Sài·gòn·eer

Back Văn Nghệ » Âm Nhạc & Nghệ Thuật » Tranh kiếng – nét đẹp nghệ thuật trong văn hóa tín ngưỡng của người Nam Bộ

Tôi vẫn luôn thích thú ngắm nghía mấy tấm tranh kiếng đủ sắc màu treo trong gian nhà thờ tổ tiên mỗi lần có dịp về quê ngoại. Từ những ngày còn bé tí tôi đã thấy những bức tranh vẫn luôn treo ở đó, như một phần không thể thiếu trong ký ức về ngôi nhà của ông bà. Nhận ra có rất nhiều những căn nhà ở miền quê này cũng có những bức tranh cũ kỹ như thế treo ở nơi trang nghiêm nhất, tôi vẫn tự hỏi: “Ai đã vẽ nên những bức tranh đậm đà hồn quê Nam Bộ?”

Người Nam Bộ vẽ tranh kiếng từ bao giờ?

Tôi hỏi ông về nguồn gốc của những bức tranh trong nhà, ông cũng không còn nhớ rõ, chỉ bảo rằng ngày trước dòng tranh này thịnh lắm, bán rất nhiều, đặc biệt là dịp lễ Tết, nhưng giờ thì chẳng còn thấy nữa.

Lân la tìm hiểu, tôi phát hiện ra rằng tranh kiếng đã xuất hiện từ rất lâu, khoảng thế kỷ 19, được truyền bá vào nước ta bởi những người Hoa di dân. Ban đầu, tranh kiếng xuất hiện trong cung đình Huế từ thời vua Minh Mạng, những tác phẩm đầu tiên do vua Thiệu Trị đặt thợ Trung Quốc vẽ về hai mươi cảnh đẹp xứ Huế, cùng các bài thơ vịnh của nhà vua. Từ đó, thuật ngữ “tranh gương cung đình Huế” ra đời để chỉ những tác phẩm tranh kiếng trong hoàng cung và giới quý tộc Huế.

Đến thế kỷ 20, những bức tranh kiếng đầu tiên xuất hiện ở khu Chợ Lớn (Sài Gòn), mở đầu cho hành trình vang bóng của dòng tranh phổ biến nhất nhì xứ Nam Bộ. Trong hành trình di dân, một nhóm người từ Quảng Đông đã mang theo những bức tranh với chủ đề thờ phụng nhân thần như một di sản văn hoá tâm linh. Vì thế, tranh kiếng khu Chợ Lớn bắt đầu nổi lên như một dòng tranh thờ các vị thần linh. Sau đó, dòng tranh này phát triển thêm những tác phẩm mang ý nghĩa may mắn, cầu tài lộc, sung túc.

Bức tranh kiếng Quan Âm Bồ Tát của người Hoa vẽ từ năm 1920. Nguồn ảnh: VnExpress.

Đến những năm 1920, người dân Lái Thiêu (Bình Dương) học hỏi kỹ thuật làm tranh kiếng từ người Hoa, rồi sáng tạo nên những kiểu mẫu mới, phù hợp với tín ngưỡng thờ tự của người Việt. Nhờ nét đẹp thuần Việt, phong cách pha màu độc đáo và điểm nhấn từ những mảnh ốc xà cừ, Lái Thiêu nhanh chóng trở thành trung tâm sản xuất và đầu mối phân phối tranh kiếng khắp lục tỉnh Nam Kỳ.

Những năm sau đó, theo tuyến đường sắt đầu tiên ở Đông Dương từ Sài Gòn về Mỹ Tho, tranh kiếng dần lan tỏa mạnh mẽ về miền Tây. Một trong những dòng tranh phổ biến ở Mỹ Tho từ xưa đến nay là tranh thờ tổ tiên, phát triển từ kiểu khuôn đồ thờ tổ tiên 9 tròng — vốn được chạm khắc trên gỗ sơn thiếp truyền thống — kết hợp thêm hoành phi phía trên đề tên gia tộc.

Tranh kiếng theo kiểu 9 tròng. Nguồn ảnh: Báo Thanh Niên.

Khi về với đồng bằng sông Cửu Long, tranh kiếng lại một lần nữa được đổi mới khi nhiều dòng tranh ra đời với giá rẻ, đa dạng đề tài phong cảnh làng quê hoặc các tích truyện như Thoại Khanh-Châu Tuấn, Lưu Bình-Dương Lễ, Phạm Công-Cúc Hoa, v.v. mô phỏng theo tranh truyện của họa sĩ Hoàng Lương, Lê Trung. Nhờ đó, tranh kiếng không chỉ phục vụ mục đích thờ tự mà còn trở thành vật trang trí cho cửa buồng, vách ngăn. Ngoài ra, ở những khu vực đông người Khmer sinh sống, tranh kiếng còn mang đậm yếu tố Phật giáo Tiểu Thừa.

