Sài·gòn·eer

Back Di Sản » Lịch sử hào hùng đằng sau 6 nữ anh hùng dân tộc được đặt tên đường ở Sài Gòn

Nếu chịu khó để ý, bất cứ nơi nào ta đặt chân đến cũng có thể mang lại nhiều kiến thức bất ngờ. Ngay cả chuyến đi hóng mát vòng quanh thành phố cũng là cơ hội để chính người Sài Gòn biết thêm về lịch sử quê hương mình — chỉ cần ngước mắt nhìn lên những tấm biển chỉ đường xanh biếc xung quanh.

Nhân dịp Ngày Quốc tế Phụ nữ, Saigoneer muốn giới thiệu cho bạn đọc những câu chuyện thú vị về cuộc đời, tình yêu và cả kết cục trầm mặc của những nữ nhân nổi bật trong kho tàng lịch sử Việt Nam. So với tên của các yếu nhân là nam giới, phái nữ chiếm tỉ trọng ít hơn trên bản đồ đường phố Sài Gòn, dù có rất nhiều trục đường giao thông huyết mạch được đặt tên theo nữ anh hùng hay thi sĩ.

Vài nhân vật trong số đó — như Trưng Trắc-Trưng Nhị, Bà Triệu, hay Hồ Xuân Hương — rất phổ biến trong văn hóa đại chúng, đến mức vượt khỏi biên giới nước ta để đi vào vũ trụ game nước ngoài, nhưng trái ngược lại, ít ai trong chúng ra biết đến công trạng, tiểu sử của những nữ anh hùng nhân dân ít được nhắc đến hơn như Út Tịch hay Nguyễn Thị Định. Trong bài viết này, Saigoneer trân trọng giới thiệu đến độc giả 6 nữ anh hùng dẫu ít được biết đến hơn, nhưng vẫn để lại dấu ấn trên những con đường tấp nập Sài Gòn.

1. Cô Giang-Cô Bắc

Sinh ra trong gia đình có bảy anh chị em, Nguyễn Thị Giang (Cô Giang) và Nguyễn Thị Bắc (Cô Bắc) được cha mẹ đặt tên theo quê hương Bắc Giang. Hai chị em học xong lớp nhất thì được Nguyễn Khắc Nhu kết nạp vào Việt Nam Dân Quốc, sau này hợp thành Việt Nam Quốc dân Đảng, tham gia đấu tranh đánh đuổi thực dân Pháp ở miền Bắc. Trong quá trình sinh hoạt cách mạng, Cô Giang gặp gỡ và đem lòng yêu Nguyễn Thái Học. Trong một lần đi công tác ngang Phú Thọ, đôi trẻ ghé vào Đền Hùng, đứng trước đền thờ Tổ để thề hẹn uyên ương.

Trong tổ chức, Cô Giang và Cô Bắc được giao nhiệm vụ tuyên truyền, làm binh vận, và giao liên giữa các cơ sở đảng ở các tỉnh Bắc Bộ. Năm 1930, khởi nghĩa Yên Bái nổ ra, mục tiêu đánh vào các đô thị và điểm yếu quân sự của người Pháp nhưng thất bại. Nguyễn Thái Học, Cô Bắc cùng các chiến sĩ nòng cốt đã bị bắt. Cô Giang nung nấu ý định cướp ngục Hỏa Lò để giải cứu cho hôn phu và em gái, nhưng bất thành: Nguyễn Thái Học bị lính pháp xử chém vào cùng năm đó, còn Cô Bắc trải qua 6 năm trong tù trước khi được thả vào năm 1936. Sau khi Nguyễn Thái Học mất, Cô Giang trở về quê chồng để tạ từ cha mẹ chồng, tháo chiếc đồng hồ có khắc chữ “G” tặng lại cho em chồng. Cô Giang rời khỏi làng, và sau đó tự sát bằng chính cây súng lục mà chồng đã tặng cô ngày đính hôn.

