Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Màn Ảnh » Review: 'Quán Kỳ Nam,' chuyện tình duy mỹ, từ tốn, nhưng lưu luyến mãi không quên

Với mạch phim nhẩn nha, bình thản, Quán Kỳ Nam chắc sẽ không cuốn hút được lớp khán giả thích sôi động, không đủ kiên nhẫn ngồi nhấp trà nhắm bánh chờ hoa quỳnh nở trong đêm. Tuy vậy, những ai dành được thời gian ngồi lại đến hết phim sẽ nhận lại được vẻ đẹp nồng nàn, vương vấn mãi dù cánh hoa đã lụi tàn.

Đội ngũ Saigoneer đã đăng kha khá các bộ hình xưa về Việt Nam và Sài Gòn qua các giai đoạn lịch sử, với tác giả đến từ trong và ngoài nước, nhưng trong tôi, những thước ảnh của nhiếp ảnh gia người Nhật Doi Kuro vẫn để lại ấn tượng mạnh mẽ nhất. Trong thập niên 90, ông thăm Việt Nam lần đầu tiên và đã mang theo máy ảnh film của mình qua nhiều địa điểm du lịch khắp nước ta như Sài Gòn, Hội An, Đà Lạt. Những bức ảnh Việt Nam của Doi vừa tươi sáng, đẹp bố cục, lại vừa chân phương, không chút câu nệ — những điều tôi trân quý nhất về đường phố Việt Nam.

Ký ức thập niên 80 sống lại trong từng khuôn hình

Ngồi xem Quán Kỳ Nam trong rạp, tôi không khỏi cảm thấy nhưng mình đang lật giở từng tờ album cũ in giấy bóng những phô hình của Doi Kuro, thấy từng nhân vật trên giấy nhúc nhích rồi bước lên khung hình. Đây là tác phẩm thứ hai của đạo diễn Leon Quang Lê sau Song Lang (2018), dựa trên kịch bản Leon chấp bút cùng nhà văn Nguyễn Thị Minh Ngọc. Trong phim, khán giả theo chân Khang (Liên Bỉnh Phát), dịch giả trẻ gốc Đà Lạt chuyển đến một chung cư cũ ở Sài Gòn sau giải phóng trong khi biên dịch ấn bản mới của tác phẩm Hoàng tử bé. Nhịp sống đơn điệu của Khang bắt đầu thay đổi sau khi anh có dịp va chạm với những cư dân chung cư, nhất là Kỳ Nam (Đỗ Thị Hải Yến), một người phụ nữ bí ẩn với ánh mắt đầy tự sự, chủ quán cơm tháng Quán Kỳ Nam.

Poster phim.

Trong một thập niên trở lại đây, điện ảnh Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc trong kỹ thuật hình ảnh, hậu kỳ, và thiết kế mỹ thuật. Tuy nhiên, vấn đề cố hữu khiến nhiều bộ phim “dậm chân tại chỗ” vẫn là kịch bản yếu. May mắn thay, Quán Kỳ Nam là minh chứng cho một tín hiệu đáng mừng rằng đạt được cả hai yếu tố không phải là không thể. Cốt truyện không quá ôm đồm kịch tính, mà chủ yếu dành thời gian chăm chút cho các tương tác và mối quan hệ giữa những cư dân chung cư. Nhờ vậy, dẫu mạch phim Quán Kỳ Nam chẳng có chút gay cấn nào, mỗi giây phút phim, từ góc máy, thoại, cho đến âm nhạc, đều được mài giũa một cách có chủ đích và tinh tế.

Những hình ảnh hoài cổ như khuôn rau câu hình trái cây đủ màu sẽ đem lại cảm thấy quen thuộc cho bất kì ai đã trải qua thập niên 1980, 1990 ở Sài Gòn.