Tranh kiếng được trưng bày trong các gian thờ. Nguồn ảnh: Báo Phụ Nữ.

Như vậy, tranh kiếng được chia thành hai dòng chính: tranh thờ và tranh phong cảnh, đáp ứng nhu cầu bày trí lẫn tín ngưỡng của người dân. Lý giải về sự phổ biến nhanh chóng của dòng tranh này ở Nam Bộ, nhà nghiên cứu Huỳnh Thanh Bình cho biết: “Do vùng đất Nam Bộ là vùng đa chủng tộc người, cộng đồng sinh sống nên tranh kiếng vào đây cũng phải đáp ứng nhu cầu thờ tự hay lễ tiết, khánh chúc. Trong đó tiêu biểu là tranh thờ tổ tiên. Đây chính là nét đặc sắc tồn tại trong tâm thức văn hóa của Việt Nam.”

Ngoài ra, lý do người miền Nam thường không gọi là “tranh kính” cũng rất thú vị. “Đơn giản, vì một trong những vị thành hoành bổn cảnh của xứ này là ngài Nguyễn Hữu Cảnh, nguyên danh là Nguyễn Hữu Kính (阮有鏡). Nên khi loại tranh vẽ/in trên kính này xuất hiện tại Nam bộ cuối thế kỷ 19, nó phải được gọi là tranh kiếng. Đây là sự tôn trọng bậc tiền nhân, một húy kỵ về văn hóa, lịch sử. Nhờ húy kỵ này mà tiếng Việt, rồi chữ quốc ngữ thêm phong phú, thêm bản sắc. Bên cạnh kính, còn có kỉnh, còn có kiếng… thật thú vị,” ông Lý Đợi phân tích.

Tranh kiếng trong đời sống

Tranh kiếng đã cắm rễ và phát triển rực rỡ khắp các tỉnh thành Nam Bộ. Với sự sáng tạo của mình, người dân nơi đây đã đưa tranh kiếng vào đời sống thường nhật, khiến nó trở nên quen thuộc.

Tranh kiếng dân gian trang trí trên xe hủ tiếu của người Hoa vào những năm 1960. Nguồn ảnh: VnExpress.

Họa sĩ, PGS.TS Trang Thanh Hiền từng nói: “Cũng giống như các dòng tranh dân gian Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng, Làng Sình, [trang kiếng] Nam Bộ có đến bốn chủ đề gồm — tranh tôn giáo, thờ cúng, bùa chú chấn trạch; tranh chúc tụng cầu phúc; tranh cảnh vật; tranh tích truyện. Trong bốn chủ đề này thì tranh tôn giáo thờ cúng, bùa chú chấn trạch được phát triển mạnh nhất. Tranh tích truyện có phần hiếm hơn. Nó thường phục vụ cho nhu cầu sản xuất lắp đặt gương kính vào các loại tủ, giường hay trang trí cho các xe bán mì, hủ tiếu của người Hoa.”

Theo đó, tranh tôn giáo thờ cúng nổi trội với chủ đề Phật giáo, tranh độ mạng, thờ tổ tiên bằng tranh sơn thủy, tranh chữ, v.v. Sự thịnh hành của tranh kiếng đã giúp nó trở thành dòng tranh trang trí chủ đạo cho các đình chùa, đền miếu, thậm chí cả nhà thờ ở miền Nam. Nhờ sự thịnh hành ấy, chẳng khó để thấy tranh kiếng trong các gian nhà cổ thờ tổ tiên hay đình chùa ở Nam Bộ. Người treo tranh kiếng trong nhà quý tranh như một nét tâm linh thờ phụng, lựa chọn những mẫu tranh phù hợp để cầu bình an, tài lộc và luôn lau chùi cẩn thận mỗi dịp Tết đến Xuân về.

Xe mì Giang Lâm Ký ở chợ Tân Định đã tồn tại qua nhiều thế hệ. Nguồn ảnh: VnExpress.

Như xe mì của có tranh kiếng vẽ các tích xưa như Hằng Nga bôn nguyệt hay Tiên nữ hiến đào. Thú vị không kém là các xe bán sâm bổ lượng, với tranh vẽ nhiều các tích trong Tam Quốc chí: Lữ Bố hí Điêu Thuyền, Hứa Chử cởi áo đánh Mã Siêu (Hứa Chử là viên đại tướng của Tào Tháo, còn Mã Siêu là một trong Ngũ hổ tướng của Lưu Bị).

Tất cả cho thấy tranh kiếng đã len lỏi vào mọi ngóc ngách đời sống, thấm đẫm trong ký ức người Nam Bộ xưa.