Ngày nay ở Sài Gòn, Cô Giang và Cô Bắc là hai con đường chạy song song nhau ngay tại phường Cô Giang, Quận 1. Chúng đều giao nhau với đường Nguyễn Thái Học, như gợi nhớ về mối thâm tình ngày xưa giữa 3 người.

2. Út Tịch

Được biết đến rộng rãi qua biệt danh “Người mẹ cầm súng,” bà Nguyễn Thị Út sinh ra tại Trà Vinh vào năm 1931 trong một gia đình nghèo khó, phải đi làm mướn cho một địa chủ trong vùng. Nhờ sự giúp đỡ của lực lượng Việt Minh, Út được địa chủ chuộc thân, thoát cảnh phải đi ở đợ, nên ngay từ khi còn là thiếu niên, bà đã mong muốn gia nhập kháng chiến, được giao công việc làm giao liên cho các cán bộ.

Đầu năm 1950, Út lập gia đình cùng ông Lâm Văn Tịch, một người Việt gốc Khmer và cũng là chiến sĩ Việt Minh, từ đó danh xưng Út Tịch ra đời. Sau Hiệp định Genève 1954, vợ chồng bà không tập kết ra Bắc mà ở lại miền Nam, tiếp tục sinh sống. Tuy nhiên, do chính sách chống cộng của chính quyền cũ, gia đình bà thường bị bắt bớ vì liên quan đến kháng chiến. Để yên ổn, cả gia đình chuyển về Cái Sách, Hậu Giang làm ăn. Hai vợ chồng có với nhau 8 người con, nhưng vào năm 1968, trong một trận rải thảm B52 của quân đội Mỹ xuống Châu Đốc, Út Tịch và người con gái thứ 3 bị thương nặng và hy sinh, chỉ vài tuần sau khi đứa con út của bà chào đời.

Trên bản đồ Sài Gòn ngày nay, đường Út Tịch tọa lạc ở Tân Bình, nối Kênh Nhiêu Lộc với đường Cộng Hòa.

3. Nguyễn Thị Định

Bà Nguyễn Thị Định sinh năm 1920 trong một gia đình thuần nông ở Bến Tre với truyền thống cách mạng. Anh trai bà, Ba Chẩn, hoạt động kháng chiến từ nhỏ tại nhà cùng các bạn, nên cô bé Định đã sớm nung nấu ý chí kháng Pháp từ nhỏ. Đến tuổi cập kê, dù có nhiều gia đình trong vùng đánh tiếng dạm ngõ, nhưng Định vẫn một lòng nuôi mơ ước được tham gia kháng chiến. Trước sức ép phải lấy chồng của gia đình, các anh giới thiệu cho Định anh Ba Bích, một trong những người bạn đồng chí hướng với Ba Chẩn. Anh Bích cầu hôn ngay sau lần gặp mặt và được gia đình đồng ý, nhưng trong thời buổi loạn lạc, hai người bên nhau không được lâu thì Ba Bích bị Pháp bắt giam, đày ra Côn Đảo năm 1940 và hy sinh ở đó. Sáu tháng sau, Định cũng bị giam ở Bà Rá, nhưng vì bệnh tim trở nặng, bà được trả về quê năm 1943, chịu sự quản thúc của chính quyền địa phương.

Chỉ một năm sau đó, bà nhanh chóng quay lại hàng ngũ cách mạng và tham gia khởi nghĩa lật đổ chính quyền ở Bến Tre năm 1945. Đến năm 1960, bà dẫn đầu lực lượng quần chúng toàn nữ mang tên “Đội quân tóc dài,” giành quyền kiểm soát cho các xã trên toàn tỉnh, châm ngòi cho phong trào Đồng Khởi ở miền Nam. Sau cuộc khởi nghĩa, bà trở thành một trong những thành viên sáng lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Chủ tịch Mặt trận Giải phóng tỉnh Bến Tre. Đến năm 1974, Nguyễn Thị Định được phong quân hàm Thiếu tướng quân đội nhân dân Việt Nam.

Ngày nay, đường Nguyễn Thị Định thuộc địa phận TP. Thủ Đức, nối bến phà Cát Lái và nút giao An Phú.

