựng xã hội chủ nghĩa (1960–1970), khi chính quyền Hà Nội, nhờ sự hỗ trợ của Liên Xô, đặt nền móng cho những khu nhà tập thể đầu tiên.
Khi âm nhạc tách rời với thực tế
Các khu tập thể tuy còn thô sơ so với các cao ốc sang trọng ở Cầu Giấy ngày nay, nhưng trong bối cảnh đất nước còn bị chia cắt, chúng là biểu tượng của sự phát triển xã hội chủ nghĩa, đại diện cho tầng lớp công nhân Việt Nam kiên cường sinh ra từ ách thực dân Pháp và cuộc đấu tranh giành tự do. Thành tựu đó được ca ngợi qua những bài hát cách mạng vang khắp các ngã tư, góc phố. Trong ca khúc của Phan Huỳnh Điểu, ‘Những ánh sao đêm,’ những ô kính nhà tập thể được ví như những vì sao sáng rọi bầu trời Hà Nội.
Làn gió thơm hương đêm về quanh,
Khu nhà tôi mới cất xong chiều qua,
Tôi đứng trên tầng gác thật cao,
Nhìn ra chân trời xa xa.
Từ bao mái nhà đèn hoa sáng ngời,
Bầu trời thêm vào muôn ngàn sao sáng,
Tôi ngắm bao gia đình lửa ấm tình yêu,
Nghe máu trong tim hòa niềm vui, lâng lâng lời ca.

Nhà tập thể tại Hà Nội được xây dựng theo mô hình khrushchyovka của Liên Xô. Nguồn: Thanh Niên.
Phan Huỳnh Điểu, một trong những gương mặt tiêu biểu nhất của dòng nhạc hiện thực xã hội chủ nghĩa, đã sáng tác ‘Những ánh sao đêm’ vào năm 1962-1963, thời gian ông sinh sống tại khu tập thể của Hội Nhạc sĩ Việt Nam. Con trai ông, nhạc sĩ Phan Hồng Hà, kể lại rằng, từ những lần ông đứng ở tầng cao nhìn về phía khu tập thể Kim Liên đang được thi công, ánh đèn từ công trường đã trở thành nguồn cảm hứng cho ca khúc.
Sinh ra ở Đà Nẵng, hoạt động văn nghệ cách mạng ở Quảng Ngãi rồi tập kết ra Bắc từ năm 1955, Phan Huỳnh Điểu luôn mang trong mình niềm trăn trở về miền Nam. Năm 1964, ông trở lại miền Nam với vai trò cán bộ văn nghệ, dùng âm nhạc để tuyên truyền tinh thần cách mạng. Nỗi niềm ấy được thể hiện trong ca khúc:
Em ơi, anh còn đi xây nhiều nhà khắp nơi,
Nhiều tổ ấm sống vui tình lứa đôi,
Lòng anh những thấy càng thương nhớ em.
Dù xa nhau trọn ngày đêm,
Anh càng yêu em càng hăng say,
Xây thêm nhà cao, cao mãi.
Những bài hát cách mạng vang lên ở mọi ngõ ngách, phủ lên thành phố một thanh âm mới, gột rửa mọi dấu vết của một Hà Nội từng bị coi là “tiểu tư sản.” Trong khi miền Nam còn chưa rõ sẽ đi về đâu, thì ở miền Bắc, lý tưởng cách mạng đã trở thành kim chỉ nam cho cả một thế hệ. Hào khí ấy hiện lên trong ‘Từ một ngã tư đường phố’ của Phạm Tuyên, khi ông viết: “Từ một ngã tư nhỏ bé đã thấy tương lai đang về/Trong mỗi dáng người ngẩng đầu cao bước nhanh đi trên hè.”

