Nằm cách trung tâm Hà Nội 40km về phía Nam, Làng Cựu có gần 50 ngôi biệt thự được xây dựng từ đầu thế kỷ 20 với thiết kế độc đáo, pha lẫn kiến trúc Việt cổ và kiến trúc Pháp. Cơ ngơi ấy thuộc về những người con của ngôi làng từng được mệnh danh là nhà của “những thợ may đệ nhất Hà Thành” vào thời Pháp thuộc.
Thoạt nhìn, ngôi làng yên bình ở phía nam thủ đô này không khác gì những ngôi làng truyền thống trên khắp Việt Nam, với dáng vẻ lặng lẽ tách biệt hẳn với phố thị ồn ã. Nhưng khi quan sát kỹ hơn, sự khác biệt dần hiện rõ. Nơi đây tọa lạc nhiều ngôi biệt thự cả trăm năm tuổi, có mái nhà và cột nhà được xây dựng cầu kỳ tráng lệ trông giống như những góc phố cổ xưa nổi tiếng ở Hà Nội.
Những công trình này là thắng cảnh trong mắt du khách phương xa nhưng là bản sắc và niềm tự hào của người dân trong làng. Chúng là di sản của thế hệ cha ông từng là những người thợ may khéo tay và vương giả nhất miền Bắc.
Xuất thân khiêm tốn
Câu chuyện bắt đầu vào năm 1921.
Sau nhiều năm đói kém vì mất mùa, trận hỏa hoạn năm 1921 càng khiến cuộc sống ở Làng Cựu trở nên khốn quẫn. Không chịu cảnh ngồi không bó gối, hai anh em Phúc Mỹ và Phúc Hưng đã rời làng ra Hà Nội tìm kế sinh nhai. Họ bỏ nghề cày cuốc và tham gia ngành may mặc Âu phục đang ăn nên làm ra thời bấy giờ. Khởi đầu với hai bàn tay trắng, hai anh em thường xuyên lui đến các tiệm may của người Pháp và dần trở thành nhà thầu vải được các thợ may tín nhiệm. Tuy nhiên, Phúc Mỹ và Phúc Hưng còn say mê công việc đo may quần áo, nên đã xin được học nghề. Ban đầu, người ta cho rằng bàn tay chuyên cày cuốc thì không đủ khéo léo để cắt may Âu phục, nhưng các thợ may vẫn đồng ý dạy nghề cho hai nhà buôn vải có uy tín này. Từ đó, Phúc Mỹ và Phúc Hưng đã nhanh chóng thể hiện đam mê và khả năng của mình.
Đến giữa những năm 1920, tên tuổi Phúc Mỹ và Phúc Hưng đã trở nên quen thuộc trong giới may mặc cao cấp đương thời, họ bắt đầu thu hút sự chú ý của giới thượng lưu, những người luôn ưu tiên việc ăn diện và muốn sở hữu những bộ Âu phục do hai thợ may An Nam này tạo nên. Từ hai tiểu thương tay trắng bôn ba xứ người, hai anh em đã trở thành thợ may cho những nhân vật quan trọng nhất Hà Nội bấy giờ. Họ dần dần mở chi nhánh trên những con phố lớn và đưa thương hiệu của mình lên tầm “quốc dân,” thậm chí còn có kế hoạch mở rộng kinh doanh xuống Nam Kỳ.
Học theo thành công của hai anh em, nhiều người dân Làng Cựu bỏ nghề cày cái cuốc để theo đuổi công việc may vá. Đến những năm 1930, nhiều vùng xuất hiện các nhà may nổi tiếng như Phúc Duyên, Phúc Thành và Phú Long — đa số đều đặt tên có chữ Phúc hoặc Phú theo tên những người tiên phong Phúc Mỹ và Phúc Hưng để biểu thị xuất thân từ Làng Cựu. Từ đó, một “thời kỳ hoàng kim” của nghề may mặc cao cấp được mở ra tại ngôi làng. Nhiều dân làng đã di cư đến thành phố lớn, nhưng cũng có người chọn quay về làng cùng của cải kiếm được để tái hiện hào quang thủ đô tại chính quê nhà.
