Nếu như cà phê sữa đá là thứ không thể thiếu vào những buổi sáng lười biếng thì một bình trà đá mát lạnh chính là lời hứa hẹn cho những bữa ăn ngon hết sảy.
Với khí hậu nóng nực của miền Nam, đôi khi đồ ăn sẽ hơi khó nuốt nếu không có một thức uống lành lạnh đi kèm, khi ấy thì một ly trà đá vàng tươi sẽ cứu lấy khẩu vị của thực khách.
Ngành F&B của Việt Nam có giá trị hàng trăm triệu đô la, nhưng tôi dám cá là chẳng có thương hiệu nước uống đóng chai nào có thể thay thế được độ phủ sóng dày đặc và mức giá bình dân của trà đá trong các quán ăn trên khắp đất nước. Thức uống này kết hợp tuyệt vời với mọi món ăn: Một tô phở đầy ụ, một dĩa cơm trưa thịt kho cùng trứng rán và cả những xiên que hải sản ta ăn chơi khi đi dạo đêm nữa.
Câu chuyện bắt đầu từ nhiều thập kỷ trước trong thời kỳ Pháp thuộc, những trung tâm nghiên cứu và phát triển trà đầu tiên được thành lập ở Phú Hộ - Phú Thọ, Bảo Lộc – Lâm Đồng và Pleiku – Gia Lai. Đồng thời người Pháp cũng cho xây dựng một nhà máy sản xuất trà và một trung tâm giống cây ở Phú Hộ với 27 giống trà khác nhau.
Đến năm 1945, Việt Nam tự hào đã có hơn 13.585 hecta vùng trồng trà trên cả nước với sản lượng hằng năm là 6.000 tấn bao gồm trà sấy khô, trà đen, trà xanh và trà ướp hương. Dù chịu nhiều ảnh hưởng của những cuộc chiến tranh sau đó, sản lượng trà trong hai thập niên tiếp theo vẫn tăng lên 35.000 tấn, trong đó có 13.000 tấn xuất khẩu. Tổng diện tích trồng trà cũng tăng lên 65.000 hecta.
Ngày nay, Việt Nam là một trong những nước xuất khẩu trà lớn nhất thế giới. Tính đến cuối năm 2016, nước ta đã xuất đi 118.000 tấn trà trị giá 197 triệu USD.
Những người có tuổi ở Hà Nội thì vẫn thích uống trà nóng hơn trà đá. Ảnh: Zing.
Cho tới đầu những năm 2000, trà đá đã phổ biến ở các tỉnh miền Nam và ta cũng có thể thỉnh thoảng bắt gặp người Hà Nội thưởng thức một cốc trà với đá lạnh như thế. Thế nhưng, lớp người cao tuổi ở thủ đô vẫn ưa chuộng cái nếp pha một ấm trà nóng vốn rất thanh cao và tao nhã. Bố tôi không sinh ra ở Hà Nội, nhưng gia đình bố tôi là người gốc Bắc và ông là người uống trà khó tính nhất mà tôi từng biết.
Tự nhận mình là một nghệ nhân thưởng trà, bố tôi thích một tách trà đặc và có vị đắng. “Trà mà pha loãng và không đắng thì còn gì là trà” ông từng nói, kèm theo thoáng vẻ khinh thường khi ông phát ra cái từ “pha loãng”. Bởi vậy mà ông chẳng quan tâm gì tới cái gọi là trà đá và cũng đừng bao giờ nhắc tới trà sữa trước mặt ông.
Cũng dễ hiểu vì sao những người sành trà như bố tôi lại xem thường trà đá Sài Gòn: Cách pha chế của nó đúng nghĩa là một thứ trà giá rẻ pha loãng với nước. Chỉ cần một pha một ấm trà xanh hương lài, và rồi ta cứ tùy ý cho thêm nước lọc và đá, miễn sao vẫn còn chút màu vàng hổ phách của trà là được. Sản phẩm có được là một thức uống mát lạnh mà có vẻ gần với nước hơn là trà, hay có thể gọi là “nước đá hương trà” cũng được, nếu bạn muốn.