Đường phố Hà Nội năm 1973. Nguồn ảnh: Bcdcnt.net
Qua ‘Từ một ngã tư đường phố’ (1971), Phạm Tuyên không chỉ vẽ nên bức tranh về đời sống thành thị miền Bắc thời chiến. Giống như một nhạc trưởng tài ba, ông dùng âm nhạc để thúc giục tuổi trẻ hành động, vượt lên trên tiến trình tự nhiên của lịch sử:
Xây cuộc sống mới toàn dân gái trai vững vàng,
Nhịp đời cuộn nhanh nhanh như vượt trước bao thời gian.
Đường phố của ta vẫn đang còn hẹp,
Nhường bước thúc nhau đích xa cũng gần,
Tự hào đi trong tiếng kèn tiến quân vang ngân.
Nếu Phan Huỳnh Điểu mơ về một tương lai đang được dựng xây từng ngày, thì Phạm Tuyên lại kêu gọi thế hệ thanh niên bứt phá khỏi hiện tại. Những cây viết cách mạng mang trong mình một khát vọng về ngày mai, họ xem bản thân là người mở đường cho một thời đại mới.
‘Bài ca xây dựng’ của Hoàng Vân chính là khúc ca tiêu biểu cho niềm tin ấy — niềm tin về một tương lai không chỉ “sẽ đến” mà “phải đến” — trên mảnh đất Việt Nam, Trung Quốc và cả Đông Âu. Bài hát đã truyền tải cảm xúc háo hức, tràn trề hy vọng của những cư dân vừa dọn vào các khu tập thể. Trong mắt Hoàng Vân, đó là những công trình đại diện cho một đời sống đô thị mới, là nền tảng cho một tầng lớp thị dân văn minh, tiến bộ hơn. Đời sống ấy không chỉ dành riêng cho cư dân miền Bắc, mà sẽ vượt biên giới, lan tỏa theo từng bước chân của giai cấp công nhân trên con đường lịch sử: “Ngày mai chúng ta lại lên đường đến những chân trời mới,” Hoàng Vân tự hào viết. “Niềm vui của đôi ta [...] chan hòa trong niềm vui chung như nước sông ra biển lớn.”
Ca khúc được viết năm 1973, trong bối cảnh miền Bắc gần như cầm chắc thắng lợi khi quân Mỹ dần rút khỏi miền Nam. Trong suốt bài hát, chiến tranh chỉ được nhắc đến một lần là “trong khói bom” và được tiếp nối bởi hình ảnh nên thơ hơn, “dưới ánh trăng.”
Công chúng đón nhận ca khúc nồng nhiệt đến mức sau ngày thống nhất, bài hát liên tục được biểu diễn bởi những giọng ca tiêu biểu của dòng nhạc cách mạng như Ái Vân, trên khắp các sân khấu ở các nước Đông Âu, ngay trước thời điểm khối Liên Xô bắt đầu rạn nứt.
Ca sĩ Ái Vân biểu diễn ‘Bài ca xây dựng’ tại Đông Đức năm 1981.
Dù khơi dậy khí thế và truyền cảm hứng cho biết bao người, những bài ca xây dựng lạc quan ấy lại thường xa rời thực tế. Nếu như ca từ vẽ nên một bầu không khí tích cực, thì ngoài kia, bom đạn Mỹ vẫn trút xuống. Người thành thị phải dắt díu nhau tản cư về quê, thiếu thốn chồng chất, nhà máy đình trệ còn hành chính thì bế tắc. Nhiều công trình chưa kịp đưa vào sử dụng đã xuống cấp, hoặc nằm đó dở dang, bỏ hoang chẳng biết ngày hoàn thiện. Giấc mơ xã hội chủ nghĩa khi ấy chỉ mới tồn tại trong tâm trí chứ chưa kịp bén rễ ngoài thực tại. Trong hoàn cảnh đó, âm nhạc trở thành điểm tựa tinh thần của người dân, đặc biệt là người dân thủ đô, giúp họ níu giữ lấy giấc mơ chỉ đang chực chờ vỡ vụn.