4. Sương Nguyệt Anh

Nguyệt Anh là bút danh của Nguyễn Ngọc Khuê, con gái thứ năm của thi hào Nguyễn Đình Chiểu. Sinh năm 1864 tại Bến Tre, bà nhanh chóng thông thạo chữ Hán và chữ Nôm nhờ truyền thống văn chương lâu đời của gia đình. Năm 1888, cha mất, bà cùng gia đình người anh chuyển về Mỹ Tho sống, rồi sau đó lập gia đình và hạ sinh một con gái. Khi con được hai tuổi, chồng bà qua đời. Từ đó bà thủ tiết nuôi con, thờ chồng và mở trường dạy chữ Nho cho đám trẻ trong vùng. Bà thêm chữ “Sương” trước bút hiệu Nguyệt Anh, mang ý nghĩa “Góa phụ Nguyệt Anh.”

Năm 1917, bà được mời làm chủ bút của tờ Nữ Giới Chung (mang nghĩa “tiếng chuông của nữ giới”), một tờ báo mang sứ mệnh tiến bộ, cổ vũ nâng cao dân trí, phát triển nông công thương, và bàn luận những vấn đề bình đẳng giới. Đây là tờ báo đầu tiên ở Việt Nam vào lúc bấy giờ chú trọng đến việc tuyên truyền nữ công, đức hạnh phụ nữ và phê phán những gông cùm xoay quanh nữ giới. Chỉ trong thời gian ngắn, Nữ Giới Chung mau chóng được đón nhận bởi độc giả, tầm ảnh hưởng của báo đánh động mật thám Pháp, khiến tờ báo bị chính quyền Pháp đình bản chỉ 1 năm sau đó.

Cùng lúc đó, con gái của Nguyệt Anh sinh con đầu lòng và qua đời vì biến chứng sinh nở, còn bà cũng phát bệnh về mắt khiến thị lực ngày càng suy giảm. Bà quyết định bồng cháu ngoại về quê ở Bến Tre để chữa trị, nhưng chỉ sau một thời gian, mắt bà cũng trở nên mù lòa hẳn. Dẫu vậy, nơi quê nhà, bà vẫn tiếp tục công việc bốc thuốc, dạy chữ, và sáng tác thơ văn sôi nổi cho đến khi qua đời vào năm 1922, hưởng thọ 58 tuổi — được người đời nhớ đến như một đầu tàu tiên phong về bình đẳng giới và công cuộc trau dồi trí thức ở Việt Nam.

Suốt nhiều thập kỉ, Sài Gòn vẫn dành một con đường mang tên bà, nhưng bị viết sai thành “Sương Nguyệt Ánh.” Dù sau này, các biển chỉ đường đã được đính chính, lỗi chính tả này đã đi sâu vào ký ức và thói quen của người dân thành phố.

5. Lê Chân

Lê Chân (20–43 SCN) là một nữ tướng nức tiếng một thời, từng sát cánh bên Hai Bà Trưng trong cuộc khởi nghĩa của hai bà chống lại quân xâm lược phía Bắc. Bà sinh ra tại Yên Biên (ngày nay thuộc tỉnh Quảng Ninh) trong gia đình có cha làm thầy thuốc, còn mẹ nổi tiếng với nghề trồng dâu, nuôi tằm, dệt lụa. Dân gian truyền lại rằng, sự ra đời của bà đã được thần linh báo mộng: một nàng tiên trên thiên cung phạm tội, phải chịu hình phạt đầu thai làm con người trong vòng 40 năm, nhưng sẽ lớn lên thành bậc nữ tướng dũng mãnh không ai sánh bằng, đem vinh quang về cho gia đình.