Dụng ý rõ ràng trong thước phim Quán Kỳ Nam đến từ cách phim tập trung khắc họa một Sài Gòn không chỉ là bối cảnh tĩnh để các diễn viên diễn như sân khấu kịch, mà như một thực thể đầy sức sống, có cá tính, thói quen, sinh hoạt riêng ngoài cốt truyện. Mỗi lần ống kính lia qua thế giới trên phim, người xem lại bắt gặp một chi tiết gì đó thú vị: như quầy cà phê gầm cầu thang bán cà phê đen trong bịch, cổng chào đám cưới bằng lá dừa, hay cái cách người đi coi xi-nê la ó khi phim đang hay thì cắt ngang vì… nửa còn lại chưa về kịp. Theo ý kiến chủ quan của tôi, phiên bản Sài Gòn trong Quán Kỳ Nam là một trong những bản thể điện ảnh được phục dựng chi tiết, sát sườn nhất trong dòng phim hoài cổ gần đây.

Nội thất căn chung cư của Luyến (trái) và ông Hạo (phải).

Phim có nôm na hơn chục nhân vật khác nhau, nhưng không ai cho người xem cảm giác thừa thãi hay mờ nhạt; mỗi phận đời, mỗi gia đình được nhào nặn với thế giới quan, xuất thân, và tánh tình riêng, dễ dàng đi vào lòng khán giả một cách duyên dáng. Đặc biệt, ba nhân vật phụ gây được ấn tượng mạnh nhất là Luyến (Ngô Hồng Ngọc), cô thợ may ráp lúng liếng, đáo để người Bắc vào Sài Gòn sống cùng em trai; Su (Trần Thế Mạnh), em thiếu niên lai Mỹ hay phụ Kỳ Nam giao cơm, hay bị đám trẻ chung cư bắt nạt vì là con rơi; và ông Hạo (Lê Văn Thân), lương y người gốc Hoa hòa nhã, yêu chim kiểng và nhạc Vàng (dù chỉ nghe vụng trộm).

Bà Bằng (trái) và Su (phải) là hai trong nhiều cư dân chung cư đầy cá tính.

Một điều tôi rất trân trọng là cách Leon và cô Ngọc đưa phương ngữ vùng miền vào thoại rất tự nhiên. Mỗi nhân vật, dù xuất thân miền Bắc hay Nam, đều nói năng mượt mà, ít bị sượng vì ngôn từ quá sân khấu hay văn vẻ. Cách bà Bằng thu hụi hay cách cô Luyến buôn dưa lê rất chân thật, tưởng như cuộc hội thoại nào đó ta có thể nghe lén được ở Chợ Lớn. Vì Quán Kỳ Nam là một bộ phim đầy dụng ý, các nhân vật đều được xây dựng theo khuôn mẫu, có vai trò nhất định. Tuy nhiên, nhờ tạo hình và diễn xuất tốt, mỗi người đều đóng góp không nhỏ trong cách phim kiến tạo nên một “sa bàn” Sài Gòn xưa sinh động nhiều lúc còn hơn cả cặp diễn viên chính.

Mối lương duyên "hoài cổ" đầy lưu luyến, nhung nhớ cả đời

Quán Kỳ Nam, về cốt lõi, là một chuyện tình, và người xem sẽ được dẫn dắt từ lúc nó chớm nở, ngỡ như thăng hoa, rồi, để lại nốt lặng trong lòng cả khán giả lẫn đương sự. Khang và Kỳ Nam đều là người ngay thẳng, tính tình khá thuần, và được khắc họa bởi hai diễn viên thực lực, nhưng tôi cũng phải thừa nhận rằng xem họ yêu nhau khá chán. Vai diễn Kỳ Nam đánh dấu sự trở lại sau 10 năm của Đỗ Thị Hải Yến, minh chứng cho phong độ vững vàng của Yến, đặc biệt là cách đôi mắt chị có thể trần thuật cả “bầu trời thương nhớ” chỉ với một ánh nhìn. Nếu xem thoáng qua, Kỳ Nam có vẻ chỉ u uất và khép mình một cách đơn điệu, nhưng dần dần, mạch phim bắt đầu bóc tách từng lớp lang truân chuyên đằng sau người phụ nữ ấy, và người xem sẽ đồng cảm hơn với số phận của cô.

