Sài·gòn·eer

Back Di Sản » Từ đầm lầy lên biểu tượng: Lược sử Chợ Bến Thành qua các thời kì

Từ những thảo luận đầu tiên vào năm 1868 về một khu chợ mới, mãi đến năm 1914, chợ Bến Thành mới được hoàn thiện. Sự ra đời của chợ Bến Thành tựa như một giấc mơ trở thành sự thật, giấc mơ của gần năm thập kỷ tranh luận và kiếm tìm giải pháp xây dựng thành phố.

Hành trình năm thập kỷ kiếm tìm một khu chợ “xứng tầm”

Trong một công trình nghiên cứu về các tiểu thương của chợ Bến Thành, nhà nhân học Ann Marie Leshkowich đã mô tả các cuộc thảo luận của giới chức thuộc địa ở Sài Gòn về việc xây dựng một cơ sở thương mại mới, mà theo lời của họ, phải là một nơi “xứng tầm” với đô thị mà họ đang góp phần tạo dựng.

Vào năm 1868, người Pháp chỉ mới dò dẫm thiết lập hệ thống thuộc địa tại Việt Nam được chừng một thập kỷ. Các ủy viên Hội đồng Thành phố (Conseil Municipal) bắt đầu nghĩ tới việc xây dựng một khu chợ mới bằng kim loại, thay thế cho khu chợ bằng lá. Năm 1869, gói kinh phí 110.000 franc đã được thông qua, nhưng đến năm 1870, kinh phí ước toán đã tăng lên gấp ba lần, khiến cho các đề xuất về vật liệu và kỹ thuật xây dựng phải được xem xét lại.

Ga Orléans ở Pháp được đề xuất làm công trình tham khảo. Nguồn ảnh: tài khoản Flickr manhhai.

Một số ủy viên của Hội đồng đã kiến nghị tham khảo kết cấu bằng sắt của ga Orléans để thiết kế khung nhà lồng chợ. Lúc bấy giờ, kết cấu khung sắt là lựa chọn mang tính tiết kiệm về kinh phí, lắp đặt nhanh, nhẹ và tạo ra không gian bên trong rộng hơn so với công trình xây dựng bằng cột và tường chịu lực như trước. Về sau, kết cấu khung sắt được ứng dụng rộng rãi trong xây dựng cầu và công trình công cộng như Bưu điện Trung tâm Thành phố. Nhưng trong giai đoạn này, việc ứng dụng cấu trúc khung sắt vẫn còn đang được tranh luận.

Cùng năm 1870, chợ cũ, lúc này nằm ở khu kênh Chợ Vải, nay là đường Nguyễn Huệ, bị hủy hoại do hỏa hoạn. Từ đó, Hội đồng nhận thấy không nên xây chợ mới bằng mái tranh, vì điều này đe dọa đến khả năng phòng cháy trong trung tâm thành phố. Lúc bấy giờ, nhà khung tre gỗ lợp mái tranh vốn còn phổ biến, nên các quan chức phải tìm cách chuyển đổi các khu phố sang nhà tường gạch để an toàn và thẩm mỹ hơn. Vấn đề vệ sinh cũng được quan tâm thảo luận vì chợ truyền thống thường được đặt ngay trên nền đất, được xem là kém vệ sinh. Vì lẽ đó, các thành viên hội đồng nhất trí rằng chợ mới cần phải lót nền đá và có hệ thống nước để vệ sinh cuối ngày.

Một cấu trúc mới bằng gỗ, ngói và sàn đá được xây dựng năm 1872 thay cho khu chợ cũ bị cháy năm 1870. 
Ảnh chụp Chợ Cũ trên đường Charner, ngày nay là đường Nguyễn Huệ. Nguồn ảnh: Tài khoản Flickr manhhai.

Khu chợ mới được xây dựng vào giữa năm 1872 do nhà thầu Albert Mayer thực hiện, với cấu kết cấu bằng gỗ, lợp ngói, sàn lót đá granite. Khu chợ này góp phần giải quyết nhu cầu sử dụng cấp thiết của thành phố, nhưng còn rất khiêm tốn so với hình dung của các ủy viên về một khu thương mại “xứng tầm” Sài Gòn. Nỗ lực xây dựng cơ sở hạ tầng cho thành phố bị chững lại vì chiến tranh Pháp-Phổ (1870–1871) khiến cho các khoản đầu tư kinh phí bị gián đoạn. Nhiều công trình quan trọng như Bưu điện Trung tâm Thành phố cũng bị đình trệ trong các thập niên 1870 và 1880.