Trước năm 1975, trà đá vẫn là một khái niệm xa lạ đối với người Hà Nội, một trong những nguyên nhân là do thiết bị làm đông lạnh thời ấy còn khan hiếm. Nhưng một vài năm sau, khi mà cán bộ miền Bắc thường xuyên có những chuyến thăm miền Nam, thì món đồ uống ưa thích của dân Sài Gòn bắt đầu du nhập vào thủ đô.
Từ Sài Gòn trở về, họ thường mang theo rất nhiều những món đồ mới lạ như: xe đạp, máy phát thanh, và quan trọng nhất là tủ lạnh. Dù vậy cũng chỉ có những gia đình ở Hà Nội là có khả năng sắm những hộp làm đá to này vì các tỉnh lẻ miền Bắc vẫn còn chưa kết nối với hệ thống điện lưới quốc gia.
Hầu hết những chiếc tủ lạnh ở Việt Nam thời ấy là hàng secondhand nhập khẩu từ Nhật Bản của các hãng như Sanyo hay Hitachi. Nhưng vào cái thời mà nhà nhà vẫn còn sống trong chế độ tem phiếu thì tủ lạnh trở nên khá dư thừa bởi vì không có đồ ăn nào còn lại sau bữa cơm để mà mang đi bảo quản lạnh. Thế nên, thiết bị này được sử dụng chủ yếu để làm đá thay vì cái công năng thông dụng của nó.
Thấy vậy, các hàng nước ở Hà Nội đã nhanh trí hỏi mua lại đá từ các hộ gia đình này với mức giá tương đối rẻ để phục vụ cho việc kinh doanh của mình.
Không khó để bắt gặp những thùng trà đá mát lạnh được đặt ở ven đường tại Sài Gòn. Ảnh: Báo Mới.
Trong bài viết “Trà đá và cuộc 'chinh phạt' đồ uống từ Sài Gòn”, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều kể về trải nghiệm của ông khi lần đầu tiên đến Sài Gòn năm 1979.
Ông viết: “Chuyến đi đó thật kỳ thú và ấn tượng. Trên một toa tàu bụi bặm, ồn ĩ, nồng nặc mùi mồ hôi và hàng hóa, tôi may mắn có được chiếc vé ngồi bên cửa sổ. Và thế, tôi thỏa mắt ngắm nhìn phong cảnh của những vùng miền đất nước mà tôi lần đầu tiên đi qua.”
“Trên những sân ga đó, tôi đã thực sự bị cuốn hút bởi những món ăn của người miền Nam với cách bày hàng, chào mời, và màu sắc của món ăn. Nhưng có một thứ mà tôi thực sự ngạc nhiên và khi nếm thử thì bỗng nhiên bao mệt mỏi suốt thời gian ngồi trên toa tàu chật chội oi bức này đều tan biến. Đó là trà đá.”
Ngày nay, khó mà nói rõ thức uống này ở mỗi vùng miền có gì quá khác biệt. Trà đá trong văn hóa giới trẻ Hà thành là cốc trà chanh vỉa hè gần những địa điểm nổi tiếng của thủ đô như Hồ Hoàn Kiếm hay Nhà Thờ Lớn. Liệu đồ uống ấy thật sự có trà và chanh hay không là một chuyện khác, nhưng chúng ta có thể nói về nó sau.
Cho dù giờ đây nhiều thương hiệu trà sữa Đài Loan đã thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường đồ uống Sài Gòn, nhưng ly trà đá quen thuộc vẫn không hề vắng bóng ở hầu hết các quán ăn, từ tiệm cơm tấm gần nhà hay xe hủ tiếu đầu ngõ đến quán cóc vỉa hè ta đi ngang qua hằng ngày.
Ngoài ra, thứ nước giải khát vô cùng dễ uống và dễ pha này còn là món quà giản dị mà người Sài Gòn hào phóng dành tặng cho nhau. Trong mọi ngóc ngách của thành phố, ta có thể bắt gặp những bình trà đá miễn phí bên lề đường, vẫn luôn mát rượi và sẵn sàng đập tan cơn khát dưới cái nắng oi ả đất Sài thành.