Đỗ Thị Hải Yến vào vai người góa phụ có quá khứ đầy bi kịch.

Liên Bỉnh Phát vào vai Khang, chàng trai Đà Lạt chừng mực, thư sinh, tạm ổn, dù tạo hình dịch giả mọt sách thập niên 80 hơi khó tin đối với thể hình của Phát — nếu gõ chữ thôi mà có cơ tay to thế thì chắc tôi nên dẹp laptop sang một bên ngay tắp lự. Thẳng thắn mà nói, Khang là nhân vật được xây dựng "nông" nhất Quán Kỳ Nam, nên cũng khó trách Liên Bỉnh Phát được, anh đã diễn tốt nhất trong khả năng. Ngoài tình yêu thơ văn và lòng quả cảm gần như không đáy, Khang hơi một màu khi đặt trong tổng thể chung cư toàn những cá tính rất có hồn. Tuy nhiên, một điểm sáng trong cuộc đời Khang là tuyến tương tác với Su; dần dà, Khang xóa nhòa được vỏ bọc gai góc của cậu bé, trở thành người anh, người bảo trợ, người bạn của em để giúp đỡ Su trên con đường của mình. Tình bạn giữa Khang và Su rất đẹp, ấm áp mỗi khi xuất hiện trên phim.

Thậm chí trong lúc gõ những con chữ này, tôi vẫn không quyết định được “phản ứng hóa học” có phần ảm đạm giữa Khang và Kỳ Nam là điểm yếu hay chủ đích của phim. Một mặt, họ không có nhiều cơ hội để thể hiện tình cảm vì, đặt trong bối cảnh Việt Nam những năm 1980, mối quan hệ giữa Khang và Kỳ Nam trái ngang đủ đường, vì nhiều cấm kỵ từ chính trị đến xã hội: Khang xuất thân từ gia đình truyền thống cách mạng, còn Kỳ Nam lại là vợ góa của sĩ quan chế độ cũ; Khang là “trai tân,” còn trong mắt xã hội thời ấy, Kỳ Nam đã “một lần đò”; chưa kể khoảng cách tuổi tác khá lớn giữa hai người.

Sau khi Kỳ Nam bị chấn thương tay, Khang nhất quyết đòi giúp cô nấu cơm, hoàn cảnh phù hợp để kéo họ đến gần nhau hơn.

Mặt khác, tuy gặp nhau giữa tầng tầng lớp lớp rào cản, họ lại tìm được kết nối sâu sắc cả về mặt trí tuệ, về cách đối nhân xử thế và triết lý sống. Kỳ Nam, cũng từng học trường Tây, hiểu và trân trọng ngay được công việc dịch sách tiếng Pháp Khang đang làm; Khang, ngược lại, cũng đồng cảm được ngay khi Kỳ Nam trích dẫn sách Albert Camus. Trong nhân sinh quan của Khang, lòng thấu cảm và sự tử tế là hai đức tính trọng yếu, hai đức tính mà Kỳ Nam cũng thể hiện ngầm qua cách cô thương cảm mấy con chuột bếp bị bẫy trong chiến dịch loại trừ mầm bệnh của chung cư. Ngoài ra, Kỳ Nam, Khang và Su cũng vô tình tìm được giữa họ một tình cảm gia đình rất tự nhiên, không vụ lợi — và chúng ta được dịp mơ tưởng về một tương lai song song trong đó cả hai được sống trong một “ngôi nhà và những đứa trẻ.”