Đúng như lời tiên đoán, Lê Chân lớn lên với dung mạo thanh tú, trí tuệ sắc sảo, tinh thông võ thuật. Sau khi cả ba mẹ bị hại chết, bà rời quê nhà đến vùng đất nay là Hải Phòng lập trại khai hoang, phát triển nông nghiệp, dệt lụa, đánh bắt thủy sản, đồng thời chiêu mộ trai tráng trong vùng để huấn luyện võ thuật, thành lập binh lính. Đến năm 40 SCN, khi Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa, bà và các chiến binh của mình nhanh chóng hưởng ứng, cùng hai bà đánh đuổi binh đoàn phương Bắc của Thái thú Tô Định. Trưng Trắc được suy tôn làm Trưng Vương, còn Bà Lê Chân được phong làm Thánh Chân công chúa, đảm đương công việc cai quản, huấn luyện binh lính, gia tăng sản xuất.

Năm 43 SCN, nhà Hán phản công với lực lượng tinh nhuệ, hùng hậu. Dù Hai Bà Trưng và dân quân anh dũng chống trả, quân ta vẫn thất thủ, hai bà phải lui về Cẩm Khê khi bị giặc truy đuổi. Để giữ trọn khí tiết, hai bà gieo mình xuống sông Hát tự vẫn. Về phần Bà Lê Chân, sau khi lui về Lạt Sơn (nay thuộc Hà Nam) để củng cố lực lượng, cũng bị quân địch tấn công. Cuối cùng, bà leo lên núi Giát Dâu, và gieo mình xuống vực, quyết không khuất phục.

Thời nay, bà thường được gọi bằng danh xưng Bà Lê Chân, người đã khai sinh ra Hải Phòng. Ở Sài Gòn, đường Bà Lê Chân giao nhau với Hai Bà Trưng, như một cách người dân nhớ về tình giao hảo giữa bộ ba nữ tướng anh dũng ngày xưa. 

Bài viết liên quan

in Trích or Triết

Bàn về sự giáo dục phụ nữ trong Nam Phong tạp chí qua ngòi bút Phạm Quỳnh

Đầu thế kỷ 20 ở nước ta, sự du nhập của văn hóa phương Tây cùng với cái nền sẵn có của văn hóa phương Đông đã tạo nên nhiều cuộc tranh luận ở nhiều lĩnh vực, trong đó có giáo dục. Thứ nhất, An Nam là ...

in Di Sản

Câu chuyện lịch sử đằng sau 'Nhà Thờ Hồng' của Tân Định

Ở Sài Gòn, có lẽ ai cũng đã từng nghe danh Nhà thờ Tân Định với màu hồng vô cùng đặc trưng. Tuy nhiên, ít ai biết rằng đằng sau vẻ ngoài ấn tượng, công trình là còn là một trong những thánh đường Công...

in Màn Ảnh

Phụ nữ trong điện ảnh sau Đổi Mới: Từ công cụ tuyên truyền đến hình tượng đa chiều sâu

Hình ảnh người phụ nữ từ lâu đã được các nhà làm phim sử dụng để đại diện cho những điều mang tính tầm vóc hơn là câu chuyện cá nhân.

in Di Sản

Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam: Kho tàng lịch sử hào hùng qua lăng kính mới

Lúc bàn với ban biên tập Saigoneer về ý tưởng viết bài về Bảo tàng Lịch sử Quân sự Việt Nam ở Hà Nội, tôi đã nghĩ chắc nó cũng sẽ chẳng có gì quá đặc biệt.

in Di Sản

Chuyện về Marie đệ nhất, tên gian hùng trở thành 'quốc vương' Tây Nguyên

Lịch sử thế giới ghi nhận không ít câu chuyện về những đức vua Tây Âu với vương triều ngắn ngủi ở Đông Á. Ta có thể kể đến James Brooke, quốc vương (rajah) da trắng đầu tiên của Ấn Độ — người đã ...

in Di Sản

Chuyện về Nguyễn Thị Định, nữ tướng khăn rằn của Quân đội cách mạng Việt Nam

Nằm khuất mình trong con hẻm nhỏ ở quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, ngôi nhà của cố Thiếu tướng Nguyễn Thị Định vẫn lưu giữ nhiều kỷ vật về vị nữ tướng đầu tiên của Quân đội Nhân dân Việt Nam.