Nỗi hoài niệm về một thành phố không còn tồn tại
Bước sang thập niên 1980, không khí lạc quan của những năm sau thống nhất dần tan biến. Chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô bắt đầu sụp đổ trên diện rộng, còn Việt Nam cũng bước vào thời kỳ cải tổ kinh tế (Đổi mới) với Đại hội VI năm 1986. Cũng từ đó, dòng nhạc cổ động không còn thịnh hành, mà nhường chỗ cho những giai điệu lắng đọng hơn, chất chứa sự luyến tiếc về một Hà Nội đang dần mất đi dáng vẻ quen thuộc. Một trong những ca khúc tiêu biểu nhất cho xu hướng này là ‘Em ơi Hà Nội phố’ của Phú Quang, phổ từ bài thơ cùng tên của Phan Vũ.
Điều đặc biệt là, tác phẩm gốc được viết vào tháng 12/1972, ở đỉnh điểm chiến dịch “Điện Biên Phủ trên không,” khi đế quốc Mỹ rải bom xuống Hà Nội nhằm ép miền Bắc đình chiến. Mang sắc thái u sầu, cô quạnh, bài thơ không được Phan Vũ công bố rộng rãi mà chỉ chia sẻ với bạn bè thân thiết. Mãi đến năm 1987, khi Phan Vũ đã về Sài Gòn sinh sống, ông mới có dịp đọc toàn bộ bản trường ca cho nhạc sĩ Phú Quang nghe. Quá xúc động, Phú Quang đã chắt lọc 21 câu từ bản gốc dài tới 443 câu để sáng tác nên nhạc khúc bất hủ.

Phố Khâm Thiên sau khi hứng chịu một đợt rải bom. Nguồn ảnh: Vietnam News International.
‘Em ơi Hà Nội phố’ không tung hô tinh thần cách mạng, mà hoài niệm về một Hà Nội xưa cũ, về những biểu tượng từng bị xem là “tiểu tư sản” trước thời kỳ Đổi mới:
Ta còn em cây bàng mồ côi mùa đông.
Ta còn em, nóc phố mồ côi mùa đông, mảnh trăng mồ côi mùa đông.
Mùa đông năm ấy, tiếng dương cầm trong căn nhà đổ,
tan lễ chiều sao còn vọng tiếng chuông ngân
Kiệt tác u sầu của Phú Quang đã khơi mào cho một nguồn cảm hứng mới trong các tác phẩm về Hà Nội, như ‘Hà Nội mùa vắng những cơn mưa’ của Cẩm Vân và ‘Hà Nội ngày ấy’ của Trần Tiến.
Thay vì thúc đẩy lý tưởng xã hội chủ nghĩa, những ca khúc này thường thương xót những giá trị lâu đời hơn, như kiến trúc đô thị thời Pháp thuộc (đặc biệt là những hàng cổ thụ được trồng trong giai đoạn này), văn học dân gian (như truyền thuyết hồ Gươm), những thói sinh hoạt truyền thống của người Hà Nội bị bỏ quên trong những năm tháng tái thiết đất nước. Chỉ cần nghe những câu hát sau đây trong ‘Hà Nội ngày ấy' của Trần Tiến là ta có thể cảm nhận được:
Hà Nội giờ đã khác xưa
Kiếm thiêng vua hiền đã trả
Bạn bè giờ đã cách xa
Ngỡ như Hà Nội của ai?

Hà Nội được miêu tả trong những khúc ca hoài niệm mang dáng dấp của Hà Nội các bức tranh của Bùi Xuân Phái. Nguồn ảnh: Kiệt Tác Nghệ Thuật.
Trần Tiến không ca ngợi công cuộc hiện đại hóa sau Đổi mới, cũng chẳng mặn mà với viễn cảnh đất nước mở cửa ra thế giới. Ông nuối tiếc một Hà Nội từ trước những năm tháng kháng chiến, nơi từng là cái nôi văn hóa của cả nước, gắn liền với một tầng lớp trí thức đã dìu dắt thành phố qua cả thời kỳ thuộc địa lẫn cách mạng. Bất kể lập trường chính trị, họ đều nỗ lực gìn giữ bản sắc thủ đô, thứ giờ đây đang bị cuốn trôi bởi làn sóng cải tạo, chỉnh trang vô hồn của thời kỳ hậu Đổi mới.