Vì vậy, tôi cảm thấy hơi thất vọng vì Khang và Kỳ Nam gần như không thể hiện được xúc tác lãng mạn như cách họ kết nối về mặt trí tuệ. Đây đó cũng có vài ánh mắt chạm nhau, những câu hỏi bỏ lửng, hay thậm chí một đêm hẹn hò không-đụng-chạm, nhưng tựu trung, Khang và Kỳ Nam vẫn giữ kẽ và khách sáo thậm chí ngay lúc chỉ có hai người. Sự ngại ngùng này được đẩy lên cao trào bằng một nụ hôn phớt nhẹ trong phòng kín nhà Kỳ Nam — tôi xem mà có cảm giác ái ngại như đang xem cô chú mình hôn nhau.

Cách Khang và Kỳ Nam thể hiện tình cảm có hơi dè chừng nếu đặt trong bối cảnh hiện tại, nhưng lại phù hợp hơn với các cặp đôi ở các thập kỉ trước.

Nói đi cũng phải nói lại, khi xem mối lương duyên của Khang và Kỳ Nam chớm nở trên màn ảnh, tôi lại liên tưởng nhiều đến cách thế hệ ba mẹ tôi đến với nhau, cái thời mà chỉ cuốc xe đạp chung hay ly chè ăn vội giờ tan trường cũng đủ “tình” để khiến con người ta viết thư tay cho nhau dưới làn bom đạn chiến tranh và đủ nhung nhớ để day dứt cả phần đời còn lại. Những mảnh tình trong âm nhạc và văn chương, như Hiền và Vọi trong tiểu thuyết Trống Mái (Khái Hưng) hay xấp thư Trịnh Công Sơn gửi Dao Ánh. Nhiều lúc tôi tự hỏi phải chăng chính tôi đã bị thái độ vô tư và phóng túng trong tình cảm của thế hệ mình làm cho chai sạn, đến mức tôi cho rằng kết nối tâm hồn sâu sắc của Khang và Kỳ Nam là “ảm đạm.” Nói cho cùng, người xem có thể tự tìm câu trả lời cho mình liệu họ có đồng cảm hay vô cảm trước mối tình này không bằng cách ra rạp — nếu kịp, trước khi phim phải rời rạp vì tình trạng ế ẩm.

Một tác phẩm kinh điển của điện ảnh đương đại Việt Nam

Quán Kỳ Nam có cốt truyện chính rất đơn giản, dễ xem với đa phần bộ phận người xem, nhưng về tổng thể, đây không phải là bộ phim cho tất cả mọi khán giả. Suy ngẫm, hoài niệm, bần thần đều không phải là những tính chất nhiều người kiếm tìm khi bước vào rạp. Người ta thường muốn giải trí cho khuây khỏa, không phải suy nghĩ nhiều. Đương nhiên, đây là một mục đích hoàn toàn chính đáng, nhưng cũng chính là lý do Quán Kỳ Nam kén khán giả. Dẫu vậy, với những ai đã từng sống qua thời Sài Gòn năm 80 đầy khó khăn, Quán Kỳ Nam là lời tri ân chân thành đến một thời đáng nhớ trong đời chúng ta, mà có lẽ ta không hẳn muốn trải qua lại, nhưng vẫn thi thoảng nhớ về. Ngoài ra, tôi nghĩ người xem chắc chắn sẽ hiểu được bộ phim tường tận hơn nếu có chút kiến thức về lịch sử thành phố, để bóc tách những chi tiết ý nhị đằng sau những tương tác và cảm xúc của các nhân vật: như vì sao Su lại bị bắt nạt vì là con lai; vì sao gia đình Kỳ Nam tan đàn xẻ nghé và bị xì xào sau lưng; và cả những điều thú vị đằng sau tạo hình cư dân chung cư.

Mỗi cảnh trong phim đều được tái tạo rất chi tiết.