Vẽ tranh kiếng thế nào?

Tuy là một dòng tranh rất phổ biến như thế, nhưng kỹ thuật vẽ tranh kiếng không hề đơn giản. Nếu vẽ trên giấy đã khó, thì việc tạo tác trên kiếng lại đòi hỏi sự tỉ mỉ gấp bội. Để làm nên những bức tranh kiếng sống động, sắc nét, người nghệ nhân không chỉ cần sự khéo léo mà còn phải có tư duy thẩm mỹ cao, bởi tranh kiếng khác biệt hoàn toàn so với các loại tranh thông thường. Điểm đặc trưng và cũng là sự cầu kỳ của dòng tranh này nằm ở kỹ thuật vẽ ngược, tức là vẽ từ mặt sau của tấm kiếng. Chi tiết nào sau cùng, thì được vẽ đầu tiên nên mà những người thợ hay nói vui là nghề này “đi sau về trước” là vậy.

Kỹ thuật vẽ ngược. Nguồn ảnh: Báo An Giang.

Theo quy trình sáng tác truyền thống, nghệ nhân sử dụng bột màu trộn với dầu cây du đồng để vẽ ngược lên mặt sau tấm kiếng. Khi hoàn thành và lật mặt kiếng lại, ta sẽ thấy bức tranh trọn vẹn. Quy trình làm tranh kiếng bắt đầu từ khâu tạo mẫu. Nghệ nhân sẽ vẽ phác thảo lên giấy can, ni-lông trong hoặc bìa cứng, sau đó đặt dưới mặt sau tấm kiếng để sao chép hình ảnh. Những mẫu tranh này có thể do nghệ nhân sáng tạo hoặc lấy từ tranh ảnh có sẵn. Với những nghệ nhân lành nghề hoặc khi vẽ các hình đơn giản, họ có thể trực tiếp phác họa lên tấm kiếng mà không cần bản mẫu. Công đoạn này còn được gọi là “tỉa tách,” riêng nghệ nhân Khmer gọi là “bắc chỉ.”

Sau đó, tranh được phơi khô, rồi nghệ nhân dùng cọ bẹt khổ trung để tán màu từng chi tiết. Việc tán màu trong tranh kiếng tuân theo nguyên tắc đặc trưng: vật thể ở tiền cảnh được tô màu trước, hậu cảnh tô sau. Theo truyền thống của người Hoa, màu sắc dùng trong tranh kiếng là bột màu hòa cùng dầu cây du đồng. Tuy nhiên, ngày nay, hầu hết nghệ nhân sử dụng sơn Bạch Tuyết hoặc sơn dầu để tạo nên những tác phẩm tranh kiếng vừa tiện lợi vừa bền đẹp hơn.

Ai vẫn còn lưu giữ những nét cọ của nghề truyền thống?

Điều khiến tôi tự hào nhất chính là truyền thống cha truyền con nối bao đời nay, khi có những nghệ nhân tài hoa chưa từng học qua bất kỳ lớp mỹ thuật hay hội họa nào. Họ chỉ dựa vào kinh nghiệm gia đình, sự cần cù trong lao động, kết hợp nhuần nhuyễn giữa sự khéo léo, óc thẩm mỹ và tinh thần sáng tạo không ngừng của nhiều thế hệ để tạo nên những thương hiệu tranh kiếng nổi tiếng khắp nơi.

Thật đáng buồn khi ngày nay, những bức tranh kiếng được cung cấp ra thị trường rất có thể là sản phẩm của máy móc hiện đại. Với sự phát triển của công nghệ, tranh kiếng phần lớn được sản xuất bằng kỹ thuật phun hoặc kéo lụa. Dù phương pháp này giúp màu sắc tranh sinh động hơn và giá thành chỉ bằng 1/3 so với tranh kiếng truyền thống, nhưng cũng chính điều đó đã khiến nghề vẽ tranh kiếng dần mai một. Hơn nữa, quy trình làm tranh phụ thuộc nhiều vào thời tiết, cần có nắng để phơi tranh, trong khi thu nhập từ nghề lại không đủ để nuôi sống người thợ, khiến họ dần rời xa công việc này.

Bà Trần Tiên, chủ tiệm tranh kiếng vẽ tay Vĩnh Huê ở Chợ Lớn. Nguồn ảnh: Báo Thanh Niên.

Vì thế, tôi càng ngưỡng mộ những nghệ nhân vẫn kiên trì bám trụ, giữ gìn nghề truyền thống một cách bền bỉ. Với họ, đó không chỉ là kế sinh nhai mà còn là di sản gia đình, là giá trị văn hóa cần được bảo tồn. Như làng tranh kiếng Bà Vệ ở An Giang, từng nổi tiếng khắp miền Tây Nam Bộ, nay những nghệ nhân đời thứ ba vẫn duy trì cách vẽ thủ công để giữ nghề. 