Đến năm 1893, mãi hai thập niên sau chiến tranh Pháp-Phổ, việc xây dựng các tòa nhà công cộng trong thành phố mới xuất hiện lại trong các cuộc thảo luận của Hội đồng. Để kiến tạo diện mạo mới cho thành phố, thị trưởng đã đề xuất xây dựng ba công trình là nhà hát, tòa thị chính và chợ trung tâm. Nhà hát Thành phố được hoàn thành bảy năm sau đó, Tòa thị chính (Hôtel de Ville) được hoàn thành năm 1908, còn khu chợ trung tâm tiếp tục bị trì hoãn vì nhiều vấn đề gây  tranh cãi.

Ao Bồ Rệt trong họa đồ Gaston Pusch (1898). Họa đồ này cho thấy sự tương phản về cảnh quan giữa những ngôi nhà tường lợp ngói đỏ với các túp lều mái lá của cư dân. Nguồn ảnh: tài khoản Flickr manhhai.

Địa điểm dành cho khu chợ mới được ấn định tại khu vực ao Bồ Rệt (marais Boresse), một khu vực đầm lầy tù đọng khổng lồ ngay trong thành phố, nơi những người địa phương nghèo khổ nhất sinh sống trong những ngôi nhà lợp mái lá dựng ngay trên khu đất lầy.

Khu vực vốn từng có nhiều kênh rạch thông với sông Sài Gòn, dòng thủy triều đều đặn lên xuống mỗi ngày giúp cuốn trôi chất thải sinh hoạt và giúp cho cảnh quan luôn tươi mới, sạch sẽ. Tuy nhiên, những hoạt động phát triển nhà đất từ giữa thế kỷ 19 đến những năm 1890 đã khiến cho các con rạch dần trở nên tắc nghẽn. Ao Bồ Rệt cũng từng nối liền với sông Sài Gòn qua kênh rạch Cầu Sấu, nhưng đến những năm 1867–1868, kênh này bị lấp thành đường Canton (nay là Đại lộ Hàm Nghi). Tất nhiên, khu ao nước trũng ở cuối dòng kênh trở thành đầm lầy nước tù đầy muỗi mòng.

Trong mắt của các nhà quy hoạch thời thuộc địa, ao Bồ Rệt là một trong những chướng ngại hoang dã “đe dọa và chiếm mất nền văn minh” họ vừa cất công tạo dựng được. Việc biến khu vực này thành một khu thương mại sẽ giúp cải thiện cảnh quan và điều kiện sống trong thành phố, đồng thời đặt khu chợ trung tâm tại đây sẽ hợp lý hơn là khu vực đường Nguyễn Huệ (ngày nay) vốn đang trở nên chật chội.

Sau nhiều thập niên quy hoạch, khu vực đầm lầy Bồ Rệt đã được chuyển đổi thành khu chợ trung tâm, với các dãy nhà phố kinh doanh tụ hội xung quanh. Hình ảnh: Léon Ropion, khoảng những năm 1920, thuộc Bộ sưu tập C Neykov. Nguồn ảnh: Tài khoản Flickr manhhai.

Năm 1893, Hội đồng quyết định thông qua kế hoạch xây chợ mới, ước tính trị giá 400.000 franc. Những tranh cãi về chi phí lại tiếp tục làm cho tiến độ bị trì trệ, hai công trình Nhà hát và Tòa thị chính được ưu tiên nhiều hơn, mãi đến năm 1907, Hội đồng mới bắt đầu xem xét lại việc xây dựng chợ, lúc này chi phí lại tiếp tục gia tăng. Năm 1908, Hội đồng thông qua kế hoạch xây dựng với giá thành tăng cao.