Cuối cùng, tôi nghĩ rằng, để “cảm” được Quán Kỳ Nam, ta phải cảm thấy an yên với sự chậm rãi trong đời vì bộ phim không ngại tôn vinh, đền đáp lòng kiên trì. Ngay trong cốt lõi câu chuyện là một chuyện tình từ tốn “lửa gần rơm lâu ngày cũng bén,” và phim cũng thể hiện rất nhiều hoạt động không thể gấp gáp mà thành, như dịch một cuốn tiểu thuyết, làm chà bông, và ngồi chờ hoa quỳnh nở về đêm.

Có lẽ Quán Kỳ Nam sẽ không trụ lâu được ở rạp, nhưng thú thật, tôi không cảm thấy quá buồn, vì tôi có lòng tin rằng theo thời gian, bộ phim sẽ tìm được lớp khán giả đồng điệu cho mình qua những nền tảng khác, không phải dưới cương vị là một phim chiếu rạp, mà là một tác phẩm kinh điển có thể xem đi xem lại, giới thiệu cho bạn bè nước ngoài. Tuy Sài Gòn và cả đời sống của chúng ta đã trải qua bao nhiêu đổi thay qua mỗi thập kỷ, những hình ảnh , sự vật, con người trong ký ức sẽ vẫn tồn tại, như cách ta vẫn nhớ về họ với tình cảm vẹn nguyên.

Ảnh: Trang Facebook Quán Kỳ Nam.

Bài viết liên quan

Khôi Phạm

in Màn Ảnh

Review: Nước mắt sau lớp hóa trang tuồng cổ trong 'Đoạn Trường Vinh Hoa'

Phim kết thúc, đâu đó trong phòng chiếu vang lên những tiếng thổn thức nhè nhẹ. Mắt còn ngân ngấn nước, chắc hẳn nhiều khán giả tới thưởng thức bộ phim ngày hôm ấy vẫn không khỏi ngạc nhiên rằng một b...

in Màn Ảnh

'Bên Trong Vỏ Kén Vàng': Suy niệm về đức tin trên hành trình 'tìm hồn' giữa xứ sương mù

Song hành trong giới điện ảnh chiêm nghiệm với những cái tên như Andrei Tarkovsky, Thái Minh Lượng và Theo Angelopoulos, Phạm Thiên Ân và cuốn phim đầu tay của anh, Bên Trong Vỏ Kén Vàng (tựa tiếng An...

in Âm Nhạc & Nghệ Thuật

Bóng Bay Đỏ: Làm mới hoạt hình tuổi thơ bằng âm nhạc hiện đại

18h30 ngày 5/7 tại Trung tâm Văn hóa Pháp tại Hà Nội – L’Espace, tôi được may mắn tham dự sự kiện Bóng Bay Đỏ: Âm nhạc cho Hoạt hình Việt Nam thế kỷ 20, do The Onion Cellar và Trung tâm TPD tổ chức, t...

in Văn Hóa Ẩm Thực

Câu chuyện đằng sau quán nhỏ trên chung cư của Culinary Frank

“Mỗi quán ăn đều là một xã hội thu nhỏ,” anh Phương Phạm (Frank Phạm) nói vậy khi tôi hỏi về ý nghĩa của tên nhà hàng của mình. Phương là cái tên đằng sau kênh YouTube ẩm thực Culinary Frank và những ...

in Dishcovery

Có gì đặc biệt đằng sau tô cơm xá xíu 'không truyền thống' của Culinary Frank?

Với ảnh hưởng của văn hóa miền Nam Trung Quốc, món cơm xá xíu của Society Cafe & Dining bao gồm các lát thịt heo cắt mỏng, cải luộc, đồ chua, cơm trắng, và một quả trứng chần kiểu onsen. Tảng thịt xá ...

in Màn Ảnh

Hành trình vực dậy tình yêu điện ảnh của đạo diễn trẻ Lê Lâm Viên

Năm 12 tuổi, Lê Lâm Viên lần đầu tiên được trải nghiệm cảm giác xem phim tại rạp chiếu bóng. Ngay lập tức, cậu bé thấy mình như được “dịch chuyển” đến một chiều không gian khác — một thế giới mà kể từ...