Nhiều căn chòi gỗ đơn sơ trong làng lần lượt biến thành biệt thự bê-tông được trang hoàng theo phong cách Tân cổ điển. Thế nhưng, chủ nhà vẫn sử dụng các yếu tố kiến trúc Á Đông và vận dụng quy tắc phong thủy truyền thống. Điều này tạo nên sự pha trộn hài hòa và độc đáo giữa phong cách phương Đông và phương Tây. Trầm trồ trước diện mạo mới của Làng Cựu, người dân ở các vùng lân cận đặt biệt danh cho nơi đây là “làng Tây” — ngôi làng đẹp nhất vùng đồng bằng sông Hồng.
Dĩ vãng vàng son
Cuộc sống vương giả đã giúp Làng Cựu phát triển dân số trong những năm sau đó. Nhưng khi Chiến tranh Thế giới thứ 2 đi đến hồi kết, thời vận của ngôi làng cũng suy giảm. Nước Pháp dù thuộc phe chiến thắng nhưng phải gánh chịu nhiều thiệt hại nặng nề, dẫn đến hệ lụy là nền kinh tế Đông Dương cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hơn nữa, khi ấy phong trào cộng sản đang phát triển ở các vùng nông thôn Bắc bộ. Người nào tích trữ nhiều tài sản sẽ bị xem là đóng góp cho chế độ của Pháp. Trong tình cảnh đó, nhiều thợ may phải một lần rời bỏ ngôi làng để tiếp tục nghề nghiệp ở thành phố và tránh bị tác động. Chỉ có một vài gia đình vẫn còn người ở lại Làng Cựu để giữ mối liên kết với nơi chôn nhau cắt rốn. Cứ thế, chưa tới năm năm, ngôi “làng của người giàu” thuở nào đã trở về cảnh hoang vắng nguyên sơ.
Sau cuộc di cư ồ ạt vào những năm 1940 ấy, Làng Cựu chẳng còn bao nhiêu cư dân và vẫn vắng vẻ như thế cho đến ngày nay. Hiện tại, trong làng có khoảng 500 người sinh sống, hầu hết họ đều làm nghề nông truyền thống. Vẫn có một số ít cư dân làm thợ may công nghiệp tại một nhà máy gần đó, nhưng thu nhập chỉ đủ để trang trải cuộc sống. Những căn biệt thự còn sót lại vẫn mang nhiều giá trị lịch sử đối với Làng Cựu nói riêng và Hà Nội nói chung. Vì thế, từ đầu những năm 2000, dân làng đã nỗ lực bảo tồn các công trình cổ này. Một nhóm kiến trúc sư gồm cả người Việt và người nước ngoài đã đề xuất kế hoạch trùng tu Làng Cựu vào năm 2020. Nhưng đã hai năm trôi qua vẫn không có thông tin gì về tiến trình của dự án.
Chuyến thăm đến Làng Cựu sẽ là một hành trình thăng trầm của cảm xúc. Phong cảnh thanh bình và nên thơ của ngôi làng như đưa du khách xuyên không vào những mẩu truyện cổ tích đất Việt. Nhưng càng đi sâu vào mạch đường chính, bước chân sẽ dần dần mang nặng nỗi buồn, vì khi đứng trước những ngôi biệt thự xa hoa nhất đồng bằng Bắc Bộ, chúng ta thấy rõ sự tàn phá của thời gian và quên lãng. Những dãy nhà nguy nga năm xưa giờ đây đổ nát và bị phá dỡ để xây nhà ở theo kiến trúc hiện đại. Chỉ còn khoảng 50 công trình vẫn trụ vững qua thời gian, nhưng chúng ta chỉ có thể ngắm nhìn qua những cánh cổng đã khóa chặt mà sẽ chẳng có ai trở về để mở chúng ra.