Sau nhiều thập kỷ chờ đợi, khu chợ trung tâm cuối cùng cũng được hoàn thành vào năm 1914. Sự kiện khánh thành chợ Bến Thành từ ngày 28/3 đến 30/3 năm 1914 được báo chí lúc bấy giờ đặc biệt quan tâm. Thành phố cho tổ chức nhiều chương trình chào mừng, các hoạt động biểu diễn nghệ thuật quần chúng như múa lân, xiếc tạp kỹ, bắn pháo hoa, thu hút đông đảo người dân đến tham dự. Báo Lục Tỉnh Tân Văn cũng tường thuật cảm nghĩ của những hộ tiểu thương vừa đến buôn bán trong khu chợ mới, với tâm trạng phấn khởi vì sự rộng lớn, thông thoáng và sạch sẽ của công trình này.

Sau công năng mới đến thẩm mỹ

Chợ Bến Thành vào năm 1914, thời điểm khánh thành. Nguồn ảnh: Tuổi Trẻ.

Chợ Bến Thành khiến cư dân đương thời choáng ngợp bởi kích thước khổng lồ của những nhà lồng chợ và một tháp đồng hồ vươn cao nổi bật. So với các công trình công cộng quan trọng được xây dựng vào cuối thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20, chợ Bến Thành có giải pháp trang trí tiết chế hơn hẳn.

Trong các phiên thảo luận của Hội đồng Thành phố, vấn đề trang trí ở chợ không được xem trọng bằng các yêu cầu về vệ sinh và sức khỏe, do đó thiết kế chỉ tập trung xử lý những vấn đề công năng thiết yếu như trần cao và rộng để lưu thông không khí, sàn lót đá và có hệ thống xả thải. Nếu như Nhà hát và Tòa Đô Chánh được trang trí bằng một hệ thống phù điêu phong phú, giàu ý nghĩa biểu tượng, thì ngôi chợ hầu như không có họa tiết trang trí nào.

Bức ảnh chụp vào thập niên 1960 cho thấy các chi tiết trang trí bằng gốm và các lam thông gió đã được bổ sung vào mặt trước của chợ Bến Thành. Nguồn ảnh: tài khoản Flickr manhhai.

Mãi đến năm 1952, các chi tiết trang trí bằng gốm mới được bổ sung vào các cửa Đông, Tây, Nam, và Bắc của chợ. Trong bài viết 'Tìm lại tác giả phù điêu chợ Bến Thành' trên Tạp Chí Mỹ Thuật, tác giả Nguyễn Minh Anh cho biết các bức phù điêu gốm này do ông Lê Văn Mậu (1917–2003) sáng tác và các nghệ nhân Hợp tác xã Mỹ nghệ Biên Hòa thực hiện theo đơn đặt hàng của chợ Bến Thành.

Các phù điêu này mô tả các động vật, thực vật biểu trưng cho thương mại ở chợ, sử dụng hai màu quen thuộc của dòng gốm Biên Hòa là màu trắng ta và màu xanh đồng. Các bức phù điêu được tạo thành từ nhiều mảnh gốm nhỏ ghép lại, được nung tại Biên Hòa và thi công lắp ráp tại chợ Bến Thành. Bên cạnh các ô phù điêu, các vòm cửa và các ô lam lấy sáng tại các cửa chợ cũng là các bổ sung về sau, mang dáng vẻ tuyến tính, hiện đại rất khác so với phần chợ nguyên bản năm 1914.

Các bức tranh gốm ở các cửa Đông, Tây, Nam, Bắc của chợ Bến Thành. Ảnh: Nguyễn Lương Cao Nhân.

Từ hiện đại đến truyền thống

Cũng trong công trình nghiên cứu của mình, Leshkowich đã có những lưu ý rất thú vị về sự thay đổi trong cách nhận thức về chợ Bến Thành. Theo hình dung ban đầu của các quan chức trong Hội đồng Thành phố, ngôi chợ mới là một cơ sở kinh doanh văn minh, hiện đại, tân tiến bậc nhất với các tiêu chuẩn châu Âu.

Thời gian trôi đi, tính hiện đại của khu chợ dần bị lấn át bởi hoạt động buôn bán đậm tính Việt của các hộ tiểu thương. Chợ Bến Thành từ một biểu tượng của văn minh phương Tây đến nay đã chuyển đổi về ý nghĩa: nó trở thành một cột mốc ký ức mà người Sài Gòn đi xa ai cũng nhớ về, một biểu tượng kiến trúc và một đại diện cho văn hóa truyền thống địa phương.

