"Nghiêm! Chào cờ! Chào!” Tiếng Quốc ca vang lên giữa sân trường dìu dịu nắng mai, nơi lá cờ đỏ sao vàng tung bay rực rỡ. Khoảnh khắc ấy, giản dị mà đẹp đến nao lòng. Và chính từ những sáng thứ Hai như thế, tình yêu với lá cờ Tổ quốc đã âm thầm lớn lên trong tôi.
Vào mỗi dịp lễ lớn, nội tôi vẫn thường dậy thật sớm để chuẩn bị treo cờ trước sân nhà. Ngày thường nhật, nội cất giữ lá cờ như vật báu, xếp ngay ngắn, đặt trang trọng trên gian thờ cạnh ảnh Bác. Không ai nói ra, nhưng tôi biết lá cờ ấy đại diện cho mảnh ký ức hay niềm tin bền bỉ nào đó mà nội đã mang theo suốt cả cuộc đời.
Lá cờ đỏ sao vàng trong những ngày lễ trọng đại của đất nước. Ảnh: Mạnh Quân qua Dân Trí.
Những ngày ngồi trước bục giảng, tôi lật giở từng trang ký ức, nơi lịch sử bi tráng còn rõ ràng trong từng câu chữ, thước phim mà lòng rung lên xúc động. Có nhiều giả thuyết xoay quanh tác giả thực sự của lá cờ đỏ sao vàng, trong đó nhân vật được nhắc đến nhiều là đồng chí Nguyễn Hữu Tiến. Tương truyền, để chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, ông cùng các đồng đội trong Xứ ủy đã nhận nhiệm vụ thiết kế lá cờ dùng làm biểu trưng cho phong trào.
Tình cảm và tâm huyết dành cho lá cờ Tổ quốc được Nguyễn Hữu Tiến thể hiện qua bài thơ ‘Lá cờ sao vàng,’ từng được in cùng hình lá cờ trên trang nhất báo Tiến Lên:
Hỡi những ai máu đỏ da vàng
Hãy chiến đấu dưới cờ thiêng Tổ quốc
Nền cờ thắm máu đào vì nước
Sao vàng tươi da của giống nòi
Đứng lên mau! Hồn nước gọi ta rồi
Tuy nhiên, về sau, một số nhà nghiên cứu sử học đã đặt lại vấn đề và cho rằng đồng chí Lê Quang Sô mới là người thiết kế lá cờ. Theo hướng tiếp cận này, ông Sô, vốn là một cán bộ hoạt động ở Mỹ Tho, đã phác thảo mẫu cờ trong quá trình chuẩn bị khởi nghĩa, dựa trên hình ảnh biểu trưng của giai cấp công nông.
Dù còn nhiều ý kiến khác nhau, điểm chung được thừa nhận là lá cờ đỏ sao vàng ra đời trong bối cảnh phong trào cách mạng sôi động đầu thập niên 1940, là kết quả của quá trình hoạt động cách mạng có tổ chức, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Xứ ủy Nam Kỳ, nhằm thống nhất tinh thần chiến đấu và lý tưởng của toàn dân.
Sáng sớm ngày 19/8/1945, cả Hà Nội rực cờ đỏ sao vàng. Nguồn ảnh: Báo Lao Động.
Theo lời kể của Đại tướng Võ Nguyên Giáp, hiệu kỳ này sau đó lần đầu được Bác Hồ sử dụng tại lớp học “Con đường giải phóng” huấn luyện cán bộ chuẩn bị thành lập mặt trận đại đoàn kết dân tộc. Cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám lan nhanh ra cả nước dưới ngọn cờ đỏ sao vàng tung bay phấp phới khắp nơi. Từ thành thị đến nông thôn, từ núi cao cho đến biển xa, sóng cờ cứ thế trào dâng mạnh mẽ.
Nhà thơ Xuân Diệu, trong thời khắc chuyển mình ấy của dân tộc, đã viết nên ‘Ngọn Quốc kỳ’:
Gió bay đi, mà nhạc cũng bay theo
Đưa tin mới khắp trên trời nước Việt
Hoa cỏ đón, mà núi sông cũng biết,
Cờ Việt Nam oanh liệt gió mừng bay!
Vàng huy hoàng sinh giữa thắm hây hây.
Thắm lộng lẫy nở quanh vàng rực rỡ;
Tất cả vải là một cười thắm đỏ!
Tất cả cờ là một tiệc triêu dương!
Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, lá cờ đỏ sao vàng lần đầu tiên chính thức xuất hiện trong buổi lễ trọng đại ngày 2/9/1945, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình. Chỉ ba ngày sau, ngày 5/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 5-SL, chính thức bãi bỏ cờ quẻ Ly và ấn định Quốc kỳ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là cờ đỏ sao vàng.