Còn tại khu Chợ Lớn (Sài Gòn) — nơi từng được xem là cái nôi của tranh kiếng Nam Bộ — giờ đây chỉ còn một, hai hộ cuối cùng tiếp tục vẽ tranh kiếng theo lối thủ công. Nổi tiếng hơn cả là tiệm tranh kiếng Vĩnh Huê, nơi mà những người thợ cuối cùng vẫn miệt mài bên những bức tranh đang dang dở, như thể đang vẽ nên những mảng ký ức đẹp của một thời vàng son.

Tranh kiếng không còn là nghề thủ công phổ biến như vài chục năm trước, khi mỗi nhà đều làm, mỗi nhà đều treo tranh. Nhưng những bức tranh đầy sắc màu rực rỡ vẫn tồn tại qua năm tháng, như một lời nhắc nhở thế hệ sau về tầm quan trọng của việc bảo tồn văn hóa truyền thống. Đã có những cuộc triển lãm được tổ chức, trưng bày những tấm tranh kiếng xưa nhất từ năm 1920 của người Việt, Hoa, hay Khmer. Những workshop tranh kiếng cũng ra đời từ đó, như một cách để giới trẻ dấn thân vào hành trình trở thành nghệ nhân truyền thống giữa nhịp sống hiện đại hối hả.

Triển lãm trang kiếng tại TP. HCM. Nguồn ảnh: Báo Phụ Nữ.

Tôi không biết những bức tranh kiếng sẽ còn được lưu giữ bao lâu nữa, cũng không biết những người thợ yêu nghề sẽ còn bền bỉ bám trụ đến khi nào. Tôi chỉ biết rằng mình vẫn luôn yêu quý những bức tranh kiếng trên bàn thờ tổ tiên. Bởi tôi tin rằng, khi còn có người yêu tranh kiếng, dù chúng không còn hiện diện nhiều như xưa, nhưng nét đẹp truyền thống vẫn sẽ mãi được lưu giữ, nhắc nhở chúng ta về giá trị của một di sản nghệ thuật mà thế hệ sau cần tìm cách bảo tồn và phát triển.

Bài viết liên quan

in Âm Nhạc & Nghệ Thuật

Từ New Orleans đến Sài Gòn: Lược sử kèn tây đám ma tại Việt Nam

Trong tất cả các thể loại âm nhạc đến từ đường phố Sài Gòn, những giai điệu đặc trưng của đội kèn tây đi kèm đám rước tang có lẽ là dễ nhận diện nhất.

in Văn Hóa

Đi 'Bách Bộ,' lần theo dấu tích lịch sử người Hoa qua các di sản kiến trúc Chợ Lớn

“'Bách Bộ' nghĩa là từ từ bước đi, thong thả ngắm nhìn. Đi như thế là khi thảnh thơi để cảm nhận đời sống. Đi với chủ đích chứ không phải chỉ đến một nơi nào đó. Để hòa vào đường phố và thấu hiểu lớp ...

in Âm Nhạc & Nghệ Thuật

'Vietnam Retropunk': Dự án minh họa mang vũ trụ máy móc vào giữa lòng phố cổ

Những chú robot và cỗ máy tinh vi xuất hiện giữa khung cảnh phố phường cổ kính — quá khứ và tương lai đã bắt tay nhau như thế qua thế giới của “Vietnam Retropunk."

in Âm Nhạc & Nghệ Thuật

Chuyến du hành ngược thời gian qua triển lãm cá nhân của họa sĩ Lưu Công Nhân

Buổi triển lãm cá nhân đưa người xem vào chuyến du hành thời gian đến thế giới của cố họa sĩ Lưu Công Nhân. Từ những bức vẽ màu nước đến những bức tranh khổ lớn, xấp tài liệu cũ, và cả chiếc máy đánh ...

in Văn Hóa

Lắng nghe hồn quê Nam Bộ qua điệu đờn ca tài tử miệt vườn

“Không phải là điều gì xa lạ nhưng cũng vài năm không nghe lại, giờ vô tình bắt gặp cảnh quê làm tôi thấy mê cái điệu đờn ca tài tử của miền Tây mình vô cùng.”

in Di Sản

Trở về Sài Gòn thập niên 1990 qua thước phim 'Người Tình' và ký ức của Marguerite Duras

Khi chuyển thể tiểu thuyết L'Amant (Người Tình) của Marguerite Duras thành phim, đạo diễn người Pháp Jean-Jacques Annaud đã tận dụng nhiều bối cảnh tại Sài Gòn để quay hình. Dưới đây là một số địa dan...