Từ một công trình do người Pháp xây dựng, chợ Bến Thành đã trở thành một biểu tượng của văn hóa truyền thống của thành phố. Ảnh: Nick Dewolf (1973).

Điều này cũng đóng góp vào cách hiểu về di sản thời kỳ thuộc địa, rằng chúng không hoàn toàn là những tạo dựng xa lạ mà chế độ thực dân áp đặt lên đối tượng bị cai trị. Qua thời gian, cùng với sự tương tác liên tục của nhiều thế hệ cư dân, những công trình thời kỳ thuộc địa đã thực sự đan cài vào văn hóa địa phương, trở thành một phần của đời sống và ký ức của thành phố.

Bản thân chợ Bến Thành cũng nằm trong một quần thể các di sản kiến trúc rộng lớn hơn, mà giá trị của chúng cần được xem xét trong cả một tổng thể. Đó là những khu nhà phố xung quanh chợ và dọc theo tuyến đường Lê Lợi, những chỉ dấu kiến trúc thương mại của Sài Gòn qua nhiều thời kỳ lịch sử. Đồng thời, hoạt động buôn bán và lối sống của cư dân địa phương cũng là hợp phần không thể tách rời. Việc bảo tồn chợ Bến Thành sẽ trọn vẹn khi được cân nhắc trong một tổng thể kiến trúc, lịch sử và con người đương đại.

Chợ Bến Thành ngày nay. Ảnh: Nguyễn Lương Cao Nhân.

Bài viết được thực hiện trong chương trình hợp tác nội dung giữa Saigoneer và Tản Mạn Kiến Trúc (TMKT), một dự án truyền thông độc lập về di sản đô thị Việt Nam, đặc biệt là miền Nam Việt Nam. Bạn đọc có thể tìm hiểu thêm về các nghiên cứu của TMKT qua trang Facebook chính thức của nhóm tại đây.

Bài viết liên quan

in Di Sản

Câu chuyện lịch sử đằng sau 'Nhà Thờ Hồng' của Tân Định

Ở Sài Gòn, có lẽ ai cũng đã từng nghe danh Nhà thờ Tân Định với màu hồng vô cùng đặc trưng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng đằng sau vẻ ngoài ấn tượng, công trình là còn là một trong những thánh đường Công...

in Di Sản

Giai thoại về Quách Đàm, 'ông tổ' của vùng đất Chợ Lớn — Phần 1

Đường Hải Thượng Lãn Ông (trước đây là đại lộ Gaudot) ở trung tâm Chợ Lớn là nơi vẫn bảo tồn được vẻ cổ kính của nhiều cửa hiệu cũ từ thời thuộc địa. Trong số đó, đặc biệt nhất có lẽ phải là tòa nhà s...

in Di Sản

Hồ Con Rùa, minh chứng sống động của lịch sử đa tầng Sài Gòn

Khu vực Công trường Quốc tế-Hồ Con Rùa đã trải qua nhiều thay đổi về thiết kế và công năng xuyên suốt dòng lịch sử của vùng đất Sài Gòn. Từ một cổng thành của công trình phòng thủ quân sự thời Ng...

in Di Sản

Ngược dòng lịch sử trăm năm Collège d'Adran — Ngôi trường lâu đời nhất Sài Gòn

Khi đi ngang qua Thảo Cầm Viên về hướng đường Nguyễn Hữu Cảnh, không nhiều người sẽ để ý đến sự hiện diện của THCS Võ Trường Toản và THPT Trưng Vương. Có lẽ càng ít người biết rằng, cả hai công trình ...

in Di Sản

Cuộc sống dưới ách thực dân Pháp qua góc nhìn hội họa

Nghệ thuật và đạo đức: liệu chúng ta có thể tách rời hai khía cạnh này khi phân tích các tác phẩm về thời kỳ thuộc địa?

in Di Sản

Giai thoại về Quách Đàm, 'ông tổ' của vùng đất Chợ Lớn — Phần 2

Những năm 1920, vị thương gia Quách Đàm đã nắm trong tay quyền sở hữu chợ Bình Tây cũ và phần lớn khu vực xung quanh. Từ đó, ông đề xuất với chính quyền thuộc địa phá bỏ những tòa nhà hiện c...