“Lá cờ đỏ sao vàng đã thấm máu đồng bào ta trong Nam Kỳ khởi nghĩa 1940. Chính lá cờ này đã cùng phái đoàn Chính phủ đi từ châu Á sang châu Âu, từ châu Âu về châu Á; cờ đã có mặt trên khắp đất nước Việt Nam. Vậy thì trừ 25 triệu đồng bào, còn không ai có quyền thay đổi Quốc kỳ và Quốc ca,” Chủ tịch Hồ Chí Minh phát biểu trong cuộc họp Quốc hội khóa I.
Tuyên ngôn ấy về lá cờ được tiếp tục ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, thông qua ngày 9/11/1946, với định nghĩa ngắn gọn: “Cờ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nền đỏ, giữa có sao vàng năm cánh.”
Sắc lệnh số 5-SL. Nguồn ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.
Gần ba thập kỷ sau, vào năm 1976, sau khi đất nước giành được độc lập và thống nhất, Quốc hội đã chính thức công nhận lá cờ đỏ sao vàng là Quốc kỳ của Việt Nam thống nhất, với một vài thay đổi nhỏ so với mẫu nguyên thủy năm 1940. Kể từ đó, lá cờ này trở thành biểu tượng chính thức đại diện cho quốc gia, gắn bó mật thiết với lịch sử hiện đại của Việt Nam cho đến ngày nay.
Điều truyền cảm hứng sâu sắc cho tôi chính là ý nghĩa thiêng liêng mà lá cờ ấy mang trong mình, biểu tượng của khát vọng độc lập, của lòng yêu nước không bao giờ mất đi và hành trình hun đúc tinh thần của những người chiến sĩ.
Nền cờ màu đỏ tượng trưng dòng máu đỏ, màu của nhiệt huyết, ý chí, niềm tin, tinh thần hy sinh chiến đấu cách mạng của nhân dân Việt Nam. Ngôi sao vàng là biểu trưng cho ánh sáng dẫn đường của cách mạng, đồng thời thể hiện màu da của con người Việt. Năm cánh sao tượng trưng cho sự đoàn kết các tầng lớp nhân dân bao gồm sĩ, nông, công, thương, binh trong đại gia đình các dân tộc.
Phụ lục hình ảnh Quốc kỳ có chỉnh sửa về hình thức theo Sắc lệnh số 249-SL ngày 30/11/1955. Nguồn ảnh: Trung tâm Lưu trữ quốc gia III.
Những năm tháng chiến tranh, sẽ thật khó để bắt gặp lá cờ tươi màu đỏ thắm, kiêu hãnh tung bay giữa trời gió lộng. Thay vào đó, lá cờ hiện diện lặng lẽ: sáng lên giữa khói lửa chiến trận, trở thành “lớp áo vinh dự” tiễn biệt người đồng đội ngã xuống, là lý tưởng được giấu kỹ dưới lớp áo bạc màu, nằm sâu trong trái tim người lính.
“Chúng tôi lấy miếng giấy đỏ lót trong hộp mứt làm cờ, màu vàng thì lấy thuốc ký ninh vàng hòa ra với nước, bôi lên giấy trắng để cắt sao... Cờ dán xong, chúng tôi cử một anh giấu vào lớp lót áo, mặc vào người. Người giữ cờ luôn ngồi phía trong cùng, có người che, nếu có bị khám cũng có thể chuyền nhau giấu đi được,” đồng chí Ngô Hùng Hậu, tù nhân chính trị Nhà tù Hỏa Lò năm 1950–1952, kể lại trong hồi ký Hỏa Lò thời kháng chiến chống Pháp.
“Còn nửa giờ nữa thì đến giao thừa, anh em đi sửa soạn quần áo, chải đầu chờ xuân mới. Lá cờ được treo lên, dán vào vách chính giữa nhà. Đúng 12 giờ, một tiếng hô dõng dạc nổi lên từ phía ngoài: ‘Nghiêm! Chào cờ!… Chào.’ Tiếng Quốc ca nổi lên trong đêm vắng, ngay trong lòng địch. Tiếng hô của một trại được cử hô đầu tiên đã bắt đầu, các tiếng hô khác cũng nổi dậy, đề lao vang tiếng Quốc ca.”
Một trong số những lá cờ bí mật được các tù nhân chính trị tại nhà tù Hòa Lò tạo nên. Nguồn ảnh: Báo Lao Động.