Trong những ca khúc của Phú Quang, Cẩm Vân và Trần Tiến, cảm giác tiếc nuối về Hà Nội xưa không chỉ bắt nguồn từ chuyện thành phố chuyển mình quá nhanh.
Chúng là lời hồi đáp cho một niềm tin bất thành, niềm tin rằng sau chiến tranh gian khổ, cuộc sống sẽ sớm tốt đẹp, đủ đầy hơn. Niềm tin ấy hiện diện trong âm nhạc, trong tâm trí người dân, trong khi ngoài đời, điều kiện sống chưa mấy cải thiện. Hà Nội khi ấy được hoạch định cho tương lai, nhưng những gì người dân thực sự trải nghiệm lại gắn liền với quá khứ. Họ phải sống giữa tàn tích và chính sách cải cách thất bại, nhưng lúc nào cũng được dặn dò phải lạc quan và hướng đến ngày mai. Họ chưa bao giờ thực sự được sống trọn vẹn với hiện tại.
Nỗi hoài niệm về tương lai?
Giờ đây, khi thành phố đã hiện đại hơn, nhiều biểu tượng xã hội chủ nghĩa như nhà tập thể bị dỡ bỏ, các thế hệ tương lai của Hà Nội sẽ nhớ gì và hoài niệm về điều gì?
Chỉ mới thập niên 2010, không ít người vẫn hay nhắc đến “thời bao cấp thương nhớ,” khi đời sống của người dân còn hết sức giản dị, còn bị chi phối mạnh mẽ bởi đường lối xã hội chủ nghĩa. Thế nhưng giờ đây, lối sống sung túc, năng động lại trở thành xu thế chung.
Có lẽ Hà Nội luôn vận hành theo một nghịch lý: chúng ta sống trong một thế giới tương lai mà những người đi trước đều mong ước, Nhưng lại hoài niệm về một quãng đời chưa từng là của mình. Những nhà cách mạng của thập niên 1960–1970 từng gửi gắm khát vọng về một ngày mai tươi sáng, ươm giấc mơ bằng lời ca trong lúc bom Mỹ ngày ngày dội xuống phố phường. Con cái họ lớn lên với nỗi nhớ về một thời kỳ mà chính cha mẹ mình, ở thời thời điểm ấy, còn không được phép bày tỏ nỗi tiếc thương.
Và giờ đây, khi chung cư cao cấp dần thay thế các khu tập thể, trung tâm thương mại san bằng những khu chợ thời bao cấp, chúng ta lại mải miết theo đuổi một giấc mơ mà thế hệ tương lai, ngày nào đó, rồi sẽ ngoái nhìn với sự tiếc nuối.

Quảng trường Đông Kinh Nghĩa Thục, năm 1973. Nguồn ảnh: Vietnam News Agency.
Mỗi thế hệ đều tin rằng xã hội mà mình đang sống sẽ là phiên bản tối thượng, phiên bản hoàn thiện nhất, nơi mọi giấc mơ trước đó cuối cùng cũng thành hiện thực. Những nhà cách mạng năm 1954 tin rằng các khu nhà tập thể sẽ mở ra kỷ nguyên của xã hội chủ nghĩa. Những nghệ sĩ của thập niên niên 1980 thì tin rằng họ đang gìn giữ “hồn phố” Hà Nội. Còn các nhà phát triển bất động sản và tầng lớp cư dân trẻ ngày nay thì tin rằng mình đang xây dựng một thành phố sẽ phồn vinh, bền vững hơn tất cả những gì tồn tại trước đây.
Nhưng rồi vòng quay lịch sử sẽ lại xoay vần. Hà Nội sẽ không ngừng đổi thay, và mỗi thay đổi đều mang theo mình bao hy vọng lẫn mất mát.