Hay có một câu chuyện được kể tại Bảo tàng Quân khu IV. Tháng 3/1973, bên bờ sông Thạch Hãn (Quảng Trị), đồng chí Hoàng Văn Cờ, một người lính vừa được thả từ nhà tù Biên Hòa, trực tiếp trao lại lá cờ cho ban tiếp nhận tù binh giải phóng. Sau đó, lá cờ cùng nhiều hiện vật khác được đưa về và lưu giữ tại đây. Lá cờ này mang màu đỏ loang lổ, với hình ảnh sao vàng năm cánh, tượng trưng cho chiến công của ông và đồng đội trong suốt năm tháng bị giam cầm trong ngục tù.
Được làm vào năm 1970 bởi các chiến sĩ cách mạng tại nhà tù Biên Hòa, lá cờ được tạo ra từ vải lấy từ vỏ bao đựng bột mì trong những ngày lao động ở nhà bếp. Hình sao vàng được các tù binh nữ khâu thủ công từ ba mảnh vải áo lót. Để nhuộm màu cho lá cờ, các chiến sỹ phải dùng nhiều cách khác nhau như thuốc đỏ, máu từ vết thương, sao vàng được nhuộm bằng thuốc chống phù nề. Để giữ gìn lá cờ trước con mắt của kẻ thù, đồng chí Hoàng Văn Cờ giấu lá cờ bằng cách lấy đá rạch vào đùi mình cho chảy máu rồi cuộn tròn lá cờ quanh chỗ vết thương. Những hình ảnh ấy chứa đựng sức mạnh tinh thần vô cùng mạnh mẽ, là biểu tượng của khát vọng tự do và niềm tin vào chiến thắng.
Lá cờ thắm máu đào do các cựu tù ở nhà tù Biên Hòa cất giữ. Nguồn ảnh: Báo Sức khỏe và Đời sống.
Trong thời bình, lá cờ ấy tiếp tục tung bay như một biểu tượng sống động cho sự phát triển và khát vọng vươn lên của cả dân tộc.
Lá cờ không chỉ hiện diện trong những dịp trọng đại như lễ chào cờ đầu tuần, ngày lễ lớn của dân tộc, Quốc khánh, hay ngày Giải phóng miền Nam, mà còn xuất hiện đầy tự hào trên đấu trường quốc tế. Mỗi lần lá cờ Việt Nam được kéo lên tại SEA Games, Olympic, hay các sự kiện văn hóa quốc tế, là mỗi lần trái tim người Việt dâng trào xúc động.
Nhớ những lần đội tuyển bóng đá Việt Nam giành chiến thắng, từ các thành phố lớn đến những thị trấn nhỏ, cả đất nước như bừng lên một niềm vui rực rỡ. Người người đổ ra đường “đi bão,” hô vang hai tiếng Việt Nam trong niềm tự hào cuộn trào dậy sóng. Giữa biển người ấy, lá cờ đỏ sao vàng là nhân vật chính không thể thiếu, căng gió trên tay, phấp phới trên xe máy, thậm chí quấn quanh người như một tấm áo danh dự.
Các tuyến đường đổ về khu vực trung tâm luôn phủ kín cờ đỏ sao vàng của các đoàn xe
“đi bão” ăn mừng chiến thắng của bóng đá nước nhà. Ảnh: Linh Phạm.
Giữa tiếng kèn, tiếng trống, tiếng reo hò, lá cờ vẫn hiện lên trang nghiêm mà rực rỡ như nhịp tim chung của cả dân tộc đang hoà làm một. Thật tự hào khi biết bao lần tôi được hòa trong dòng người rợp đỏ màu cờ với niềm tự hào cháy rực.
Lá cờ tung bay nơi cực Nam Tổ quốc. Ảnh: Mai Thanh Hải/Tuổi Trẻ.
Từ màu đỏ của máu, của lịch sử, lá cờ hôm nay còn mang trong mình sắc màu của tri thức, của sáng tạo, của tinh thần đổi mới. Dưới lá cờ ấy, lớp người trẻ lớn lên với niềm tin rằng họ có thể viết tiếp câu chuyện vẻ vang bằng chính hoài bão của mình.
Yêu biết bao hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng trong cuộc sống thường ngày: trên ngực áo học sinh, trên đỉnh cột mốc Trường Sa, giữa quảng trường Lăng Bác, trên mái nhà, trước sân, ngoài ban công. Lá cờ bay phấp phới giữa nắng gió như một lời nhắc dịu dàng mà da diết: ta thuộc về nơi này — dải đất hình chữ S đã trải qua bao gian khó để gìn giữ tự do và hòa bình; như sợi dây vô hình gắn kết người Việt với đồng bào mình, xuyên suốt mọi thế hệ.